Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo;
Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, căn cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ phát huy;
Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi hoạt động Quốc gia;
Chúng tôi, Dân biểu Quốc hội Lập hiến:
Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan;
Nguyện vọng ấy là:
Củng cố Độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị;
Bảo vệ tự do cho mỗi người và cho dân tộc;
Xây dựng dân chủ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị;
Ý thức rằng quyền hưởng tự do chỉ được bảo toàn khi năng lực phục tùng lý trí và đạo đức, khi nền an ninh tập thể được bảo vệ và những quyền chính đáng của con người được tôn trọng;
Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện.
Sau khi thảo luận, chấp nhận bản Hiến pháp sau đây:
THIÊN THỨ NHẤT: Điều khoản căn bản
Điều 1
Việt Nam là một nước Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.
Điều 2
Chủ quyền thuộc về toàn dân.
Điều 3
Quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng thống dân cử, và nhiệm vụ lập pháp cho Quốc hội cũng do dân cử.
Sự phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt. Hoạt động của các cơ quan hành pháp và lập pháp phải được điều hòa.
Tổng thống lãnh đạo Quốc dân.
Điều 4
Hành pháp, lập pháp, tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ Tự do, Dân chủ, chính thể cộng hòa, và trật tự công cộng. Tư pháp phải có một quy chế bảo đảm tính cách độc lập.
Điều 5
Mọi người dân không phân biệt nam nữ sinh ra bình đẳng về phẩm cách, quyền lợi, và nhiệm vụ, và phải đối xử với nhau theo tinh thần tương thân tương trợ.
Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của con người trong cương vị cá nhân, hay trong cương vị tập thể.
Quốc gia cố gắng tạo cho mọi người những cơ hội đồng đều và những điều kiện cần thiết để thụ hưởng quyền lợi và thực hành nhiệm vụ.
Quốc gia tán trợ sự khuếch trương kinh tế, phát huy văn hóa, khai triển khoa học và kỹ thuật.
Điều 6
Người dân có những nhiệm vụ đối với tổ quốc, với đồng bào, mục đích là để thực hiện sự phát triển điều hòa và đầy đủ nhân cách của mọi người.
Điều 7
Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp.
Điều 8
Nước Việt Nam Cộng hòa chấp nhận những nguyên tắc quốc tế pháp không trái với sự thực hiện chủ quyền Quốc gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Quốc gia cố gắng góp phần xây dựng và bảo vệ nền an ninh và hòa bình quốc tế cùng duy trì và phát triển sự liên lạc thân hữu giữa các dân tộc trên căn bản tự do và bình đẳng.
THIÊN THỨ HAI: Quyền lợi và nhiệm vụ người Dân
Điều 9
Mọi người dân đều có quyền sinh sống tự do và an toàn.
Điều 10
Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ tù đày, một cách trái phép.
Trừ trường hợp phạm pháp quả tang, chỉ có thể bắt giam khi có câu phiếu của cơ quan có thẩm quyền, trong trường hợp và theo hình thức luật định. Theo thể thức luật định các bị can về tội đại hình hoặc tiểu hình có quyền lựa chọn hoặc yêu cầu chỉ định người biện minh cho mình.
Điều 11
Không ai có thể bị tra tấn hoặc chịu những hình phạt hay những cách đối xử tàn bạo, bất nhân, hoặc làm mất phẩm cách.
Điều 12
Đời tư, gia đình, nhà cửa, phẩm giá, và thanh danh của mọi người dân phải được tôn trọng.
Tánh cách riêng tư của thư tín không thể bị xâm phạm, trừ khi có lệnh của Tòa án hoặc khi bảo vệ an ninh công cộng hay duy trì trật tự chung.
Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những đe dọa hoặc xâm phạm trái phép.
Điều 13
Mọi người dân có quyền tự do đi lại và cư trú trên lãnh thổ Quốc gia, ngoại trừ trường hợp luật pháp ngăn cấm vì duyên cơ vệ sinh hay an ninh công cộng.
Mọi người dân có quyền tự do xuất ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do anh ninh quốc phòng, kinh tế, tài chánh hay lợi ích công cộng.
Điều 14
Mọi người dân đều có quyền và có bổn phận làm việc. Việc làm như nhau, tiền công bằng nhau.
Người làm việc có quyền hưởng thù lao xứng đáng đủ để bảo đảm cho bản thân và cho gia đình một đời sống hợp với nhân phẩm.
Điều 15
Mọi người dân đều có quyền tự do tư tưởng và trong khuôn khổ luật định, có quyền tự do hội họp và lập hội.
Điều 16
Mọi người dân có quyền tự do ngôn luận. Quyền này không được dùng để vu cáo, phỉ báng, xâm phạm đến nền đạo lý công cộng, hô hào nổi loạn, hoặc lật đổ chính thể Cộng hòa.
Mọi người dân đều được hưởng quyền tự do báo chí để tạo thành một dư luận xác thực và
Điều 17
Mọi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, tự do hành giáo, và tự do truyền giáo, miễn là sử dụng quyền ấy không trái với luân lý và thuần phong mỹ tục.
Điều 18
Theo thể thức và điều kiện luật định, mọi người dân đều có quyền bầu cử, ứng cử, tham gia điều khiển việc công hoặc trực tiếp, hoặc do những đại diện của mình.
Điều 19
Mọi người dân đều có quyền tham gia công vụ tùy theo năng lực trên căn bản bình đẳng.
Điều 20
Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu. Luật pháp ấn định thể thức thủ đắc và hưởng thụ để ai ai cũng có thể trở thành sở hữu chủ và để bảo đảm cho con người đời sống xứng đáng và tự do, đồng thời xây dựng nền thịnh vượng xã hội.
Trong những trường hợp luật định và vợi điều kiện có bồi thường, Quốc gia có thể trưng thu tài sản vì công ích.
Điều 21
Quốc gia tán trợ việc nhân dân sử dụng của đẻ dành để thủ đắc nhà ở, ruộng cày, và cổ phần trong các xí nghiệp.
Điều 22
Mọi người dân đều có quyền tổ chức những hợp tác kinh tế, miễn là không có mục đích chiếm trái phép để đầu cơ và thao túng kinh tế.
Quốc gia khuyến khích và tán trợ sự hợp tác có tính cách tương trợ và không có mục đích đầu cơ.
Quốc gia không thừa nhận chế độ độc quyền kinh doanh hoặc độc chiếm, ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu quốc phòng, an ninh, hay vì lợi ích công cộng.
Điều 23
Quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được công nhận và sử dụng theo thể thức và điều kiện luật định.
Công chức không có quyền đình công.
Quyền đình công không được thừa nhận đối với nhân viên và công nhân trong các ngành hoạt động liên quan đến quốc phòng, an ninh công cộng, hoặc các nhu cầu cần thiết của đời sống tập thể.
Một đạo luật sẽ ấn định những ngành hoạt động kể trên và đảm bảo cho nhân viên và công nhân các ngành này một quy chế đặc biệt, mục đích là để bảo vệ các nhân viên và công nhân trong các ngành ấy.
Điều 24
Trong giới hạn của khả năng và sự phát triển kinh tế Quốc gia sẽ ấn định những biện pháp cứu trợ hữu hiệu trong các trường hợp thất nghiệp, già yếu, bệnh tật, thiên tai hoặc những cảnh hoạn nạn khác.
Điều 25
Quốc gia công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Quốc gia khuyến khích, nâng đỡ sự thành lập gia đình, sự thực hiện sứ mạng gia đình, nhất là trong sự thai nghén, sinh đẻ, dưỡng dục hài nhi.
Quốc gia tán trợ sự thuần nhứt của gia đình.
Điều 26
Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí.
Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn.
Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn.
Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định.
Quốc gia có thể công nhận các trường tư thục đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận.
Điều 27
Mọi người đều có quyền tham gia hoạt động văn hóa và khoa học, cùng hưởng thụ nghệ thuật và lợi ích của những tiến bộ kỹ thuật.
Tác giả được pháp luật bảo vệ những quyền lợi tinh thần và vật chất liên quan tới mọi phát minh khoa học, sáng tác văn chương hoặc nghệ thuật.
Điều 28
Quyền của mỗi người dân được sử dụng theo những thể thức và điều kiện luật định.
Quyền của mỗi người dân chỉ chịu những sự hạn chế do luật định đẻ tôn trọng quyền của những người khác cùng là thỏa mãn những đòi hỏi đích đáng của sự an toàn chung, nền đạo lý, trật tự công cộng, quốc phòng.
Ai lạm dụng các quyền được công nhận trong Hiến pháp để phá hoại chánh thể Cộng hòa, chế độ Dân chủ, Tự do và nền Độc lập, Thống nhứt Quốc gia sẽ bị truất quyền.
Điều 29
Mọi người dân đều có nhiệm vụ tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp và Luật pháp.
Mọi người dân đều có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chính thể Cộng hòa, nền tự do, dân chủ.
Ai ai cũng phải làm tròn nhiệm vụ quân dịch theo thể thức và trong giới hạn luật định.
Mọi người dân đều có nhiệm vụ góp phần vào sự chi tiêu công cộng tùy theo khả năng đóng góp của mình.
THIÊN THỨ BA: Tổng thống
Điều 30
Tổng thống được bầu theo lối đầu phiếu phổ thông trực tiếp và kín, trong một cuộc tuyển cử mà cử tri toàn quốc được tham gia. Một đạo luật sẽ quy định thể thức bầu cử Tổng thống.
Phó Tổng thống được bầu một lần với Tổng thống chung một danh sách.
Điều 31
Có quyền ứng cử Tổng thống và Phó Tổng thống những công dân hội đủ các điều kiện sau đây:
1.Sinh trên lãnh thổ Việt Nam và có quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi mới sinh, hoặc đã hồi phục Việt tịch trước ngày ban hành Hiến pháp.
2.Cư ngụ trên lãnh thổ Quốc gia một cách liên tục hay không trong một thời gian ít nhất 15 năm.
3.Đủ 40 tuổi.
4.Hưởng các quyền công dân.
Chức vụ Tổng thống và Phó Tổng thống không thể kiêm nhiệm với bất cứ một hoạt động nào trong lãnh vực tư dù có thù lao hay không.
Điều 32
Nhiệm kỳ Tổng thống và Phó Tổng thống là năm năm. Tổng thống và Phó Tổng thống có thể được tái cử hai lần nữa.
Điều 33
Nhiệm kỳ Tổng thống và Phó Tổng thống chấm dứt đúng 12 giờ trưa ngày cuối cùng tháng thứ sáu mươi kể từ ngày tựu chức và nhiệm kỳ của Tân Tổng thống và Tân Phó Tổng thống bắt đầu lúc ấy.
Nhiệm vụ Tổng thống và Phó Tổng thống có thể chấm dứt trước kỳ hạn, trong những trường hợp sau đây:
1.Mệnh chung.
2.Vì bịnh tật trầm trọng và kéo dài, không còn năng lực để chấp chưởng quyền hành và làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực này phải được Quốc hội xác nhận với đa số 4/5 tổng số Dân biểu sau các cuộc giám định và phản giám định y khoa.
3.Từ chức, và sự từ chức này phải được thông đạt cho Quốc hội.
4.Bị truất quyền do quyết định của Đặc biệt Pháp viện chiếu Điều 81.
Điều 34
Cuộc bầu cử Tân Tổng thống và Tân Phó Tổng thống sẽ cử hành vào ngày chủ nhật, ba tuần lễ trước khi nhiệm kỳ của Tổng thống tại chức chấm dứt.
Trong trường hợp nhiệm vụ Tổng thống chấm dứt trước kỳ hạn, Phó Tổng thống sẽ đảm nhiệm chức vụ Tổng thống cho đến hết nhiệm kỳ.
Trong trường họp dự liệu ở đoạn trên, nếu không có Phó Tổng thống, hoặc nếu Phó Tổng thống, vì một lý do gì, không thể đảm đương nhiệm vụ, Chủ tịch Quốc hội tạm thời đảm nhiệm chức vụ Tổng thống để xử lý thường vụ và tổ chức một cuộc bầu cử Tân Tổng thống và Tân Phó Tổng thống trong thời hạn tối đa hai tháng. Trong trường hợp này, đệ nhất Phó Chủ tịch Quốc hội quyền nhiếp chức vụ Chủ tịch Quốc hội.
Điều 35
Tổng thống ký kết, và sau khi được Quốc hội chấp thuận, phê chuẩn các điều ước và hiệp định quốc tế.
Tổng thống bổ nhiệm các sứ thần, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao, thay mặt Quốc gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc.
Điều 36
Với sự thỏa thuận của một nửa tổng số Dân biểu Quốc hội, Tổng thống tuyên chiến hoặc phê chuẩn hòa ước.
Điều 37
Tổng thống bổ nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân sự và quân sự theo thủ tục luật định, ngoại trừ những trường hợp mà Hiến pháp ấn định một thủ tục đặc biệt.
Tổng thống là Tổng tư lệnh tối cao của các lực lượng quân sự.
Tổng thống ban các loại huy chương.
Tổng thống sử dụng quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt, và huyền án.
Điều 38
Trong trường hợp chiến tranh hoặc nội loạn, những chức vụ dân cử định trong Hiến pháp sẽ đương nhiên được gia hạn khi mãn nhiệm kỳ.
Trong trường hợp một đơn vị bầu cử bị đặt trong tình trạng khẩn cấp, báo động, hoặc giới nghiêm, Tổng thống có thể gia hạn nhiệm kỳ dân biểu đơn vị ấy.
Tuy nhiên, cuộc bầu cử toàn bộ hay cục bộ phải được tổ chức chậm nhất là sáu tháng sau khi những tình trạng đặc biệt kể ở hai đoạn trên chấm dứt.
Điều 39
Tổng thống tiếp xúc với Quốc hội bằng thông điệp.
Tổng thống có thể dự các phiên họp Quốc hội và tuyên bố trước Quốc hội.
Mỗi năm vào đầu khóa họp thường lệ thứ nhì và mỗi khi thấy cần, Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia và chánh sách đối nội, đối ngoại của Chính phủ.
Điều 40
Với sự thỏa thuận của Quốc hội, Tổng thống có thể tổ chức trưng cầu dân ý. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý phải được Tổng thống và Quốc hội tôn trọng.
Điều 41
Giữa hai khóa họp Quốc hội, Tổng thống vì lý do khẩn cấp có thể ký sắc luật. Các sắc luật này phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ấy.
Trong khóa họp thường lệ tiếp cận, nếu Quốc hội không bác bỏ, các sắc luật ấy sẽ được coi hẳn như những đạo luật.
Điều 42
Trong tình trạng khẩn cấp, chiến tranh, nội loạn, khủng hoảng kinh tế hoặc tài chính, Quốc hội có thể biểu quyết một đạo luật ủy cho Tổng thống, trong một thời gian, với những hạn định rõ, quyền ký các sắc luật để thực hiện chánh sách mà Quốc hội ấn định trong đạo luật ủy quyền. Các sắc luật phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ký. 30 ngày sau khi mãn thời hạn đã ấn định trong đạo luật ủy quyền, nếu Quốc hội không bác bỏ, các sắc luật ấy sẽ được coi hẳn như những đạo luật.
Điều 43
Trong trường hợp ngân sách không được Quốc hội chung quyết trong thời hạn ấn định ở Điều 60, Tổng thống có thể ký sắc luật ngân sách cho tài khóa sau.
Mỗi tam cá nguyệt Tổng thống có thể thi hành một phần tư của ngân sách cho đến khi Quốc hội chung quyết xong đạo luật ngân sách.
Trong đạo luật ngân sách, Quốc hội phải giải quyết các hậu quả gây nên do việc bác bỏ hoặc sửa đổi những điều khoản của sắc luật ngân sách.
Điều 44
Tổng thống có thể ký sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm trong một hay nhiều vùng; các sắc lệnh này có thể tạm đình chỉ sự áp dụng một hoặc nhiều đạo luật tại những vùng đó.
Điều 45
Khi nhậm chức, Tổng thống tuyên thệ như sau:
Tôi long trọng tuyên thệ:
Tận lực cố gắng làm tròn nhiệm vụ Tổng thống;
Tôn trọng giữ gìn và bảo vệ Hiến pháp;
Trung thành phụng sự Tổ quốc và hết lòng phục vụ lợi ích công cộng.
Điều 46
Tổng thống, có Phó Tổng thống, các Bộ trưởng và Thứ trưởng phụ tá. Các Bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Tổng thống.
Điều 47
Các Bộ trưởng và Thứ trưởng có thể hội kiến với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội, và các Chủ tịch Ủy ban để giải thích về các vấn đề liên hệ với lập pháp.
THIÊN THỨ TƯ: Quốc hội
Chương Một. - Dân biểu
Điều 48
Đạo luật tuyển cử ấn định số Dân biểu Quốc hội và các đơn vị bầu cử.
Điều 49
Dân biểu được bầu cử theo lối đầu phiếu phổ thông, trực tiếp và kín, theo những thể thức và điều kiện do đạo luật tuyển cử quy định.
Điều 50
Có quyền ứng cử Dân biểu những người:
1.Có quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi mới sinh, hoặc đã nhập Việt tịch ít nhất năm năm, hoặc đã hồi phục Việt tịch ít nhất ba năm trừ những người đã hồi phục Việt tịch trước ngày ban hành Hiến pháp;
2.Hưởng các quyền công dân;
3.Đủ 25 tuổi tới ngày đầu phiếu;
4.Hội đủ các điều kiện khác dự liệu trong đạo luật tuyển cử.
Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt những người nhập Việt tịch có công trạng với Tổ quốc hoặc những người hồi phục Việt tịch có thể được Tổng thống ký sắc lệnh giảm thời hạn năm hoặc ba năm ghi trên.
Điều 51
Nhiệm kỳ Dân biểu là ba năm. Các Dân biểu có thể được tái cử.
Cuộc bầu cử Quốc hội mới sẽ cử hành một tháng trước khi pháp nhiệm chấm dứt.
Điều 52
Khi một Dân biểu từ chức, mệnh chung, hoặc chấm dứt nhiệm vụ vì bất cứ một nguyên nhân nào, cuộc bầu cử Dân biểu thay thế sẽ được cử hành trong hạn ba tháng.
Sẽ không bầu Dân biểu thay thế, nếu sự khống khuyết xẩy ra không đầy sáu tháng trước khi mãn pháp nhiệm.
Điều 53
Nhiệm vụ dân biểu không thể kiêm nhiệm với một công vụ được trả lương hay nhiệm vụ dân cử khác. Công chức đắc cử phải nghỉ giả hạn, quân nhân đắc cử phải giải ngũ.
Nhiệm vụ Dân biểu không thể kiêm nhiệm với những chức vụ Bộ trưởng và Thứ trưởng.
Tuy nhiên, Dân biểu có thể đảm nhận những công vụ đặc biệt liên tục không quá (12) mười hai tháng và thời gian đảm nhận công vụ tổng cộng không quá nửa thời kỳ pháp nhiệm. Trong thời gian đảm nhận công vụ, Dân biểu không có quyền thảo luận và biểu quyết tại Quốc hội hoặc tại các Ủy ban của Quốc hội.
Dân biểu có thể phụ trách giảng huấn tại các trường cấp bậc đại học và kỹ thuật cao đẳng.
Trong bất kỳ trường hợp nào, Dân biểu không thể tham dự những cuộc đấu thầu hoặc ký hợp đồng với các cơ quan chính quyền.
Điều 54
Không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay kết án một Dân biểu vì những lời nói hoặc vì những sự biểu quyết tại Quốc hội hoặc tại các Ủy ban Quốc hội.
Ngoại trừ trường hợp phản quốc, xâm phạm an ninh Quốc gia hoặc đương trường phạm pháp, không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một Dân biểu trong suốt thời gian các khóa họp Quốc hội, kể cả thời gian đi họp và họp về.
Chương Hai - Quyền hành của Quốc hội.
Điều 55
Quốc hội biểu quyết các đạo luật. Quốc hội chấp thuận các điều ước và các hiệp định quốc tế.
Chương Ba - Thủ tục Lập pháp
Điều 56
Dân biểu có thể đưa ra Quốc hội xét các dự án luật, Tổng thống có thể đưa ra Quốc hội xét các dự thảo luật.
Điều 57
Các dự án và dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận sẽ chuyển đến Tổng thống trong thời hạn bảy ngày tròn.
Tổng thống phải ban hành các đạo luật trong thời hạn ba mươi ngày tròn kể từ ngày tiếp nhận. Trong trường hợp khẩn cấp do Quốc hội tuyên bố, thời hạn ban hành sẽ rút ngắn còn bảy ngày tròn.
Điều 58
Trong thời hạn ban hành, Tổng thống có thể gởi thông điệp viện dẫn lý do yêu cầu Quốc hội phúc nghị một hay nhiều điều khoản đã được chấp thuận.
Khi phúc nghị, nếu Quốc hội không đồng ý sửa đổi theo thông điệp Tổng thống thì Quốc hội sẽ chung quyết bằng một cuộc minh danh đầu phiếu với đa số ba phần tư tổng số Dân biểu Quốc hội.
Điều 59
Trong thời hạn ấn định ở Điều 57, nếu Tổng thống không ban hành hoặc không chuyển hoàn bản văn mà Quốc hội đã thông qua, bản văn ấy sẽ đương nhiên thành luật.
Điều 60
Dự thảo ngân sách phải gởi tới Văn phòng Quốc hội trước ngày ba mươi tháng Chín. Ngân sách phải được chung quyết trước ngày ba mươi mốt tháng Chạp.
Điều 61
Dân biểu có quyền đề khởi các khoản chi mới, nhưng đồng thời phải đề nghị các khoản thu tương đương.
Chương Tư - Điều hành Quốc hội.
Điều 62
Quốc hội nhóm họp những khóa thường lệ hoặc bất thường.
Điều 63
Hằng năm có hai khóa họp thường lệ: một khóa đương nhiên bắt đầu ngày thứ hai đầu tiên trong tháng tư dương lịch, và một khóa đương nhiên bắt đầu ngày thứ Hai đầu tiên trong tháng Mười dương lịch. Mỗi khóa họp thường lệ không lâu quá ba tháng.
Điều 64
Quốc hội phải được triệu tập nhóm họp các khóa bất thường nếu có sự yêu cầu của Tổng thống hoặc quá nửa tổng số Dân biểu Quốc hội.
Trong trường hợp Tổng thống yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp bất thường do Tổng thống ấn định.
Trong trường hợp Dân biểu yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp bất thường do Văn phòng Quốc hội ấn định.
Thời gian mỗi khóa họp bất thường của Quốc hội không được quá ba mươi ngày.
Điều 65
Quốc hội nhóm họp công khai. Tuy nhiên, Quốc hội họp kín nếu quá nửa số Dân biểu hiện diện hoặc Tổng thống yêu cầu.
Các bản tường thuật y nguyên cuộc thảo luận và các tài liệu xuất trình tại Quốc hội sẽ được đăng trong Công báo, ngoại trừ trường hợp Quốc hội họp kín.
Điều 66
Để kiểm soát tánh cách hợp thức cuộc bầu cử các Dân biểu, Quốc hội sẽ chỉ định một Ủy ban kiểm soát để phụ trách việc phúc trình về vấn đề này.
Quốc hội có trọn quyền định đoạt.
Điều 67
Quốc hội bầu Văn phòng gồm có Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 1 Tổng Thơ ký, 3 Phó Tổng Thơ ký, và một số nhân viên cần thiết.
Quốc hội chỉ định các Ủy ban.
Điều 68
Quốc hội ấn định nội quy, nhất là các vấn đề sau:
Tổ chức nội bộ Quốc hội và Văn phòng;
Thủ tục Quốc hội và quyền hạn Văn phòng;
Kỷ luật trong Quốc hội và các sự chế tài về kỷ luật;
Thành phần và quyền hạn các Ủy ban.
Điều 69
Một dự án hoặc dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận chỉ có giá trị nếu hội đủ đa số một phần ba tổng số Dân biểu.
THIÊN THỨ NĂM: Thẩm phán
Điều 70
Để thi hành nhiệm vụ ấn định ở Điều 4, Tư pháp được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng của mọi người trước pháp luật và nguyên tắc độc lập của Thẩm phán xử án.
Điều 71
Thẩm phán xử án quyết định theo lương tâm mình, trong sự tôn trọng luật pháp và quyền lợi Quốc gia.
Điều 72
Dưới sự kiểm soát của Bộ Tư pháp, Thẩm phán công tố, trông coi, và theo dõi sự áp dụng luật pháp, sự tôn trọng đạo lý và trật tự công cộng.
Điều 73
Sẽ thiết lập một Thượng Hội đồng Thẩm phán có nhiệm vụ góp phần trông coi sự áp dụng quy chế Thẩm phán xử án. Tổ chức, điều hành, và quyền hạn của Thượng Hội đồng sẽ do luật định.
THIÊN THỨ SÁU: Đặc biệt Pháp viện
Điều 74
Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo hiến, trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.
Điều 75
Đặc biệt Pháp viện gồm có:
Chánh án Tòa Phá án, Chánh án;
Mười lăm Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ, Hội thẩm.
Khi Chánh án Tòa Phá án là bị can, Chủ tịch Viện Bảo hiến sẽ ngồi ghế Chánh án.
Điều 76
Ban Điều tra của Đặc biệt Pháp viện gồm năm Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ.
Điều 77
Sự khởi tố theo các điều kiện sau:
a/ Phải có một bản đề nghị viện dẫn lý do, được ba phần năm tổng số Dân biểu Quốc hội ký tên, nạp tại Văn phòng Quốc hội mười lăm ngày trước khi thảo luận;
b/ Đề nghị đó phải được hai phần ba tổng số Dân biểu Quốc hội chấp thuận.
c/ Các Dân biểu trong Đặc biệt Pháp viện và trong Ban Điều tra không được quyền đề nghị khởi tố và biểu quyết về đề nghị này.
Điều 78
Nhiệm vụ của đương sự bị đình chỉ từ khi Quốc hội biểu quyết truy tổ đến khi Đặc biệt Pháp viện phán quyết. Trong thời gian này sự quyền nhiếp sẽ theo thể thức định ở Điều 34, đoạn 2 và 3.
Điều 79
Ban Điều tra có quyền đòi hỏi nhân chứng và đòi các cơ quan liên hệ xuất trình các hồ sơ và tài liệu mật. Ban Điều tra sẽ làm tờ trình trong thời hạn hai tháng trước khi được Đặc biệt Pháp viện triển hạn một tháng nữa.
Điều 80
Đặc biệt Pháp viện họp để nghe Ban Điều tra và đương sự trình bày và phán quyết theo đa số ba phần tư tổng số nhân viên.
Điều 81
Nếu xét đương sự phạm tội, Đặc biệt Pháp viện sẽ tuyên bố truất quyền. Phán quyết này có hiệu lực ngay.
THIÊN THỨ BẢY: Hội đồng Kinh tế Quốc gia
Điều 82
Hội đồng Kinh tế Quốc gia có nhiệm vụ trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.
Hội viên Hội đồng Kinh tế Quốc gia lựa trong các nghiệp đoàn và các ngành hoạt động kinh tế, các tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và các nhà kinh tế học.
Chức vụ hội viên Hội đồng Kinh tế Quốc gia không thể kiêm nhiệm với nhiệm vụ Dân biểu Quốc hội.
Điều 83
Phó Tổng thống là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia.
Điều 84
Một đạo luật sẽ ấn định cách tổ chức và điều hành của Hội đồng Kinh tế Quốc gia.
THIÊN THỨ TÁM: Viện Bảo hiến
Điều 85
Viện Bảo hiến phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh.
Điều 86
Viện Bảo hiến, về mỗi nhiệm kỳ Quốc hội, gồm có:
Một Chủ tịch cho Tổng thống cử với thỏa hiệp của Quốc hội.
4 Thẩm phán cao cấp hay luật gia do Tổng thống cử;
4 Dân biểu do Quốc hội cử.
Điều 87
Viện Bảo hiến thụ lý các đơn xin phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh do các Tòa án nạp trình.
Phán quyết của Viện Bảo hiến có hiệu lực đình chỉ sự thi hành các điều khoản bất hợp hiến kể từ ngày phán quyết ấy được đăng trong Công báo.
Điều 88
Một đạo luật sẽ quy định cách tổ chức và điều hành của Viện Bảo hiến cùng thủ tục áp dụng trước cơ quan ấy.
THIÊN THỨ CHÍN: Sửa đổi Hiến pháp
Điều 89
Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này của Hiến pháp.
Điều 90
Tổng thống hay hai phần ba tổng số Dân biểu có thể đề nghị sửa Hiến pháp.
Đề nghị sửa Hiến pháp có viện dẫn lý do phải đủ chữ ký và nạp tại Văn phòng Quốc hội.
Điều 91
Sau khi nhận được đề nghị hợp lệ sửa đổi Hiến pháp, Văn phòng Quốc hội sẽ triệu tập một phiên họp đặc biệt của Quốc hội để cử một Ủy ban gồm ít nhứt mười lăm người có nhiệm vụ nghiên cứu đề nghị này, tham khảo ý kiến của Viện Bảo hiến và của Tổng thống.
Trong thời hạn tối đa sáu mươi ngày, Ủy ban sẽ thuyết trình trước Quốc hội trong phiên họp đặc biệt.
Điều 92
Đề nghị sửa đổi Hiến pháp chỉ được chấp thuận nếu ba phần tư tổng số Dân biểu tán thành trong một cuộc minh danh và đích thân đầu phiếu.
Điều 93
Đề nghị được chấp thuận sẽ ban hành theo thủ tục ghi ở các Điều 57, 58, 59.
Nếu có phúc nghị, Quốc hội sẽ chung quyết bằng một cuộc minh danh và đích thân đầu phiếu với đa số ba phần tư tổng số Dân biểu.
THIÊN THỨ MƯỜI: Các Điều khoản Chung
Điều 94
Hiến pháp sẽ ban hành ngày hai mươi sáu tháng Mười năm một nghìn chín trăm năm mươi sáu.
Điều 95
Quốc hội dân cử ngày mồng bốn tháng Ba dương lịch năm một nghìn chín trăn năm mươi sáu sẽ là Quốc hội Lập pháp đầu tiên theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa.
Nhiệm kỳ Quốc hội Lập pháp bắt đầu từ ngày ban hành Hiến pháp và chấm dứt ngày ba mươi tháng Chín năm một nghìn chín trăm năm mươi chín.
Điều 96
Đương kim Tổng thống được nhân dân ủy nhiệm thiết lập nền Dân chủ do cuộc trưng cầu dân ý ngày hai mươi ba tháng Mười dương lịch năm một nghìn chín trăm năm mươi lăm, sẽ là Tổng thống đầu tiên theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa.
Nhiệm kỳ Tổng thống bắt đầu từ ngày ban hành hiến pháp và chấm dứt ngày ba mươi tháng Tư năm một nghìn chín trăm sáu mươi mốt.
Điều 97
Trong khóa họp thứ nhứt của Quốc hội Lập pháp đầu tiên, đương kim Tổng thống sẽ chỉ định Phó Tổng thống đầu tiên. Sự chỉ định này sẽ thành nhứt định nếu được Quốc hội chấp thuận.
Nếu có sự thay thế, sự chỉ định Phó Tổng thống mới cũng theo theo thủ tục đó trong suốt nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên.
Điều 98
Trong nhiệm kỳ Lập pháp đầu tiên, Tổng thống có thể tạm đình chỉ sự sử dụng những quyền tự do đi lại và cư ngụ, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do nghiệp đoàn và đình công để thỏa mãn những đòi hỏi đích
2. NỐI CHÍ TỔNG THỐNG ANH MINH NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ CON ĐƯỜNG NÀO CHO NGƯỜI VIỆT NAM HÔM NAY!
CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC:
TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM
Chính Khí Việt
KÍNH DÂNG LÊN ANH LINH NGÔ TỔNG THỐNG và TẤT CẢ NHỮNG VỊ ĐÃ ĐI THEO CON ĐƯỜNG CỦA NGÔ TỔNG THỐNG HY SINH VÀ SẴN SÀNG HY SINH TẤT CẢ ĐỂ NỐI CHÍ TỔNG THỐNG TRÊN CON ĐƯỜNG TỔ QUỐC - DANH DỰ -TRÁCH NHIỆM
THẾ HỆ HẬU DUỆ CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM YÊU TỔ QUỐC, YÊU DÂN TỘC, YÊU TỰ DO, CÔNG BẰNG VÀ HOÀ BÌNH.
Trọng Kính Quý Bạn Đọc
Qua 60 bài, bắt đầu từ ngày 1-10-22 cho đến hôm nay nhân kỷ niệm lần thứ 59 Húy Nhật Tổng Thống Anh Minh Ngô Đình Diệm (1/11/1963 -1/11/2022),Chính Khí Việt đã phần nào lật mặt bè lũ việt gian cả trong và ngoài nước, tạm thời xem như trận đánh mở đầu để mọi người Việt Nam trong và ngoài nước còn có lòng với Tổ Quốc và Dân Tộc nhận thức được con đường chúng ta đi sẽ là CON ĐƯỜNG NÀO?
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Chính Khí Việt xin trình bày với quý bạn đọc rằng, mặc dù tuổi Chính Khí Việt còn trẻ so với quý vị đã từng cống hiến tài năng,sức khỏe, ngay cả mạng sống để phục vụ cho toàn dân Việt Nam Cộng Hòa, trình độ học vấn cũng chẳng có gì là cao siêu lắm, tất cả những điều Chính Khí Việt biết, chính là từ trí tuệ để thâm tín được khẩu hiệu mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm nêu ra cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đó là khẩu hiệu: Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm. Chính Khí Việt nghĩ rằng lời giáo huấn đó cũng là TÔN CHỈ cho mọi người dân Việt Nam, tuy chưa đứng trong hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhưng cũng phải nỗ lực để hoàn thành tôn chỉ đó để nối chí Ngài trong mỗi cương vị của mình. Bởi vì Tổ Quốc là Tổ Quốc Chung, mỗi một con người có thể thể hiện được danh dự của mình khi mình có chỗ đứng vững chắc trên mảnh đất được gọi là Tổ Quốc. Có nghĩa là chúng ta phải tiếp nối những điều mà Tổ Tiên hàng nhiều ngàn năm của chúng ta đã đổ xương máu, mồ hôi công sức để có thể tạo ra cho chúng ta một chỗ đứng, sống chung và đứng ngang hàng với Cộng Đồng Nhân Loại, như thể NGƯỜI CHA đã để lại gia tài cho con với những ngôi nhà bền vững để từ đó mới có thể phát huy sức sống của mình để góp phần mình trong việc xây dựng một cộng đồng của Người Việt Nam trên mảnh đất được gọi là Tổ Quốc sao cho ngày một thêm vững mạnh, góp phần mình trong nhịp sống chung của Nhân Loại.
Trách nhiệm của người dân Việt Nam với Tổ Quốc của mình là làm sao phải giữ gìn và bảo vệ được mảnh đất mà Tổ Tiên đã trao lại cho chúng ta, không những chúng ta phải gìn giữ nó một cách trọn vẹn mà còn phải bảo vệ cũng như làm sao cho mảnh đất ấy ngày càng thêm thăng tiến theo kịp trào lưu tiến hóa của Nhân Loại.
Chính Khí Việt nghĩ rằng người dân Việt Nam vốn có truyền thống lịch sử lâu đời là bởi vì người dân Việt Nam bao gồm tất cả các sắc dân sống trên mảnh đất Việt Nam đã đoàn kết với nhau bằng sợi giây linh thiêng đó là sự kế thừa của việc lập quốc, bảo vệ tổ quốc và một điều quan trọng nữa đó là trong suốt quá trình giữ nước và dựng nước, người dân Việt Nam đã phải chống chọi với không biết bao nhiêu lần xâm lược của một đạo quân lớn mạnh hơn về số lượng ở phía bắc (tức tụi Tàu), và cũng phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, cho nên Con Người Việt Nam đã tồn tại được trước những cuộc xâm lược nổi tiếng trong lịch sử thế giới, cũng như chống chọi và thích ứng được với thời tiết khắc nghiệt mà ngày càng rút được nhiều kinh nghiệm để có thể vẫn làm cho mảnh đất mình sinh sống được tốt đẹp. Đấy chính là cái trách nhiệm mà chúng ta phải thực hiện.
Cái Tôn Chỉ chỉ gồn có Sáu Tiếng: TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM,nhưng trong sáu tiếng ấy tiềm ẩn một khả năng bao quát được LỐI SỐNG, TRUYỀN THỐNG, và CON ĐƯỜNG ĐIcho một tương lai HẠNH PHÚC ẤM NO cho toàn thể nhân dân Việt Nam bao gồm mọi sắc tộc.
Nếu nói về con đường Việt Nam thì chúng ta cần phải lưu ý đến phần Chính Khí Việ muốn chia sẻ với quý bạn đọc như sau: đó là Chính Khí Việt xin phép được băt đầu từ cái gọi là cuộc cách mạng tháng 10 Nga 1917.
Tại sao lại lây mốc điểm đó để mở đầu? Tại vì kể từ khi Nga Xô hình thành thì thế giới đã có một lực lượng mới song hành cùng với chủ nghĩa thực dân Phương Tây. Nếu như chủ nghĩa thực dân Phương Tây trong quá trình đi xâm lược nhân dân các nước trên thế giới với bộ mặt giả dối là:Đưa nền văn minh đến những nước lạc hậu, để che đậy bộ mặt thực dân. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nên lưu ý là ngay tên gọi cho chức năng “khai phóng nền văn minh” đó của những nước theo chủ nghĩa thực dân Phương Tây thì chúng lại không che đậy những dã tâm của chúng bằng việc đặt tên cho cơ quan xâm lược đó là BỘ THUỘC ĐỊA.
Còn Nga Xô khi được hình thành với cái khẩu hiệu“xây dựng một thế giới đại đồng” theo luận điểm của Le Nin, nghĩa là quan tâm đến vấn đề các nước thuộc địa sống dưới sự cai trị của thực dân Phương Tây. Do đó ngay khi hình thành “con đường” đó Le Nin đã tạo ra một thứ mà chúng ta có thể gọi được là THỰC DÂN ĐỎ, để phân biệt với thực dân Phương Tây (là thực dân cũ). Sự ra đời của chủ nghĩa thực dân đỏ là nó đã học được bài học kinh nghiệm từ chủ nghĩa thực dân Phương Tây để trở nên tinh vi và ma quái hơn trong việc xâm lược các nước khác trên toàn thế giới. Vì thế khác với chuyện ở nước Pháp là có Bộ Thuộc Địa, thì Nga Xô trong tay Le Nin đẻ ra cái gọi là Quốc Tế Ba, mà thực chất nó chính là của nước Nga Xô Viết. Nếu như Bộ Thuộc Địa của thực dân Phương Tây nhằm tổ chức quản lý, và sử dụng bộ máy dân sự để nắm vững các thuộc địa mà nó chiếm được,thì chủ nghĩa thực dân đỏ của Nga Xô Viết, trong cái vỏ bọc gọi là Quốc Tế Vô Sản 3, mà thực chất nó là Bộ Thuộc Địa của Nga Xô, nó được sử dụng để tuyển chọn, đào tạo, hướng dẫn cho tay sai bản địa trong tất cả các nước, nhất là những nước đang chịu sự thống trị của thực dân Phương Tây, như Việt Nam là một thí dụ. Nó không chỉ tuyển chọn người mà nó còn đào tạo cho cướp bộ máy cầm quyền của những nước đó để mang một cái tên nghe rất kêu đó là CÁCH MẠNG VÔ SẢN .
Giờ đây Chính Khí Việt xin phép được nói về trường hợp ở Việt Nam.
Trước hết cần phải phân biệt giữa những người theo chủ nghĩa cộng sản. Ngay về mặt lý thuyết cho đến việc áp dụng cái lý thuyết mà ta thường hay gọi là chủ thuyết Marx Engels, đã có nhiều nhận thức khác nhau hoàn toàn.
Chính Khí Việt chỉ xin được chia sẻ với quý bạn đọc một cách tóm tắt, rằng đã có những nhận thức khác nhau về chủ thuyết Marx Engels:
THỨ NHẤT: Cùng nói theo chủ nghĩa Marx Engels mà đã có đến bốn tổ chức khác nhau mang tính cách “Quốc tế” để giải thích về nội dung và cách thực hiện chủ nghĩa Marx Engels là Quốc Tế I, Quốc Tế II, Quốc Tế III và Quốc Tế IV.
Tại Việt Nam “tín đồ” chủ nghĩa Marx thuộc nhóm Quốc Tế IV, thường được gọi là nhóm “troskiste” và Quốc Tế III là sản phẩm đặc trưng của V.I. Le Nin mà thực chất nó là Bộ Thuộc Địa của Nước Nga Xô Viết (sau cái gọi là Cách Mạng Tháng 10 Nga)
Đặc trưng của Quốc Tế III là dựa theo tư tưởng thực dân kiểu mới do Le Nin sáng tạo nhằm tranh dành thuộc địa với thực dân Phương Tây như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… và cả Sa Hoàng Nga nữa.
Quan điểm của Le Nin thực chất là tiếp nối chủ nghĩa thực dân của Sa Hoàng (vốn sinh ra cùng một mẹ) , nhưng nâng mục tiêu lên toàn thế giới với khẩu hiệu“thế giới đại đồng”.
Vì thế cần lưu ý là cuộc cách mạng tháng 10 Nga được Le Nin dẫn giải về mặt lý thuyết là hoàn toàn đi ngược với lý luận kinh điển của Marx Engels. Để tránh bị lộ tẩy Le Nin mượn chiếc áo của Marx Engels nhằm che đậy cái mà ta gọiChủ Nghĩa Thực Dân Đỏ toàn chế, Le Nin cũng gắn tên mình vào chủ nghĩa Marx Engels (chủ nghĩa Marx Engels Le Nin), và lý giải cái gọi là Chủ Nghĩa Le Nin(thực chất là thực dân đỏ toàn chế) là: sự “phát triển của chủ nghĩa Marx Engels trong tình hình chủ nghĩa tư bản (capitalism) thế giới đã lên tới đỉnh điểm của sự phản động thành chủ nghĩa Đế Quốc, một sự cấu kết của những consortium (tức là tổ hợp) giữa các nước theo chủ nghĩa tư bản (đặc biệt là các nước Tây Phương).
Cho nên việc công nhận hay phủ nhận “luận điểm về vấn đề thuộc địa” do Le Nin đề xướng là tiêu chuẩn để phân biệt giữa những người cộng sản là Quốc Tế Cộng Sản III với các Quốc tế Cộng Sản khác. Sở dĩ gọi chủ nghĩa Le Nin là“chủ nghĩa thực dân đỏ toàn chế” là vì:
1/Mục tiêu của thực dân Phương Tây là kinh tế, thị trường tiêu thụ, nguồn cung ứng vật liệu thô và nhân công rẻ mạt… do đó mỗi nước thực dân Phương Tây chiếm một số thuộc địa, nhưng chúng vẫn tìm cách kình chống nhau để tìm cách chia lại thuộc địa, nghĩa là chúng dùng sức mạnh để cướp thuộc địa trong tay nhau;
2/Chủ nghĩa thực dân đỏ toàn chế của Le Nin, về mục tiêu cũng giống như chủ nghĩa thực dân Phương Tây nhưng phương pháp chiếm thuộc địa, quản lý thuộc địa, và bóc lột thuộc địa hoàn toàn ở mức mà ngày nay chúng ta có đủ thông tin để kết luận rằng nó tinh vi, nó tàn bạo đến mức nếu để nó còn tồn tại rồi lây lan ra toàn thế giới thì chung cuộc của nó sẽ biến toàn thể nhân loại ra hai đảng cấp rạch ròi:
A) Đẳng cấp đảng viên cộng sản thành đẳng cấp thống trị tuyệt đối còn hơn nhiều lần thời phong kiến chuyên chế trong lịch sử nhân loại;
B) Số còn lại thành gia súc trong lốt người, tệ hại hơn nô lệ trong lịch sử nhân loại.
C) Nếu Nga Xô thành công trong việc đặt ách Nô Lệ Đỏ lên toàn thế giới, trong cái bánh vẽ“thế giới đại đồng”, thì sau khi thanh lọc xong thành phần người dân bị trị, những sắc dân ít người, những cá nhân có lòng tự trọng, yêu công bằng xã hội, những tôn giáo … trên phạm vi toàn thế giới, chắc chắn rằng những đảng viên trong đảng cộng sản Nga bonshevik sẽ là giai tầng chủ nhân ông của nước Nga Xô Viết đã đành, mà chúng sẽ còn là nhân sự đóng vai trò ÔNG CHỦ LỚNcủa các nước trên toàn thế giới, và các đảng viện cộng sản bản địa sẽ là những kẻ giữ nhiệm vụ thừa hành việc trực tiếp quản lý cộng đồng xã hội ở nước bản sứ, cả vật chất lẫn tinh thần.
Thí dụ cụ thể về cái viễn ảnh đó là, trước khi có sự tranh ngôi vị bá chủ giữa hai đảng cộng sản Nga Xô và Tàu Cộng bành trướng, có tên là“GIÁO ĐIỀU và XÉT LẠI”,thì mỗi khi đảng cộng sản Nga bonshevik họp đại hội, các nhân vật cầm đầu các đảng cộng sản trên toàn thế giới , kể cả các đảng cộng sản ở các nước như Pháp, Anh, Đức, Ý, Nhật, Tàu, Mỹ… đều phải đến tham dự đại hội với nhiệm vụ phải nắm được nội dung các nghị quyết của đại hội, để khi trở về nước mình, căn cứ vào đó để vạch ra cương lĩnh chính trị cho mình, thông qua cái gọi là đại hội định kỳ.
Thí dụ tại Việt Nam:
Mỗi kỳ đại hội của đảng VGCS đều phải qua mấy bước như sau:
1/Đại hội đảng bộ cơ sở bầu ban chấp hành mới theo danh sách ban chấp hành cũ do Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu, có ý kiến của đại diện cấp trên trực tiếp xây dựng và chỉ đạo. Nghĩa là thành phần nhân sự phải khớp với ý kiến cấp trên, hay nói cho rõ nghĩa hơn là cấp trên đưa ra danh sách nhân sự và cái ban chấp hành cũ chỉ có nhiệm vụ giới thiệu ra cho đại hội để bầu ra cho đúng quy trình theo tinh thần trò chơi“dân chủ giả hiệu".
Tuy nhiên để cẩn thận hơn, nhân sự mặc dù do cấp trên chỉ đạo cho ban chấp hành cũ đưa ra cho đại hội bầu, nhưng chính số nhân sự chỉ định đó được bầu ra còn phải qua một cửa ải nữa là cấp trên phải ra một nghị quyết công nhận. Chưa nói đến vị trí bí thư, phó bí thư thường vụ của đảng bộ đó có khi được chỉ dịnh trước khi được đưa ra bầu ở đại hội.
Cứ từ dưới lên trên như vậy cho tới các đảng bộ trực thuộc Trung Ương thì phải LƯU Ýrằng các đảng bộ trực thuộc Trung Ương là không có bầu bán. Ở Việt Nam, xưa kia cái công thức đó gọi là “Đảng Đoàn”,sau Đại Hội IV việt gian cộng sản (1976), thì cái gọi là “Đảng Đoàn”có tên mới là “Ban Cán Sự”. Thí dụ“Ban Cán Sự Bộ Văn Hóa”.
Trước là“Đảng Đoàn”, nay là “Ban Cán Sự”thành phần nhân sự đều doTrung Ương Chỉ Định, kể cả chức danh như Bí Thư, Thường Trực, Uỷ Viên, đều do chỉ định. Hiện nay cái trò hề bầu bán cán sự chỉ là “chuyện đùa” với“dân chủ giả hiệu”, vìphải bầu đúng như Trung Ương (tức Bộ Chính Trị) gợi ý trước.
2/Kết hợp bầu nhân sự mới cho đảng bộ nào đó thì cùng lúc bầu đại biểu đi họp đảng bộ cấp trên.
3/ Ở Việt Nam trước khi Nga Xô sụp đổ, thì từ cương lĩnh chính trị cho đến tổ chức, nhân sự, thay đổi điều lệ đảng (nếu có), với các kế hoạch kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng…đều phải cử đại biểu có thẩm quyền như Tổng Bí Thư, Bí Thư Thứ Nhất, hoặc tối thiểu cũng là Thường Trực Ban Bí Thư (tức nhân vật số 2 trong đảng) sang để cho đại diện đảng cộng sản Nga Bonshevik duyệt lại lần cuối trước khi mang về thông qua cái gọi là “hội nghị trung ương thông qua các văn kiện đại hội”, và trong thời gian đại hội, việc đọc văn kiện và thông qua văn kiện cũng như bầu bán nhân sự … chỉ là thủ tục làm cho vui vì:
Kiểu bầu bán như vậy là“TÍNH ĐẶC THÙ”của cái gọi là “DÂN CHỦ TẬP TRUNG CỦA TẬP ĐOÀN VGCS”từ thời Hồ Chí Minh, tức từ đại hội 2 của bọn chúng họp ở Việt Bắc (1951), để chúng ra đời cái gọi là Đảng Lao Động Việt Nam. Còn trước đó, các vị trí quan trọng trong đảng VGCS là do Nga Xô trực tiếp chỉ định
Thí Dụ:Lê Hồng Phongđang ở Nga, được Nga Xô chỉ định thay thế Trần Phú vì Trần Phúbị chết. Nhưng vừa tới Saigon thì Lê Hồng Phongbị bắt nên Nga Xô lại chỉ địnhHà Huy Tập(trưởng ban đối ngoại VGCS) được thay thế vào chỗLê Hồng Phong. Nga Xô cũng chỉ địnhNguyễn Thị Minh Khailàm Bí Thư Saigon, và Phùng Chí Kiên thay Hà Huy Tập là trưởng ban đối ngoại. Rồi sau đó Nga Xô lại chỉ định Phùng Chí Kiên qua phụ trách quân đội vũ trang,nhưng Kiên đã bị Hồ và Giáp báo Pháp bắt và bị bắn chết. Chính vì thế Giáp mới được Hồ cho thay chỗ của Kiên cùng với Chu Văn Tấn.
Khi có vụ“XÉT LẠi” và “GIÁO ĐIỀU”thì cộng sản Việt Nam phải chịu sự chỉ đạo của cả Nga Xô (xét lại) và của Tàu Cộng (giáo điều).
Xét Lại và Giáo Điều chỉ là cái cớ của Nga Xô và Tàu Cộng bành trướng tập hợp các đảng cộng sản tay chân nhằm tranh nhau cái ghế 3 cẳng chứ bản thân bọn chúng đều là Thực Dân Đỏ.
Sự khác nhau về lý luận là:
- Nga Xô Xét Lạithì cho rằngCộng Sản và Tư Bản có thể chung sống Hoà Bình.Cha đẻ ra Xét Lại làNikita Sergeyevich Khrushchev (April 15 [O.S.April 3] 1894 – September 11, 1971).
- Tàu Cộng Giáo Điềuthì coi CHIẾN TRANH LÀ TẤT YẾUkhông thể tránh khỏi vì còn Đế Quốc,“do Đế Quốc Mỹ cầm đầu, là tên Sen Đầm Quốc Tế và là Người Khổng Lồ Chân Đất Sét!!!”
Chính Khí Việt mạn phép Lưu Ý Quý Bạn Đọc rằng:
- Trong khi Nga Xô cổ võ cho“Chung Sống Hòa Bình” thì chính Nga Xô lại bí mật mang Hỏa Tiễn Hạt Nhân qua Cuba chĩa vào Mỹ hơn nữa chúng còn nuôi lính Cuba cho đi nhuộm đỏ một số nước Châu Phi bằng súng đạn, máu và buôn bán Ma Tuý … như đối với Congo, Ethiopia… Sau đó còn đưa quân sang Afghanistan và bi sa lầy ở đó!!!
- Còn Tàu Cộng bành trướng kêu gào chiến tranh thì chúng chỉ bắn đại bác vào các đảo Bành Hồ, Mã Tổ (của Tàu) liên tu bất tận, gây chiến với Nga Xô và Ấn Độ, dù đói rã họng cũng vẫn làm con đường chiến lược qua sa mạcKarakoramPakistan, và hề nhất là cuộc họp ở Bandung (Băng Đung),Chu Ân Lai cùng Thủ Tướng Ấn Đô Nehru đã ký văn bản về chính sách“Chung Sống Hòa Bình 5 Điểm”, và cũng nhờ tên“Sen Đầm Quốc tế, Người Khổng Lồ Chân Đất Xét” làĐế Quốc Mỹ làm ngơ nên mấy nhà Khoa Học Ở Mỹ Gốc Tàu … mới có mặt ở Tân Cương trong vòng tay quản lý và bảo vệ của Nguyên Soái Tàu Cộng Trần Vân, để hoàn thành… bom nguyên tử cho Tàu Cộng bành trướng!!!
THỨ HAI: Hình Thức: Đảng Cách Mạng; Nội Dung: Bè Lũ Việt Gian
Việc hơn 80 năm thực dân Pháp đặt ách cai trị lên toàn cõi Việt Nam và người dân Việt Nam đã liên tục chiến đấu chống ách thực dân Pháp, rồi sau đó là cả ba cái ách của các thế lực là THỰC DÂN PHÁP, PHÁT XÍT NHẬT, và TRIỀU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN, như thế nào thì khỏi cần nhắc lại.
Điều chính yếu Chính Khí Việt muốn chia sẻ với Quý Bạn đọc ở đây là:
1 Lần đầu tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, lại có một tổ chức giương ngọn cờ cách mạng cứu dân, cứu nước lại che đậy nội dung của một băng đảng việt gian, đãTỰ NGUYỆN HIẾN DÂNGtrọn vẹn Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Namcho ngoại bang đó chính là ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, gồm những tên được Nga Xô Viết tuyển mộ, đào tạo để làm nhiệm vụ việt gian, trong âm mưu bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ vào Việt Nam, với mục tiêu biến đất nước Việt Nam thành tài sản của Nga Xô Viết; nhân dân Việt Nam thành Nô Lệ Đỏ, thuộc phạm trù tài sản của Nga Xô Viết.
Cái gọi là Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là gồm những Nga Xô Viết gốc Việt, bởi vì chúng tự thú rằng Đảng của chúng là một bộ phận của Nga Xô Viết; lãnh tụ tối cao của chúng chính là lãnh tụ tối cao của Nga Xô Viết; cờ đảng của chúng (cho tới 2022 này), màu đỏ với búa liềm màu vàng cũng chính là Quốc Kỳ của Nga Xô Viết.
Vì không phải tất cả đảng viên việt gian cộng sản đều được đào tạo tại Nga Xô Viết, cho nên sau khi cuộc họp chuẩn bị thống nhất các nhóm cộng sản, do Nga Xô Viết ra lệnh trong bức thư của Hồ Chí Minh viết năm 1929 để báo cáo với Nga Xô Viết rằng, sau khi ra mắt cái gọi là “đảng cộng sản Việt Nam”thì cái tổ chức việt gian đó khẳng định:
- Tổ chức của chúng là một chi bộ của Quốc Tế III (tức bộ thuộc địa đỏ của Nga Xô Viết)
- Nga Xô Viết là Tổ Quốc của chúng.
- Chúng chỉ tuân theo mọi chỉ thị của Nga Xô Viết.
- Chúng sẽ tổ chức cho người của chúng xâm nhập vào các tổ chức chính trị, các hội đoàn…nào ở Việt Nam mà theo tinh thần“QUỐC GIA DÂN TỘC”để vẫn giữ nguyên danh xưng cũ cho dễ đoàn ngũ hóa nhân dân Việt Nam, nhưng chúng sẽ tìm cách cướp lấy bộ máy lãnh đạo củ ở tổ chức một cách trọn vẹn hoặc một chi nhánh (bộ phận) để lèo lái đi theo con đường của chúng mà Nga Xô Viết đã hoạch định cho bọn chúng hành động.
- Chúng sẽ bonshevik hóa toàn đảng tiến tới bonshevik hoá toàn dân Việt Nam(có nghĩa việt gian hóa toàn đảng và việt gian hóa toàn dân Việt Nam cho Nga Xô Viết), gồm hai thành phần: Đảng VGCS là tập hợp bọn CAI KÝ trong bộ máy cai trị thuộc địa đỏ của Nga Xô Viết, và toàn dân bị trị Việt Nam còn lại là Nô Lệ Đỏ trong mọi hoạt động xã hội của Việt Nam phục vụ cho mọi quyền lợi của Nga Xô Viết từ kinh tế đến làm binh nô đỏ trong chiến tranh mở rộng thuộc địa đỏ.
Chúng ta cũng nên lưu ý đến việc Hồ Chí Minh, tên đại tội đồ, đại việt gian trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam, ngay sau khi được Nga Xô Viết đào tạo xong, hắn đã được cho về hoạt động ở Đông Nam Á Châu, thì:
- 1925: tên Hồ Chí Minh đã bán nhà Ái Quốc Phan Bội Châu cho thực dân Pháp.
- 1930: Hồ đã bán cho thực dân Pháp tin tức về cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng do Anh Hùng Dân Tộc Nguyễn Thái Học lãnh đạo.
- 1930-1931: Tổ chức cái gọi là “Cách Mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh”
Tưởng cũng cần nhắc lại là sau khi ra đời với cái tên“đảng cộng sản Việt Nam”,thì ngay sau đó Nga Xô Viết ra lệnh đổi lại là“Đảng Cộng Sản Đông Dương”, mà lúc đó chưa hề có một người Miên hay Lào nào là đảng viên cộng sản tham gia. Điều đó cho chúng ta có đủ chứng cớ để khẳng định:
a) Bắt đổi tên từ đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, có nghĩa là Nga Xô Viết hoạch định nhiệm vụ cho bọn việt gian cộng sản có trách nhiệm và đồng thời phải nhuộm đỏ ba nước trên bán đảo Đông Dương là Việt Nam, Lào và Miên. Đó chính là chân dung thực của bè lũ Việt Gian Cộng Sản:“CÔNG CỤ CỦA NGA XÔ VIẾT RA TOÀN BÁN ĐẢO ĐÔNG DƯƠNG”,lúc đó đang còn chịu sự thống trị của thực dân Pháp.
Cho nên phải thấy rằng nội dung thực của khẩu hiệu mà bè lũ Việt Gian Cộng Sản nêu lên là:“Đánh thực dân Pháp để dành tự do cho Dân Tộc, độc lập cho Tổ Quốc”,chỉ là cái mặt nạ mà bè lũ việt gian cộng sản che đậy hành độngdùng máu xương người Việt Nam (kể cả Lào và Miên, kể cả tiềm năng khác của Việt Nam (kể cả Lào và Miên) ngay từ khởi thuỷ là vì chiến lược bành trướng cho chủ nghĩa Thực Dân Đỏ của Nga Xô Viết. Và sau này cho sự bành trướng của cả Cộng Sản Tàu(hay đúng hơn là chủ nghĩa đại hán bành trướng núp trong tấm áo chủ nghĩa cộng sản!)
b) Việc tập đoàn VGCS chấp nhận cái tên mới“Đảng Cộng Sản Đông Dương” mà Nga Xô Viết đặt cho, cùng với nhiệm vụ xích hoá toàn Đông Dương, bổ xung thêm cho chứng cớ rằng bè lũ VGCS là CÔNG CỤ CỦA NGA XÔ VIẾT trong chiến lược nhuộm đỏ thế giới thuộc phần các nước ở Đông Nam Á
(Giống như chủ của con chó mới có quyền đặt tên, đổi tên cho con chó của mình. Mà, vì là con chó của chủ Nga Xô Viết nên bọn VGCS chỉ chấp nhận chứ đâu dám, mà cũng không thể bàn cãi được).
Những điều trên cho phép chúng ta khẳng định: Tập đoàn cộng sản Việt Nam dù trong bất cứ danh xưng nào thì: Căn cốt từ hình thành cho đến qúa trình hoạt động, từ khởi thuỷ cho đến khi bị tiêu diệt,CHÚNG HOÀN TOÀN LÀ VIỆT GIAN TỰ NGUYỆNvà cho dù có làm gì cũng chịu sự chỉ đạo bởi TƯ TƯỞNG VIỆT GIANmà thôi.
THỨ BA: Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931
KHI NHẮC LẠI SỰ KIỆN GỌI LÀ XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH 1930-1931 CHÚNG TA CŨNG CẦN NHỚ ĐẾN CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA ANH HÙNG NGUYỄN THÁI HỌC VÀO NĂM 1930 BI THẤT BẠI HOÀN TOÀN. THỰC DÂN PHÁP ĐÃ THẰNG TAY CHÉM GIẾT ĐẾN TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI VÔ TỘI. CHÚNG DÙNG CẢ MÁY BAY BÀ GIÀ NÉM BOM VÀO LÀNG XUÂN LŨNG (PHỦ LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ) TAN HOANG, CHỈ VÌ Ở ĐÓ CÓ MỘT CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG, VÀ ĐÁNG CĂM PHẪN NHẤT LÀ SỰ MẤT MÁT KHÔNG THỂ BÙ ĐẮP ĐƯỢC, VÌ CÁC ANH HÙNG LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT NHẤT CỦA VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG, MÀ CŨNG LÀ LINH HỒN CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA ĐÓ, ĐÃ BỊ THỰC DÂN PHÁP BẮT, ĐÀY ĐỌA, TRA TẤN VÔ CÙNG MAN RỢ TRƯỚC KHI BỊ MANG RA CHẶT ĐẦU Ở TỈNH LỴ YÊN BÁI, KỂ CẢ ĐẢNG TRƯỞNG ANH HÙNG NGUYỄN THÁI HỌC.
Một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa đó là: tên đại tội đồ, đại việt gian Hồ Chí Minh đã vô cùng thâm độc giúp thực dân Pháp rất hữu hiệu trong việc báo cho mật thám Pháp về cuộc khởi nghĩa của các anh hùng Việt Nam Quốc Đảng.
Sự việc được tóm tắt như sau:
Để có thể làm cuộc khởi nghĩa vũ trang, Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học đã cử ba cán bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng qua Thái Lan tìm cách mua súng đạn. Thời ký đó bọn Hoàng Văn Hoan và Nguyễn Đức Quỳ là đảng viên cộng sản đang hoạt động ở Thai Lan. Ba cán bộ VNQDĐ đã liên lạc với chúng, vừa lúc đó Hồ Chí Minh sang Thái Lan được Hoan và Quỳ cho biết sự việc nói trên. Hồ đã căn dặn bọn Hoan và Qùy không được liên lạc với VNQDĐ vì rất nguy hiểm cho tổ chức (tức tổ chức việt gian cộng sản của chúng).
Như vậy việc Ba Cán Bộ của VNQDĐ sang Thái Lan mua súng chỉ có 3 người biết là Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Đức Quỳ và Hồ Chí Minh.
Sau khi biết người của VNQDĐ mua súng ở Thái Lan, Hồ rời Thái Lan ngay lập tức.
Làm xong nhiệm vụ, Ba Cán Bộ VNQDĐ cũng rời Thái Lan và vừa ra khỏi biên giới Thái thì đã có mật thám Pháp chờ bắt. Chúng mang về tra tấn mới biết là VNQDĐ đang âm thầm tổ chức vũ trang khởi nghĩa và có sự tham gia khởi nghĩa của binh sĩ người Việt Nam trong quân lính của thực dân Pháp. Chúng vội cho lệnh tước vũ khí của binh lính người Việt và ra “lệnh cấm trại”, nghĩa là không được rời doanh trại. Cùng lúc thực dân Pháp cho lệnh khám xét khắp nơi, lùng sục dấu vết của tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng, đặc biệt là các cấp lãnh đạo chỉ huy then chốt. Vì lý do đó Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học đã cho lệnh Khởi nghĩa SAI với kế hoạch ban đầu. Tức là kế hoạch ban đầu từ lệnh sẽ khởi nghĩa vào đêm 12 tháng 2, 1930 phải chuyển sang vào 15 tháng 2, 1930.
Anh Hùng Nguyễn Thái Học
Đảng Trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng
Câu hỏi được đặt ra là làm sao mật thám thực dân Pháp lại biết để chờ đón sẵn ở biên giới Thái Lan và bắt gọn cả Ba Cán Bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng được cử đi mua súng đạn?
Với hành động bán nhà Ái Quốc Phan Bội Châu cho mật thám thực dân Pháp năm 1925 của đại đại việt gian Hồ Chí Minh và cái việc sau khi biết có Ba Cán Bộ VNQDĐ đang ở Thái Lan mua súng đạn do Hoàng Văn Hoan và Nguyễn Đức Quỳ báo cáo, việt gian Hồ Chí Minh vội vã rời Thái Lan và rồi sau đó mật thám thực dân Pháp nằm chờ sẵn, bắt gọn Ba cán Bộ VNQDĐ, thì dù có kém thông minh đến đâu cũng phải thấy:
- KẺ BÁO CHO MẬT THÁM THỰC DÂN PHÁP CHÍNH LÀ TÊN ĐẠI TỘI ĐỒ, ĐẠI VIỆT GIAN HỒ CHÍ MINH.
(Có thể tham khảo cuốn “Giọt Nước Trong Biển Cả” của Hoàng Văn Hoanvà hồi ký “Tôi Theo Đảng” của Nguyễn Đức Quỳ.Năm 1954 khi ngụy quyền VGCS Hồ Chí Minh vào Hà Nội, Nguyễn Đức Quỳ được Hồ cho giữ chức Thường Vụ Đảng Đoàn kiêm Thứ Trưởng Bộ Văn Hóamà tên việt gian Hoàng Minh Giám làm Bộ Trưởng. Bí Thư Đảng Đoàn kiêm thường trực Thứ Nhất là LêLiêm; về sau Lê Liêm qua Bộ Giáo Dục và Hà Huy Giáp, từ Bộ Giáo Dục thay chỗ Lê Liêm, hắn còn được chỉ định làm Bí Thư Đảng Đoàn của Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật, và còn làm Phó Ban Tuyên Huấn Trung Ương; vợ hắn là Hà Thị Chí là Thứ Trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ).
Sau khi bán thông tin cho thực dân Pháp về cuộc khởi nghĩa vũ trang (có sự kết hợp với binh lính Việt Nam trong binh lính của thực dân Pháp) của VNQDĐ do Đảng Trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học trực tiếp lãnh đạo, Hồ Chí Minh lại một lần nữa chứng tỏ bản chất việt gian làm tay sai cho chủ nghĩa Thực Dân Đỏ Nga Xô Viết.
Lần Thứ Nhất hắn bán nhà Ái Quốc Phan Bội Châu vào năm 1925;
Lần Thứ Hai hắn bán cuộc khởi nghĩa 1930 của VNQDĐ
Những hành động trên của tên đại việt gian Hồ Chí Minh chứng tỏ rõ ràng rằng đầu óc hắn hoàn toàn căm thù Tổ Quốc, Nhân Dân và Truyền Thống Dân Tộc Việt Nam. Cho nên lá thư đại việt gian Hồ Chí Minh viết gởi cho Nga Xô Viết năm 1929, là việc làm có suy nghĩ chín chắn, và quyết tâm thực thi việc phục vụ cho cái TƯ DUY VIỆT GIAN ĐÓ.
Sáu tháng sau cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại thực dân Pháp của Anh Hùng Nguyễn Thái Học, Đảng Cộng Sản Đông Dương (danh xưng mới do Nga Xô Viết đặt cho) cố gắng đẻ ra cái gọi là “Xô Viết Nghệ Tĩnh", khởi đầu từ 12 tháng 9 1930 tồn tại khoảng bốn tháng (?).
Để làm gì?
1 Làm một cuộc tuyên truyền bằng các phương tiện truyền thông báo chí các loại để xóa mờ đi tiếng vang Cuộc Khởi Nghĩa Vũ Trang của Việt Nam Quốc Dân Đảng do nhà Đại Ái Quốc Nguyễn Thái Học trực tiếp lãnh đạo.
2 Dùng máu xương của người Việt Nam làm lễ vật “mừng kính” đã được Nga Xô Viết trao cho những nhiệm vụ to lớn hơn, đó là được quyền xâm lược cả Lào và Miên để biến Hai Nước này thành THUỘC ĐỊA ĐỎ cho Nga Xô Viết.
3 Chứng minh với tập đoàn cầm quyền Nga Xô Viết về khả năng tổ chức, tinh thần hy sinh và điều quan trọng nhất là, vì quyền lợi mở rộng Thuộc Địa Đỏ của Nga Xô Viết, đại việt gian Hồ Chí Minh và bè lũ việt gian trong tổ chức do Nga Xô Viết đào tạo, huấn luyện ban cho cái tên Đảng Cộng Sản Đông Dương,sẵn sàng đưa người dân Việt Nam vào chỗ chết; sẵn sàng dùng những tên lưu manh làng xã địa phương và những tên lưu manh thành thị để làm cái việc “trời không dung, đất không tha”; khiến tổ tiên người Việt Nam phải đau lòng; người Việt yêu nước phải căm phẫn; đó là việc chúng thi hành cái chính sách do đại tội đồ, đại việt gian Hồ Chí Minh và toàn băng đảng được Nga Xô Viết đặt tên cho là đảng Cộng Sản Đông Dương, đồng một lòng đưa ra và được sự chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp bởi khẩu hiệu cho hành động là:
TRÍ, PHÚ, ĐỊA, HÀO –
ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TÃN RỄ!!!
4 Tạo cớ cho thực dân Pháp tàn sát, bắt bớ vô tội vạ nhân công không lương (vì là tù nhân) đi khai rừng, phá núi, làm đường, giúp cho thực dân tiếm đoạt thêm những vùng khai hóa mới thành các đồn điền, lâm trường,… đồng thời bọn tham quan, cẩu quan trong Triều Đình Nhà Nguyễn lúc bấy giờ tha hồ vơ vét qua xử án , chạy án, cướp ruộng vườn, gia súc, nhà cửa và công khai MUA BÁN các chức sắc Hào, Lý trong làng xã. Những nông dân mất ruộng đất vì chạy án, để không dính vào tội tham gia Xô Viết, trở thành lao động rẻ mạt, đến làm nhân công ở các nhà máy ở khu vực mới với đồng lương chết đói, hoặc trở thành tá điền trong các đồn điền, hoặc gia nhập hàng ngũ công nhân cạo mủ cao su ở các công ty cao su, hoặc các hầm mỏ của thực dân Pháp.
5 Đấy cũng chỉ là một cách mà VGCS mượn bàn tay thực dân Pháp Vô Sản Hóa hơn nữa người dân Việt Nam, để khi nắm được thời cơ, băng đảng việt gian có tên Đảng Cộng Sản Đông Dương sẽ dễ dàng lợi dụng, dẫn dắt những con người “cùng khổ” đói ăn đó làm cái gọi là CÁCH MẠNG VÔ SẢN, tiến tới cái bánh vẽ xã hội cộng sản không có người bóc lột người, bình đẳng “làm theo năng lực, hưởng theo nhu câu!!!” và khi đã bị đoàn ngũ hóa giống như con chó bị xích cổ, khi hối lại thì đã qúa muộn đành phải cắn răng chấp nhận công thức: “Làm Hêt Năng Lực, Hưởng Xương Thừa Canh Cặn!!!”
VÀI NGỘ NHẬN VỀ XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH 1930-1931
1 Các nhà máy ở khu vực bến Thuỷ (Vinh, Nghệ An) có khoảng gần 4,000 công nhân. Theo kế hoạch, bè lũ việt gian do Nga Xô Viết trong lốt Đảng Cộng Sản Đông Dương, kích động công nhân biểu tình ngày mùng 1 tháng 5, số lượng công nhân tham gia khoảng chừng hơn 400. Mục đích là làm cuộc Xô Viết Nghệ Tĩnh ngay ngày hôm biểu tình đó nhưng không thành công vì công nhân không hưởng ứng cho nên chúng phải lùi lại đến tận ngày 12 tháng 9, 1930 vận động để nông dân ở năm xã chung quanh Vinh (thủ phủ của Nghệ An) khoảng độ 200 người đi xin giảm thuế. Nghĩa là với số công nhân nói trên chỉ còn lại chừng độ một hai trăm người tiếp tục đi theo việt gian cộng sản, cùng với khoảng 200 nhân mạng là những nông dân nghèo khổ, mà chúng đã biến thành cái gọi là cuộc nổi dậy của Xô Viết ở trong một xã. (Nên lưu ý, mỗi xã chỉ có khoảng 40 người kể cả đàn bà và thiếu niên!)
Lũ đảng viên của cái gọi là Đảng Cộng Sản Đông Dương tập trung vào một vài xã và tổ chức chém giết các hào lý của xã, chém giết các nhà nông gọi là vừa đủ ăn và các hương sư, thủ từ giữ đền , cùng với các sư sãi nhà chùa. Chúng cướp lúa gạo, gia súc, xóa giấy nợ , chặt đầu người này đâm tiết người kia và gõ trống mõ phèng la để ăn mừng cái gọi là “Chính Quyền Xô Viết Công Nông” (không có binh,không có lính tham gia như cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng). Chúng cướp bóc, giết người chẵng cần xét xử. Chỉ cần một tên xướng lên, thì cả bọn hùa nhau giết người, cướp của và sau đó chúng tổ chức nhậu nhẹt ăn mừng chiến thắng, thật đúng là một lũ cướp ngày. Từ đó chúng lan ra một vài xã, rồi lên đến một vài huyện lỵ.Và với sự đàn áp của thực dân Pháp, và không có sự hưởng ứng của người dân địa phương nên chỉ sau bốn tháng là xẹp hết, mà VGCS gọi đó là “THOÁI TRÀO”.
Sau này, cho đến tận hiện nay, VGCS vẫn thổi phồng cái gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, chỉ là nhằm đề cao những cái không hề có thật, mà chỉ là việc tự dối mình, dối người và các thế hệ sau mà thôi.
Gọi là Nghệ Tĩnh (2 tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh) nhưng thực ra “phong trào” đó chỉ xuất hiện chưa qúa 5 huyện, ở Thanh Chương là chính còn 4 huyện còn lại chỉ xảy ra ở vài xã hưởng ứng (còn lại ở Hà Tĩnh chỉ có một xã giáp giới với Nghệ An mà thôi).
Không thấy số đông công nhân hưởng ứng, một số quay lại hàng phục chủ nhà máy, một số hoảng sợ bỏ trốn về nông thôn hoặc trốn đi các tỉnh khác, thậm chí một số vượt cả biên giới qua Lào, Miên và cả Thái Lan. Một số ít khác lại bỏ trốn tận Vân Nam bên Tàu.
2 Sự việc VGCS rêu rao là tồn tại bốn tháng của cái gọi là “Xô Viết Nghệ Tĩnh” là vì, kể từ ngày 12 tháng 9, 1930, là ngày mà chúng kéo nông dân ra và lôi kéo một số công nhân để bắt đầu phá rối, rồi quay trở về xã giết người cướp của và đặt tên cho cuộc nổi dậy đó là lập chính quyền Xô Viết Công Nông. Thoạt đầu, để lôi kéo những người công nhân thì chúng nói rằng ra biểu tình bất bạo động để xin được giài quyết về điều kiện làm việc cũng như xin tăng lương một cách ôn hòa. Nhưng khi một số lưu manh ở nông thôn ra, chúng đã biên cộc biểu tình “bất bạo động” thành hành động cướp của giết người, và thế là một số công nhân đã trót đi theo đành phải “đâm lao thì phải theo lao” vậy.
Đầu tháng 9, 1930 cũng là ngày mà thực dân Pháp làm cái việc nối tiếp của VGCS đang làm giở dang đó cũng là việc chém giết, cướp bóc, hãm hiếp, cho đi tù lưu đày biệt xứ hàng chục ngàn gia đình (chứ không phải người). Xô Viết của thực dân đỏ Nga Xô chỉ thị cho VGCS thi hành bị sụp đổ hoàn toàn chỉ còn lại xác chết đầy đồng, nhà cửa bị đốt, làng mạc vắng tanh. Chỉ có hằng ngàn con qụa bay về rỉa xác người và kêu suốt ngày. Huyện lỵ Thanh Chương là một điển hình từ cái năm 1930 đó, cái lũ chim quạ thay thế cái gọi là Xô Viết đã sinh sôi nảy nở đến mức năm 1960, ở huyện Thanh Chương, chim quạ bay đen trời!!!
3 Một điều cần lưu ý là sau khi Le Nin đẻ ra một tổ chức mới nhằm quản lý đất nước ở cấp “nhà nước”, từ đó chúng cho ra đời Bộ Thuộc Địa mang danh xưng Quốc Tế III, thì bè lũ việt gian do Nga Xô trong lốt đảng Cộng Sản Đông Dương có thể được coi là công cụ tự nguyện trung thành nhất của Nga Xô Viết. Và chúng cũng là tay sai bản xứ đầu tiên thực thi mô hình Xô Viết trên đất nước Việt Nam với một mục tiêu rõ ràng là: Tạo điều kiện dễ dàng nhất cho Nga Xô Viết cai trị vĩnh viễn, tiến tới sát nhập nhân dân và đất nước Việt Nam thành một bộ phận của Liên Bang Nga Xô Viết, làm bàn đạp ra toàn Đông Dương và sẽ mở rộng ra Đông Nam Á Châu.
Thời kỳ đó VGCS chưa có kinh nghiệm về “chơi chữ” để mơ hồ hóa nhiệm vụ thực sự mà Nga Xô Viết giao cho chúng, cho nên chúng đã nói rõ nhiệm vụ hàng đầu và lâu dài của chúng đối với người dân Việt Nam là:
“TRÍ, PHÚ, ĐỊA, HÀO
ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ”.
Một đất nước, một cộng đồng mà thiếu bóng các tầng lớp Trí, Phú, Địa, Hào thì còn lại cái gì??? Ngoại trừ làm lao nô và binh nô cho ngoại bang. Ngoại Bang ở đây là Liên Bang Xô Viết (và từ 1950 cho đến tận nay là cả Tàu bành trướng nữa).
Nói chủ nghĩa thực dân đỏ Nga Xô Viết tinh vi và tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại là nằm trong khẩu hiệu hành động nói trên của bè lũ VGCS từ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, cho đến tận hiện nay (2013) và sẽ còn tiếp diẽn cho tới khi chúng hoàn toàn bị loại bỏ.
Phong kiến Tàu cho đến thực dân Pháp, Phát Xít Nhật cũng từng có hành động như bắt cống các nhà Nho, Thày Thuốc, Thợ cao tay của các ngành nghề, nhưng chúng chưa dám làm cái việc: trí, phú, địa, hào; đào tận gốc, trốc tận rễ. Riêng tụi Tàu từ khi đội lốt “cộng sản” để thực thi “chủ nghĩa đại hán bành trướng” thì chúng KHÔNG“đào tận gốc, trốc tận rễ” mà chúng đã và đang hán hóa: cả tổ quốc Việt Nam và mọi sắc dân sống trên đất nước Việt Nam, đã có công đoàn kết dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam từ khi chúng ta còn chưa có lịch sử thành văn.
CẦN HIỂU ĐÚNG NỘI DUNG CỦA :
TRÍ, PHÚ, ĐỊA, HÀOĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ
Chỉ khi nào hiểu đúng nội dung khẩu hiệu: Trí, Phú, Địa, Hào – Đào Tận Gốc, trốc tận rễ được VGCS thực thi liên tục từ cái gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 cho đến hiện nay và tiếp tục như thế cho đến ngày cả tổ chức việt gian của chúng bị loại bỏ khỏi Việt Nam, thì chúng ta mới thấy hết tội ác của chúng, mới có thể hiểu được vì sao chúng được sự tiếp tay của các chính quyền các nước trên thế giới (cần phân biệt chính quyền với người dân các nước đó). Đồng thời chúng ta mới hiểu được trách nhiệm sơ đẳng nhất của mỗi nguời dân Việt Nam. Và, trước Quốc Nạn này, làm sao toàn dân Việt Nam có thể đoàn kết mọi sắc dân, mọi cộng đồng, mọi thành phần xã hội, cả trong và ngoài Việt Nam, cũng như làm thế nào để nhân dân yêu tự do, yêu dân chủ, độc lập, hoà bình, hạnh phúc, công bằng, văn minh trên toàn thế giới bảo vệ và giúp nhân dân Việt Nam PHỤC QUỐC, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM thành một đối tác ổn định tin cậy được và có tinh thần quốc tế cao cả, bảo vệ mối quan hệ đôi bên cùng có lợi trong hợp tác trên mọi lãnh vực, quyết làm trọn mọi nhiệm vụ quốc tế phân công với tinh thần trách nhiệm cao nhất.
4. Chúng ta cần lưu ý đến việc quyết tâm tiêu diệt Việt Nam của tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh trong cụm chữ:
“ĐÀO TẬN GỐC TRỐC TẬN RỄ”
Và đối chiếu với những chính sách được thực thi sau khi chúng lừa đảo cướp được chính quyền bộ máy nhà nước ở Việt Nam vào năm 1945, cũng như những việc làm của chúng sau khi Nga Xô Viết cho tổ chức việt gian của chúng ra đời.
Nếu mở đầu là bán nhà Ái Quốc Phan Bội Châu, năm 1925, cho thực dân Pháp, do tên đại tội đồ Hồ Chí Minh thực hiện mà không phải được sự đồng lõa của toàn thể đảng cộng sản Đông Dương việt gian của chúng, vậy thì tại sao trước một tội ác lớn lao đó mà Hồ vẫn được bọn chúng suy tôn làm lãnh tụ số một? Ngay tên việt gian Hà Huy Tập, kẻ đã có những báo cáo vể những sai sót của Hồ, mà với tư cách Tổng Bí Thư 1935, Hà Huy Tập đọc báo cáo chính trị lần Thứ Nhất của cái tổ chức việt gian mang tên Đảng Cộng Sản Đông Dương, ở Ma Cao (Tàu) trong đó có đọc bản kết án “tên Bảo Đại, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng… là bọn việt gian” (SIC)!!!???
Nên nhớ cái báo cáo đó do Hà Huy Tập đọc và được thông qua không một đứa nào phản đối. Không những thế nó vẫn được duy trì trong tuyển tập “Văn Kiện Đảng” (việt gian) do nhà xuất bản chính trị quốc gia (in lần thứ 1).
Xin được đặt câu hỏi:
Nếu một đảng chính trị tự đóng cho mình cái nhãn “cách mạng giải phóng đất nước và dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp” mà lại có thể “Đào Tận Gốc, Trốc Tận Rễ” bốn giai tầng rường cột của nước nhà; lại có thể bán nhà Ái Quốc của Dân Tộc đã được khẳng định và được đặt tên ở các đường phố Hà Nội, Huế, Saigon và nhiều đô thị của Việt Nam suốt từ thời kỳ VGCS còn rúc đầu bên Tàu, bên Nga Xô Viết, trong cái lỗ hang pac pó (Cao Bằng)… Vì vậy việc bán các nhà yêu nước là các cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học và các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng… cho thực dân Pháp để chúng tiêu diệt tàn bạo, thì chúng ta phải gọi cho đúng cái tên của “tổ chức” đó là gì??? Quan điểm lập trường của chúng rất ăn khớp và tung hứng với lũ thực dân Pháp để tiêu diệt những cá nhân và tổ chức yêu nước của Việt Nam. Vậy chúng ta phải gọi chúng là gì???
Tưởng cũng nên nhớ rằng cái tội toa rập với thực dân Pháp nhằm tiêu diệt những người mà chính chúng cũng phải thừa nhận qua các bài viết của lũ “sử nô” bọn chúng, đó là những cá nhân và đảng phái của người Việt Nam yêu nước (ngay tận 2013 này), và với sự khẳng định của toàn thể đảng viên của chúng, mà không một ai phản bác kể từ sau báo cáo chính trị của tên việt gian Hà Huy Tập vào năm 1935.
Vậy xin hỏi quý cụ và quý bạn đọc cả trong và ngoài nước Việt Nam; kể cả những học giả quốc tế, nhất là những người làm chính trị, viết sử, hoặc làm truyền thông, hãy tìm một cái tên thích hợp cho bọn chúng, căn cứ qua hành động và tư duy của bọn chúng dùm, vì lịch sử đã trải qua hơn 80 năm rồi đấy.
5 Nên nhớ rằng việc cộng tác cùng thực dân Pháp và các thế lực ngoại quốc khác như Tàu Tưởng (Tưởng Giới Thạch) để tiêu diệt những cá nhân và tổ chức của người Việt Nam không cùng lập trường làm việt gian cho Nga Xô Viết của tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh trong lốt ĐảngCộng Sản Đông Dương còn tiếp diễn cho đến sau khi Tàu Tưởng phải rút khỏi Việt Nam (1946) Vì quân của Tưởng đã để lại vũ khí tước từ Phát Xít Nhật giao cho tổ chức việt gian Hồ Chí Minh và thực dân Pháp, thì không chỉ tổ chức việt gian Hồ Chí Minh lùng bắt những người Việt Nam không chấp nhận làm việt gian mà còn huấn luyện về quân sự cho lực lượng vũ trang của tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh, giúp chúng làm trọn vẹn hơn nữa trong cái gọi là “tiêu thổ kháng chiến”, để chúng nhanh chóng hoàn thành bước đi của việt gian đầu tiên là “Vô Sản Hóa Toàn Dân”; cùng chúng phá các Chùa, Đền, Thành Hoàng, Nhà Thờ, Đình Làng… Đó là bước đầu xóa bỏ truyền thống văn hóa, biết ơn tiền bối đã có công giữ nước và dựng nước; phá bỏ nền kiến trúc đặc thù của Việt Nam và sinh hoạt tâm linh, vốn là một điều hết hết quan trọng của người Việt Nam trong giáo dục, nếp sống gia đình và xã hội lành mạnh, đạo đức…
6Từ đó cho thấy:
a) Đào tận gốc, trốc tận rễ tầng lớp TRÍ trong xã hội không có nghĩa là giết chết về mặt thể lý (thân xác) mà thôi . Vấn đề quan trọng nhất là xóa bỏ nền tảng văn hóa đặc thù của các sắc dân anh em sống hoà đồng trong Tổ Quốc việt Nam; thoái hóa tầng lớp trí thức thành trí nô (hay trí thức ngựa như Nhà Báo Việt Thường đặt cho họ)* , chấp nhận sống hèn, vô liêm sỉ, run sợ trước cường quyền bạo lực; hoa mắt trước tiền tài, danh vọng (ảo). Điều đặc biệt cần quan tâm là trong đầu óc họ không còn khái niệm “Tổ Quốc và Dân Tộc” họ hành động vô trách nhiệm với các thế hệ ông cha, với chính bản thân họ và các thế hệ nối tiếp.
Xin quý bạn đọc cứ nhìn và quan sát các hoạt động của tầng lớp trí thức diễn ra trong ngoài Việt Nam, xem con số hành xử có trí tuệ và đúng là tầng lớp ưu tú của đất nước dân tộc có phải chỉ là một con số hết sức khiêm nhường!!!
XIN ĐƯA RA ĐÂY MỘT CHUYỆN CÓ THẬT 100% ĐƯỢC KỂ LẠI QUA MỘT NHÂN CHỨNG HIỆN ĐANG CÒN SỐNG TẠI HẢI NGOẠI KỂ RẰNG, CÁI NĂM VIỆT GIAN HỒ CHÍ MINH VÀO HÀ NỘI CƯỚP CHÍNH QUYỀN, THÌ ĐÚNG NGÀY ĐẦU NĂM 1955, NGUỴ QUYỀN VGCS HÀ NỘI CHO TỔ CHỨC MỘT CUỘC MEETING ĐỂ TÊN VẨU PHẠM VĂN ĐỒNG ĐẾN CHÚC TẾT NGƯỜI HÀ NỘI, Ở TRƯỚC CỬA NHÀ HÁT LỚN CỦA THÀNH PHỐ. SAU KHI CHÚC TẾT XONG, XEM NHƯ LÀ PHI LỘ CHO BUỔI NÓI CHUYỆN, NHÂN DÂN HÀ NỘI CHÍNH THỐNG (KHÔNG KỂ BÈ LŨ VGCS VÀ DÂN TỨ XỨ Ở CÁC TỈNH KÉO VỀ) PHẢI NÍN CƯỜI KHI NGHE VIỆT GIAN PHẠM VĂN ĐỒNG “TOE TOÉT MỘT CÁCH RẤT THẬT LÒNG”, ĐẠI Ý ĐỒNG NÓI: “KHI ĐOÀN CHÚNG TÔI TỪ GENEVE VỀ LẠI VIỆT NAM QUA NGẢ MÚT CU (TỨC MẠC TƯ KHOA, NGA XÔ VIẾT), ĐẾN CHÀO ĐỒNG CHÍ MALENCOV ( LÚC ĐÓ LÀ TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN BONSHEVIK NGA XÔ VIẾT) THÌ ĐƯỢC ĐỒNG CHÍ ẤY ÂN CẦN DẶN DÒ RẰNG, VIỆT NAM CỦA CÁC ĐỒNG CHÍ CHỈ CẦN SĂN HỔ VÀ TRỒNG CHUỐI, TẤT CẢ BÁN CHO LIÊN XÔ LÀ TẤT CẢ NHÂN DÂN VIỆT NAM (PHÍA BẮC) ĐỦ ĂN, ĐỦ MẶC RỒI!!!”
Nói đến đó Đồng vẩu tự vỗ tay trước và cười mõm há ra tới mang tai, trông rõ cả mấy chiếc răng Hàm mạ vàng. Thế là Trần Duy Hưng, phó chủ tịch Uỷ Ban Quân Quản Hà Nội lúc đó rất nhanh chóng đứng dậy khô khẩu hiệu “Liên Bang Xô Viết, thành trì cách mạng vô sản thế giới muôn năm” và vân vân.
Câu chuyện hài hước đó, ai ngờ lại được nguỵ quyền việt gian Hồ Chí Minh nhanh chóng thực hiện:
Ủy Ban Nông Nghiệp trung ương được cho ra đời với Hoàng Anh, Ủy viên Ban Bí Thư VGCS làm chủ nhiệm ủy ban., Hoàng Anh cho họp các chuyên viên về nông ngiệp, gồm các kỹ sư về nông nghiệp như Nghiêm Xuân Yêm; Thi Nô Cù Huy Cận (vì tên này cũng có bằng kỹ sư nông nghiệp); Đoàn Trọng Truyến (kỹ sư nông nghiệp); tổng thư ký trường đại học nhân dân; hiệu trưởng trường đại học kinh tế tài chánh; chủ nhiệm ủy ban kinh tế - tài chánh của quốc hội VGCS…Ngoài những tên trên còn có mặt tiến sĩ Thái Văn Trừng, giáo sư lưu dụng của trường đại học Hà Nội, mà cũng là tác giả quyển sách có tên “Về Hệ Thảm Thực Vật Ở Việt Nam” .
Với tư cách Chủ Nhiệm Uỷ Ban Nông Nghiệp Trung Ương, Hoàng Anh phổ biến kế hoạch thực thi sáng kiến của hắn là trồng chuối vào tất cả các đồi hoang vùng Việt Bắc và Tây Bắc.
Cả đám có tên ở trên đều ngồi im không đứa nào dám mở miệng nói được lấy một câu kể cả Thơ Nô Cù Huy Cân mà Ngưu Ma Vương Đặng Phúc Tuệ gọi là “đại công thần của chế độ (nô lệ đỏ)”. Trong thâm tâm cả lũ nói trên, dù biết rất rõ ràng việc đề xướng của thằng được gọi là Chủ Nhiệm Uỷ Ban Nông Nông Nghiệp Trung Ương Hoàng Anh, là bất khả thi nếu như không muốn nói là không tưởng. Riêng nhà trí thức Thái Văn Trừng có góp ý nhẹ nhàng đại ý là bộ rễ của cây chuối không thể thích nghi được trên đồi núi. Vừa nghe xong lời góp ý nhẹ nhàng Hoàng Anh chỉ mặt và mắng Giáo Sư Tiến Sĩ Thái Văn Trừng như tát nước
Kế hoạch trồng chuối của Hoành Anh trên đồi hoang vẫn cứ được tiến hành, người dân, cán bộ, kể cả công an việt gian và ngụy quân việt gian cho đến cả công nhân, nông dân, phải đi dân công (không lương,phải tự túc), bị bắt buộc đi chồng chuối để bán cho Liên Xô…!!! Và khi chuối trồng đến đâu thì chỉ sau vài ngày là chuối… chết hết đến đó!
Chuyện kết thúc rất có hậu: Vì chuối chết mà chẳng ai bị khiển trách gì cả. Chỉ có một chút thay đổi nhỏ là Hoàng Anh thôi làm chủ nhiệm Uỷ Ban Nông Nghiệp Trung Ương mà lại lên chức sang làm Phó Thủ Tướng ngụy quyền Ba Đình, kiêm Bộ Trưởng Tài Chánh!!!
Tiến Sĩ Thái Văn Trừng bị Hoàng Anh chửi như chửi chó trong hội nghị may mắn không bị truy cứu cái lý lịch là “lưu dụng”, có lẽ nhờ tác phẩm “Về Hệ Thảm Thực Vật Ở Việt Nam” của ông được Nga Xô chú ý tới, và qua sứ quán Nga Xô ở Hà Nội trao cho ông bằng Tiến Sĩ của Nga Xô (không cần phải qua Nga Xô nhận bằng)!!!
Còn việc săn Hổ theo gợi ý của Malencov với Phạm Văn Đồng cũng được chấp hành nghiêm chỉnh. Đó là thượng tướng ngụy quân VGCS là Chu Văn Tấn, Uỷ Viên Trung Ương VGCS; phó chủ tịch quốc hội việt gian; chủ tịch kiêm bí thư khu ủy và quân khu ủy khu tự trị Việt Bắc, được giao toàn quyền tổ chức (độc quyền săn hổ), có cộng tác viên là đại tá ngụy quân VGCS Hoàng Điền (cán bộ VGCS tập kết) giữ chức cục trưởng cục kiểm tra lâm nghiệp!
Câu chuyện trồng chuối như trên kết luận là có hậu, còn chuyện săn hổ còn (hình như) có hậu hơn là ở chỗ sau đó Chu Văn Tấn kiêm thêm chức “Trưởng Ban Bảo Vệ Sức Khoẻ Cho Trung Ưong Đảng” (VGCS), nên hắn quản lý luôn cả các khu vực trồng thuốc phiện. Sau này thuốc phiện còn được dùng làm “vũ khí”để đầu độc xã hội Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc xâm lược toàn diện, nghĩa là tha hóa con người để dễ nô lệ đỏ hoá. Còn điều nữa VGCS còn dùng thuốc phiện bán lấy tiền của VNCH, để chi dùng cho các hoạt động tình báo (giống như trò gởi tiền cho thân nhân ở Việt Nam hiện nay), khủng bố, nuôi dưỡng các "phong trào" điển hình như phong trào gìn giữ hoà bình, dân chủ, du ca… Hệt như hiện nay chúng dùng qũy của NQ 36 nuôi dưỡng các đảng phái ma trơi, chống cộng cuội, dân chủ cuội…
Trong quản lý thuốc phiện, Chu Văn Tấn còn quản lý luôn cả mật ong ở những vùng trồng thuốc phiện, vì ong đó hút từ các nhụy hoa thuốc phiện nên mật ong đó rất đặc biệt cho việc cho việc ngâm thai nhi con so làm thuốc “Trường Sinh – Kích Dục” cho lũ Trung Ương VGCS . Chẳng rõ hiệu qủa khoa học ra sao, nhưng trong thực tế cho thấy những tên được gọi là lãnh đạo chóp bu của tập đoàn VGCS đều sống dai như Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Anh, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vỉnh, Võ Chí Công, Hoàng Văn Hoan, Đỗ Mười, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Phùng Thế Tài, Chu Huy Mân…, trường hợp Đỗ Mười gần 90 tuổi mà còn làm cho người hầu phình bụng!!!
b) Đào tận gốc, trốc tận rễ tất cả Trí, Phú, Địa, Hào, nên trong xã hội Việt Nam dưới bàn tay việt gian cộng sản từ Hồ Chí Minh cho đến nay, chúng ta thấy:
- Ở Bắc Việt Nam từ 1954, nghĩa là bắt đầu tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh được tạm quyền quản lý Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra phía Bắc, mọi hoạt động từ công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, tài chánh, ngân hàng, lưu thông phân phối, tiểu thủ công, giao thông vận tải cho đến các phương tiện phục vụ dân sinh đều nằm trọn trong tay tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh và được điều hành bằng bộ máy ngụy quyền thư lại của VGCS với phong cách “lãnh chúa tuyệt đối”, nghĩa là không theo công thức nào, không theo luật lệ nào, không theo văn bản pháp lý nào. Tất cả tuỳ theo ý thích cá nhân của tên VGCS đứng đầu những tổ chức đó, như Bộ Trưởng, Chủ Nhiệm Ủy Ban, Tổng cục trưởng, tổng giám đốc của một công ty, chủ nhiệm hợp tác xã mọi loại… Chính vì thế nên cái ngụy quyền VGCS đó có lúc có tới 11 đứa phó thủ tướng và các bộ tối thiểu là 5 thứ trưởng; ở cấp tổng cục, cục, vụ, viện, phòng, vân vân… cũng đều như thế cả.
Bộ máy nhà nước ngụy quyền VGCS đã cồng kềnh lại thêm sự chồng chéo của tác tổ chức ngoại vi của tập đoàn VGCS.
Thí dụ: Chính phủ ngụy quyền VGCS có các bộ ngoại giao, ngoại thương, nội thương, văn hóa, thông tin, giáo dục vân vân… thì ở Trung Ương đảng VGCS cũng có các ban đối ngọai, ban kinh tế, ban tuyên huấn, thông tin, giáo dục… để hướng dẫn và giám sát các bộ trong cái gọi là chính phủ của ngụy quyền VGCS. Đã thế, nó còn rườm rà tới mức ngay trong phủ thủ tướng ngụy quyền VGCS cũng có thêm các văn phòng như Bộ Trưởng phủ thủ tướng; bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng nội chính, theo dõi cả bộ công an và bộ nội vụ; bộ trưởng chủ nghiệm văn phòng khoa giáo, theo dõi khoa học kỹ thuật …; bộ trưởng văn phòng tài mậu, theo dõi về vấn đề tài chánh và mậu dịch vân vân…
Tổ chức một bộ máy quản lý 18 triệu dân (dân số Bắc Việt Nam trong những năm 1954-1960), mà nó cồng kềnh đến mức mỗi đoàn thể ngoại vi cũng đủ thứ ban bệ, cục, vụ, vân vân… như tổng công đoàn có trường đại học công đoàn học tập chung, cũng co đủ ban từ tổ chức, giáo dục, thi đua, văn hóa quần chúng cho đến cả tờ báo riêng là tờ Lao Động và có nhà xuất bản riêng là nhà xuất bản Lao Động… ; Hội Phụ Nữ; Hội Liên Hiệp Sinh Viên; Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh; Ủy Ban Thiếu Niên Nhi Đồng; Hội Nông Dân; Liên Hiệp Hợp Tác Xã Tiểu Thủ Công và Thủ Công; Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới; các Hội Hữu Nghị như Việt-Xô, Việt -Đức, Việt –Pháp, Việt –Hoa, Việt Nam – Cuba … cũng đều có một đống nhân sự ngồi chơi sơi nước. Tất cả các hội đoàn nói trên lại nằm trong sự quản lý của cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Và, bộ máy quản lý của Mặt Trận Tổ Quốc cũng có đầy đủ ban bệ, cục, vụ, phòng… hệt như một thứ “chính phủ” nhỏ. Nó cũng có một tờ báo riêng là tờ Cứu Quốc và quản lý mấy tờ báo khác nữa như Độc Lập của đảng Dân Chủ, Tổ Quốc của đảng Xã Hội; một tờ của Hội Việt- Hoa và một tờ Chính Nghĩa của ban Tôn Giáo, và vân vân…
Trước kia tầng lớp HÀO là những người quản lý về mặt hành chánh của toàn xã hội trước 1954, nay bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nên bộ máy quản lý xã hội của tập đoàn VGCS mới phình ra một cách phi thường như vậy. Cho nên Tập đoàn VGCS có vẻ như nhận thấy giai đoạn đó khi chúng phát động phong trào tinh giản bộ máy nhà nước, giảm biên chế, chống tham ô lãng phí, bảo đảm 8 giờ lao động vàng ngọc; đẩy mạnh phong trào dám nghĩ dám làm, phát huy sang kiến, tiết kiệm nguyên vật liệu sản phẩm, hạn chế thấp nhất sản phẩm sai quy cách… những phong trào nổ như pháo tết nói trên được quảng bá rầm rộ trên các phương tiện truyền thong đại chúng như báo chí, đài phát thanh, loa phóng thanh...nhất là cùng lúc việt gian Hồ Chí Minh ra lệnh xây dựng “con người mới xã hội chủ nghĩa”, với phong trào tìm các điển hình: “người tốt việc tốt”, “người thực việc thực”. Các báo đều có mục tuyên dương các điển hình đó và cá nhân nào đó đã được báo chí tuyên dương sẽ nhận “huy hiệu bác hồ” (SIC), và một tờ giấy khen và nhân vật đó được xem như là đã ló đầu, thoát ra khỏi “đám quần chúng nô lệ đỏ” thầm lặng để bước vào thẳng vào hàng ngũ“quan lại” ở cơ sở, có thể được đi đào tạo hoặc ngay trong nước, hoặc gởi đi đào tạo ở những “nước bạn”.
Chính cái “mục tiêu” tinh giản trong bộ máy nhà nước quá phức tạp đó lại làm cho- bộ máy nhà nước không những đã qúa cồng kềnh- còn phình to hơn nữa. Vì, lại đẻ ra đủ các ban bệ, cụm vụ… để hướng dẫn các phong trào nói trên, tự trong cái gọi là “chính phủ”, cho đến các ban ngành hành chánh, các bộ từ cấp tỉnh thành huyện xã, tổ dân phố; và tất nhiên ở các ban ngành của đảng VGCS và các tổ chức ngoại vi nằm trong cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc và ngay chính trong cái Mặt Trận Tổ Quốc đó!!!
Trước 1975, kẻ đầu tiên được việt gian Hồ Chí Minh chỉ định làm cái việc đó trong toàn bộ hệ thống quản lý của tập đoàn VGCS là Đỗ Mười. Sauk hi làm xong cái việc “Đào tận Gốc, Trốc Tận Rễ” tầng lớp PHÚ của xã hội phía Bắc Việt Nam, Đỗ Mười và phó của hắn là Khuất Duy Tiến đều bị bệnh điên. Cả hai được Hồ cho qua Tàu Cộng bành trướng chữa trị. Sau hai năm ở bên Tàu, bệnh của Đỗ Mười tạm ổn định, Hồ cho gọi về và trao cho chức vụ nói trên. Còn Khuất Duy Tiến bị điên cho đến chết.
Từ cái trò hề “xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa” , “người tốt việc tốt” , “người thật việc thật” của Hồ đưa ra, đã có biết bao chuyện khó tin mà có thật. Xin đưa vài thí dụ để chia sẻ với quý cụ và quý bạn đọc những âm mưu thâm độc của tập đoàn việt gian cộng sản từ Hồ Chí Minh cho đến nay và tai hại của nó to lớn như thế nào đối với Dân Tộc và Tổ Quốc ra sao cho mọi tầng lớp người dân trong xã hội Việt Nam, đến mức đại đa số đã và đang tự nguyện thoái hóa mình, thoái hoá cái tầng lớp mà mình muốn đạt tới. Nói một cách khác là người ta đã vô thức tự nguyện “đào tận gốc, trốc tận rễ” bản thân và giai tầng xã hội mà mình là một thành viên.
Cái khẩu hiệu và mục tiêu hàng đầu khi Nga Xô Viết là tuyển lựa nhân sự; huấn luyện cách gây nội chiến; tổ chức các phong trào yêu nước giả hiệu để lôi cuốn người Quốc Gia yêu nước và tổ chức xâm nhập theo lối minh cưu vào các đảng phái yêu nước; chu cấp tiền bạc và các nhu cầu cả khi còn hoạt động bí mật lẫn công khai bằng cả hệ thống chính trị của Nga Xô Viết (sau đó có thêm sự trực tiếp lèo lái, chỉ đạo và hỗ trợ của tàu Cộng đại hán bành trướng), và các chư hầu trong cái gọi là phe “xã hội chủ nghĩa” chính là việc “Đào tận Gốc, Trốc Tận Rễ” các giai tầng “Trí Phú Địa Hào của Người Việt Nam”. Vậy tại sao lại phải nhận định rằng từ việc quản lý bộ máy hành chánh xã hội Việt Nam qúa cồng kềnh khi vào tay tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh và các phong trào như nêu trên lại có khả năng tồn tại cho đến tận ngày hôm nay (2013) này?
Chính Khí Việt xin được chia sẻ với quý bạn đọc nhằm giải thích câu hỏi nói trên như sau:
A) VÌ LÀ MỘT TỔ CHỨC DO NGOẠI QUỐC (NƯỚC NGA XÔ VIẾT) TẠO RA VÀ LÃNH ĐẠO MỌI HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ CHO CHIẾN LƯỢC BÀNH TRƯỚNG CHỦ NGHĨA THỰC DÂN ĐỎ; SAU NÀY, DO ĐIỀU KIỆN CÓ CHUNG BIÊN GIỚI VỚI TÀU VÀ MỌI HOẠT ĐỘNG ĐỀU NHỜ TÀU HUẤN LUYỆN, HỖ TRỢ, VIỆN TRỢ MỌI MẶT CHO NÊN TẬP ĐOÀN VGCS HỒ CHÍ MINH CŨNG PHỤC VỤ CHO TỤI TÀU KHỰA ĐẠI HÁN BÀNH TRƯỚNG. NÓI MỘT CÁCH KHÁC LÀ TẬP ĐOÀN VGCS HỒ CHÍ MINH TỰ NGUYỆN HOẶC BẮT BUỘC PHẢI TỰ NGUYỆN LÀM VIỆT GIAN CHO CẢ NGA XÔ VIẾT (LÀ MẸ ĐẺ) VÀ TÀU KHỰA ĐẠI HÁN BÀNH TRƯỚNG (LÀ MẸ NUÔI) ĐỂ BIẾN NHÂN DÂN VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM THÀNH THUỘC ĐỊA ĐỎ VÀ NÔ LỆ ĐỎ CHO CẢ NGA XÔ VIẾT LẪN TÀU CỘNG ĐẠI HÁN BÀNH TRƯỚNG.
Cho nên cái khẩu hiệu hành động được ghi chép trên giấy trắng mực đen được chính thức ra mắt với cái lốt “Đảng Cộng Sản Đông Dương”, trong vụ gọi là “Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931”, tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh cũng vẫn thực thi cái khẩu hiệu đó một cách rất trung thành, cho đến tận ngày nay Có điều khác với lúc ban đầu, tức thời Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, là tập đoàn VGCS vừa bonshevik hóa toàn đảng (VGCS Đông Dương) và bonshevik hóa toàn dân Việt Nam, thì chúng cũng đồng thời Hán hóa đảng VGCS của chúng và cũng vừa hán hóa toàn dân Việt Nam. Nếu tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh có hai chủ nhân thì người dân Việt Nam bị trị phải chịu đeo ba cái ách trong hệ thống cai trị của VGCS. Đó là: Nga Xô Viết, Tàu Cộng bành trướng và VGCS Hồ Chí minh. Dưới ba ách cai trị nêu trên, người dân Việt Nam chỉ còn là: kiếp nô lệ như trâu ngựa.
Còn bè lũ cầm quyền và toàn thể tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh thì đấm đá nhau chính vì cái ách một cổ hai tròng: Đó là mâu thuẫn giữa tụi thờ Nga Xô Viết và lũ thờ Tàu cộng đại hán bành trướng. Điển hình là vụ án thường được gọi Ià “xét lại chống đảng làm gián điệp” và vụ chém giết nhau bằng súng đạn năm 1979 giữa VGCS và Tàu khựa đại hán bành trướng.
Vì vậy không thể coi những tên cộng sản Việt Nam chết ở hai chiến trường phía Tây Nam và Phía Bắc trong những năm 1979 và những năm tiếp theo sau đó là các “Liệt Sĩ - Tử Sĩ”. Vì chúng là binh nô cho Nga Xô đánh Tàu Cộng bành trướng do mâu thuẫn tranh chấp MỘNG làm bá chủ thế giới giữa tụi thực dân đỏ với nhau mà thôi. Nạn nhân thực sự chính là người dân Việt Nam, còn lại là những kẻ không chịu mở mắt để chọn đường đi cho mình, nhất là cuộc chiến đó xảy ra sau 1975.
Chỉ có Quân Nhân QLVNCH hy sinh sinh mạng để bảo vệ Tổ Quốc mới xứng đáng được cái danh dự mang cái danh xưng đó. Bởi vì, các vị đó mới thực sự hy sinh mình VÌ LỢI ÍCH CỦA TỔ QUỐC và NHÂN DÂN Việt Nam. Không thể lẫn lộn để xếp chung với nhau trong danh xưng “Liệt Sĩ - Tử Sĩ” được. (Như tên việt gian Bút Nô Đỏ Phan Nhật Nam đã đồng hóa cái chết của Quân Nhân QLVNCH điển hình như Thiếu Tá Nguỵ Văn Thà cùng với cái chết của lũ binh nô đỏ VGCS và coi đó đều là vì Tổ Quốc là hoàn toàn SAI LẦM). Suốt bốn năm trời (từ 1975 đến 1979) lóa mắt và tự hào là kẻ chiến thắng, ngụy quân CGCS không hề có một chút động tâm, một chút tỉnh ngộ khi chứng kiến cảnh Quân- Cán – Chính VNCH bị đưa toàn bộ đi tù khổ sai để bị hành hạ vì đói rét, bệnh tật, bị làm nhục và biết bao người đã phải chết một cách khốn khổ như vậy! Gia đình, nhà cửa, vợ con bị tan nát, cuộc sống không bằng súc vật; bị phân biệt đối xử, bị cưỡng bức đi các nơi rừng sâu, núi hiểm được gọi bằng mỹ từ “kinh tế mới”,một hình thức giết lần, giết mòn!!!
Cả nước Việt Nam Cộng Hòa bị lật nhào các giá trị nhân văn, truyền thống, lịch sử nếp sống văn minh…từ thành thị đến nông thôn và kể cả nhừng vùng thuộc cao nguyên Trung Phần trong các sắc tộc anh em dân tộc thiểu số.
Cộng đồng các sắc dân thiểu số của VNCH bị khủng bố, chia cắt bằng cắt bằng các làng xã Việt Nam phía Bắc được VGCS tổ chức ồ ạt kéo vào, tàn phá, cướp ruộng cướp rẫy…
Một kiểu cách mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 với khẩu hiệu “Trí Phú Địa Hào, Đào tận gốc, trốc tận rễ” được tái hiện một cách tinh vi và thâm độc hơn nhiều lần.
Thanh Niên Nam Nữ của Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu bị tập đoàn VGCS bắt buộc phải vào hàng ngũ binh nô trong mỹ từ “trúng tuyển nghĩa vụ, làm nghĩa vụ quốc tế” nhưng thực ra chỉ là một thứ “lê dương” cho Nga Xô Viết để chúng tiến hành cuộc xâm lược Cam-Bốt, một chư hầu của Tàu Cộng bành trướng, kéo theo cuộc chiến ở phía Bắc với Tàu cộng bành trướng là điều tất nhiên.
Xưa kia, Quân Lực VNCH là lực lượng cốt yếu trong việc bảo vệ Tổ Quốc và Người Dân Việt Nam; bảo vệ cuộc sống an toàn cho mọi sinh hoạt xã hội từ sản xuất đến văn hóa giáo dục, khoa học, nghệ thuật, tín ngưỡng… lực lượng đó đã là cản lực mạnh nhất, nguy hiểm nhất cho “sự nghiệp” làm việt gian của tập đoàn cộng sản Việt Nam, cho nên vì không thể và cũng không dám chém giết hết lực lượng đó, nên chúng đã hành xử như đã thực thi thời kỳ trước 1975 ở vĩ tuyến 17 trở ra phía Bắc. Có nghĩa là chúng dùng đủ mọi phương pháp để thoái hóa cái lực lượng đó nhằm vô hiệu hóa họ hoặc sử dụng họ như những thứ nô lệ tay sai trong mọi bình diện sinh hoạt xã hội…
Ý đồ đó của VGCS không phải là không có chủ điểm của bọn chúng, chúng ta thử nhìn lại các thành phần HO ở hải ngoại hiện nay thì sẽ thấy những loại đã đầu hàng trong nhà tù VGCS như Vũ Ánh, Phan Nhật Nam, Nguyễn Tường Tâm, Phùng Ngọc Sa và vân vân… thì mới thấy hết được những trò nham hiểm rất thâm độc của tập đoàn VGCS trong việc “cải tạo” khiến cho một số những người nằm trong QLVNCH cũng như Quân – Cán – Chính của VNCH đã bị thoái hóa trở thành tay sai gián tiếp hoặc trực tiếp cho VGCS, hoặc làm tất cả những điều theo sự hướng dẫn của cơ quan truyền thông mà VGCS đã gián tiếp hoặc trực tiếp mua chuộc được.
b) Những nhận xét trên của Chính Khí Việt hoàn toàn là sự thật dựa vào tài liệu của chính VGCS đưa ra mà ai ai cũng có thể tham khảo được, và những”người thật, việc thật” cũng chính do báo chí của tập đoàn VGCS đăng tải hằng ngày. Lẽ tất nhiên ai ai cũng có thể tự do tra cứu dù ở trong hay ngoài nước Việt Nam.
Xin phép lưu ý đến quý cụ và quý bạn đọc rằng:
-Chính trong quyển ”Biên Niên Tiểu Sử Hồ Chí Minh do nhà xuất bản chính trị quốc gia ở Hà Nội” cho xuất bản năm 1993, thì Hồ với tư cách chủ tịch của Chính Phủ Liên Hiệp ngày 06 tháng 01, 1946 đã ký sắc lệnh hợp nhất lực lượng vũ trang của các đảng phái trong Chính Phủ Liên Hiệp.
Lực lượng vũ trang hợp nhất đó được đặt tên là: “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”. Sau đó trong lễ khai mạc Lục Quân ở Sơn Tây, Hồ thay mặt chính phủ Liên Hiệp tặng cờ cho trường Lục Quân có thêu tôn chỉ của Quân Đội Quốc Gia là : TRUNG VỚI NƯỚC HIẾU VỚI DÂN.
Thế nhưng khi Tàu Mao làm chủ lục địa năm 1949, thì Hồ cũng nhân danh chủ tịch chính phủ Liên Hiệp, Hồ cấp tốc luân phiên gởi các đơn vị Quân Đội Quốc Gia sang Tàu Mao để được huấn luyện, trang bị và tổ chức lại theo khuôn mẫu giống hệt quân lính Tàu cộng bành trướng, mà điều quan trọng nhất là đã đưa Quân Đội vào tay VGCS để chúng trực tiếp điều hành quản lý. Kể từ đó, Hồ cho đổi tên các lực lượng vũ trang hợp nhất đó, sau khi đã bị cưỡng bức “cộng sản hóa” (cải tạo) trong quân trường của Tàu cộng, để trở thành cái gọi là Quân Đội Nhân Dân (hay còn có tên bộ đội cụ Hồ). Và tôn chỉ ban đầu làTRUNG VỚI NƯỚC HIẾU VỚI DÂN bị đổi thành TRUNG VỚI ĐẢNG(VGCS), HIẾU VỚI DÂN, Nhiệm Vụ Nào Cũng Hoàn Thành, Khó Khăn Nào Cũng Vượt Qua, Kẻ Thù Nào Cũng Đánh Thắng (tất nhiên là kẻ thù của đảng VGCS).
Và từ cái tôn chỉ Trung Với Đảng được khẳng định rõ hơn trong cái tên bộ đội cụ Hồ,mà cái thằng cụ Hồ đó, nó đã khẳng định trong lá thư năm 1928 gởi cho Quốc Tế III, tức Bộ Thuộc Địa của Nga Xô Viết (có in trong văn kiện Đảng (VGCS)- Nhà xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, in lần thứ I) rằng Đảng VGCS của hắn là một bộ phận của Nga Xô Viết và chỉ tuân theo mọi chỉ thị của Nga Xô Viết mà thôi. Và từ khởi thuỷ bằng việc tên đại việt gian Hồ Chí Minh (năm 1925) bán Nhà Ái Quốc Phan Bội Châu và năm 1930, bán cuộc Khởi Nghĩa Yên Bái của Đảng Trưởng VNQDĐ, Anh Hùng Nguyễn Thái Học… để rồi qua cái gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 chúng tiêu diệt mọi giai tầng xã hội Việt Nam với khẩu hiệu Trí, Phú, Địa, Hào- Đào Tận Gốc,Trốc Tận Rễ.
Tiếp theo đó toàn là hành động buôn dân bán nước của tập đoàn Hồ Chí Minh, từ khi chúng cướp được bộ máy nhà nước 1945 cho đến tận ngày hôm nay .
Trong việc vinh danh tên đại tướng ngụy quân VGCS Võ Nguyên Giáp, Chính Khí Việt xin được chia sẻ cùng quý bạn đọc rằng, cái mà lũ sử nô của VGCS không chỉ rêu rao việc- mà chúng còn cẩn thận ghi trong thông sử và các văn kiện chính thống của bọn chúng rằng, - chúng đã “có công đánh Pháp, đuổi Nhật” để làm nên cái gọi là “cách mạng tháng 8, 1945”.
Sự thật là thực dân Pháp đã bị Phát Xít Nhật làm cuộc đảo chánh trên cả Ba Nước Đông Dương. Còn với Phát Xít Nhật lúc đó đang nằm chờ quân đội đồng minh đến giải giới. VÀ MỘT SỰ THẬT KHÁC NỮA LÀ: nhân việc tên đại việt gian Võ Nguyên Giáp chết, một kẻ thân cận với Giáp trong những năm từ 1946 đến 1968 (sau đó bị dính vào vụ án xét lại chống đảng), là Lê Trọng Nghĩa (92 tuổi), nguyên đại tá cục trưởng tình báo và quân báo của ngụy quân VGCS đã tiết lộ một bí mật.
Đó là năm 1945, tên việt gian Võ Nguyên Giáp đã ra lệnh cho Giải Phóng Quân (VGCS) ngưng tấn công quân Phát Xít Nhật và “TRỰC TIẾP GIAO HẢO với quân Quân Đội Nhật” (SIC), “nhờ đó Giải Phóng Quân VGCS vào chiếm lĩnh Hà Nội” (SIC). (Tài Liệu lấy từ bài “Tướng Giáp qua góc nhìn của nhà tình báo” VN Express, ngày 11 Tháng 10, 2013) (Tướng Giáp qua góc nhìn của nhà tình báo - VnExpress)
Vậy là, lực lượng vũ trang của VGCS không có chuyện “đuổi Nhật” mà là “GIAO HẢO VỚI NHẬT” đem quân vào “CHIẾM LĨNH HÀ NỘI” (SIC). Đó là bằng chứng VGCS tự nguyện khai ra là chúng đã bắt tay với Nhật để CƯỚP bộ máy nhà nước của nhân dân Việt Nam trong tay những người theo tôn chỉ “QUỐC GIA – DÂN TỘC” , “chứ không Vô Tổ Quốc” như chúng.
8.Những tóm tắt sơ lược nói trên cho ta cơ sở hợp lý để kết luận về sự cồng kềnh, chồng chéo, dẵm chân lên nhau trong bộ máy quản lý của tập đoàn VGCS áp đặt lên mọi tầng lớp người dân Việt Nam trong mọi sinh hoạt xã hội:Từ sản xuất đến lưu thông hàng hóa; từ hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch đến hệ thống truyền thông báo chí; từ sinh hoạt tôn giáo, tâm linh đến giáo dục đào tạo; từ cơ sở truyền thống vật thể đến phi vật thể; từ an ninh quốc phòng đến việc đoàn ngũ hóa người dân trong các tổ chức hội đoàn, đoàn thể nhằm mục đích quản lý mọi hoạt động sinh hoạt và định hướng mọi hoạt động sinh hoạt của mọi tầng lớp thành phần xã hội người Việt nói chung, đặc biệt người Việt Tỵ Nạn VGCS ở hải ngoại. Cụ thể là cái cơ quan có tên là“Đảng Uỷ Cộng Sản Việt Nam ở Nước Ngoài” và “Uỷ Ban Người Việt Ở Nước Ngoài”. Cùng song song hoạt động với toà lãnh sự, tổng lãnh sự và Toà Đại Sứ của VGCS nước ngoài.
Chúng ta cũng cần nhớ rằng lực lượng ngụy quân VGCS ở các cấp và cái gọi là “công an nhân dân” cùng với cái gọi là “An Ninh Quốc Phòng, trật tự trị an nhân dân” mà VGCS từng “ưu ái” trao nhiệm vụ cho chúng là:
a) Lính là do đảng VGCS độc quyền quản lý, trực tiếp chỉ huy, lãnh đạo, có nhiệm vụ hàng đầu là“BẢO VỆ ĐẢNG” (VGCS);
b) Công An là“thanh kiếm” của đảng VGCS , nghĩa là chủ yếuđể chém giết người dân bị trị(vì VGCS coi nhân dân là kẻ thù như hình với bóng của chúng);
c) An Ninh nhân dân là một thứ lính và công an VGCS không mặc sắc phục nằm trong mọi đoàn thể tổ chức của người dân mà VGCS đã đoàn ngũ hóa,từ thiếu nhi cho đến phụ lão; từ cán bộ hưu trí cho đến cựu chiến binh; từ các hội nhà văn cho đến các tổ chức tôn giáo… kể cả các loại băng đảng chứa điếm, mở sòng bạc, trộm cướp, buôn bán ma tuý, đòi nợ thuê, giết mướn …thậm chí chúng còn nằm trong cả những nhóm dân chủ cuội, phản tỉnh cuội, các phong trào chống cộng cuộicả trong và ngoài nước… như Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Văn Đài, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh... Một số khác thì công khai kêu gọi khai rõ tên tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp, số điện thoại vân vân.. như 8406; Thăng Tiến; và đặc biệt là nhóm mạo danh Phật trong danh xưng GHPGVNTN do Ngưu Ma Vương Quảng Độ aka Đặng Phúc Tuệ (đã chết) cầm đầu.
Qua sự trình bày của Chính Khí Việt bên trên cho phép CKV kết luận rằng:
Để tự vệ trước những đòn sấm sét của người dân bị trị Việt Nam và vẫn có thể tiếp tục làm tròn nhiệm vụ việt gian cho các mẫu quốc và các tập đoàn tài phiệt quốc tế, cho nên tập đoàn VGCS đã thực thi và tiếp tục thực thi xây dựng một bộ máy ngụy quyền cồng kềnh. Bởi vỉ đó là đường lối mà cũng là biện pháp để các tổ chức của chúng giám sát lẫn nhau, ngăn chặn sự thâm nhập của các thành phần không phải là VGCS tự nguyện (tức thế lực thù địch với tội việt gian của tập đoàn cộng sản Việt Nam).
Nhưng việc mở rộng bộ máy ngụy quyền cũng là một cách thỏa hiệp chia tiền và quyềngiữa các thế lực phe nhóm làm việt gian cho các mẫu quốc và các thế lực tài phiệt quốc tế. Sự cồng kềnh, chồng chéo đó của các tổ chức có nhiệm vụ khống chế lẫn nhau lại sẽ là những kẽ hở tốt nhất để người dân bị trị Việt Nam có thể tận dụng những mối nối không bền vững đó để triệt tiêu chúng bằng tất cả sự sáng tạo mà chỉ có người dân bị trị mới có thể nhận ra được.
Muốn làm được những việc nói trên, tất cả những người Việt Nam yêu nước cần phải đoàn kết để thực hiện việc lấy lại quyền làm chủ và quản lý đât nước từ tay lũ việt gian cộng sản, sử dụng bộ máy nhà nước đó vào việc xây dựng một TỔ QUỐC VIỆT NAM thực sự có độc lập và các sắc dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam phải thực sự có tự do trong mọi hoạt động của mọi sinh hoạt đặc thù của mình trong cộng đồng dân tộc VIỆT NAM, cả về vật chất lẫn PHI VẬT CHẤT
Có như vậy chúng ta mới nối chí trong tinh thần TRI ÂN đối với vị lãnh tụ Anh Minh Ngô Đình Diệm trong tôn chỉ mà Người đã đề ra, đó là TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM.
(Kết thúc 2 tháng với 61 bài Tưởng Niệm Húy Nhật Lần 59 Tổng Thống Anh Minh
1/ Nếu so sánh các bộ máy cầm quyền ở cả Nam và Bắc Việt Nam từ 1945 cho đến nay, thì dù có mù cũng không thể nào phủ nhận được nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là duy nhất phục vụ cho Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam. Lần đầu tiên những mầm mống dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, tự do tôn giáo, y tế toàn dân, giáo dục toàn dân theo tinh thần bảo tồn truyền thống trên cơ sở tiếp thu sự hiện đại của nền văn minh thế giới một cách có chọn lọc. Tự do tư tưởng cả trong học thuật, văn hoá, văn học, nghệ thuật… Những thành tích Việt Nam Hoá xã hội vốn còn đầy rác rưởi của thực dân Pháp, của suy thoái cuối đời Nhà Nguyễn, vốn thực chất là công cụ của thực dân Pháp.
Vấn đề quốc phòng cũng đã thực sự được quan tâm như xây dựng Trường Võ Bị Đà Lạt. Quân Đội được chính quy hoá theo hướng hiện đại và được xác định mục tiêu cao cả và duy nhất là “TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM”, hoàn toàn khác biệt với nguỵ quân VGCS là “TRUNG VỚI ĐẢNG” (VGCS). Nghĩa là nguỵ quân VGCS không có nhiệm vụ bảo vệ Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam!
Về kinh tế đã thực hiện hữu sản hoá tất cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Đã bước đầu hạn chế một số ngành nghề đối với người mang quốc tịch nước ngoài, hạn chế sự lũng đoạn nền kinh tế của Việt Nam.
Nói chung mục tiêu đề ra cho mọi hoạt động xã hội trên mọi lãnh vực của chính trị là bảo đảm cho Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam giữ được độc lập thực sự, có tự do thực sự, đang xây dựng công bằng thực sự trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại, từ đó bảo đảm cho một Việt Nam hội nhập với thế giới trong tư thế bình đẳng, cùng có lợi chứ không phải là tay sai, tà lọt như tập đoàn VGCS từ thời tên đại tội đồ Hồ Chí Minh cho đến nay là bè lũ hậu duệ của hắn!
2/CHÚ Ý: Nhưng có một điều quan trọng nhất là Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà được Tổng Thống Ngô Đình Diệmlãnh đạo đã COI TRỌNG SINH MẠNG VÀ TRÍ TUỆ CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM. Không chỉ vì tinh thần Nhân Vị mà còn hiểu sâu sắc rằng nếu Việt Nam không có những người Việt Nam và Trí Tuệ Việt Nam thì đất nước, biển đảo, núi rừng của Việt Nam có cũng như không, sẽ tồn tại trong mọi biến tướng của chủ nghĩa thực dân như một thứ nô lệ đời này qua đời khác!
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra Bản tuyên cáo vào ngày 17 tháng 4 năm 1963 mở đầu chiến dịch Chiêu hồi.
ĐÓ LÀ CHÍNH SÁCH CHIÊU HỒI. Phải có lòng tin vào Nhân Dân, phải có trách nhiệm với Tổ Quốc Việt Nam, không chỉ đối với Tổ Tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước bằng trí tuệ, xương máu, hạnh phúc cá nhân của nhiều đời, mà còn thấy trách nhiệm với những thế hệ tương lai của Việt Nam.
Nếu như tập đoàn Việt Gian Cộng Sản tận diệt bốn tầng lớp rường cột của Việt Nam ngay từ khi cái tổ chức việt gian của chúng được Nga Xô cho ra đời năm 1930. Và từ đó chưa bao giờ chúng ngưng nghỉ cái tội ác với ngàn thế hệ Tiền Bối và các thế hệ tương lai cho đến khi chúng bị tiêu diệt, thì hệ quả tội việt gian bán nước buôn dân của chúng vẫn để lại nhiều gánh nặng cho nhiều thế hệ phải quét sạch lại ngôi nhà Tổ Quốc Việt Nam, hàn gắn lại những vết thương chia rẽ trong nhân dân Việt Nam và lấy lại niềm tin của Cộng Đồng Quốc Tế để trở thành những đối tác bình đẳng chứ không phải sự “tôn trọng, bình đẳng” giả tạo của lũ con buôn chính trị và niềm tin bị hạn chế trong mối quan hệ CHỦ - TỚ như hiện nay tập đoàn VGCS đối với các cái gọi là “đối tác” của chúng!?
Dưới Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà, những người bị lầm đường lạc lối đã theo VGCS làm Cán Nô - Binh Nô cho tập đoàn VGCS, tay sai của Nga Xô và Tàu Mao xâm lược Việt Nam đã được giúp đỡ để hiểu rõ đúng sai, được cho tiếp tục đi học và đi thi(ngay tên Lê Hiếu Đằng, lúc sắp chết cũng phải công khai thừa nhận điều này), được cho học nghề, được ưu đãi kiếm việc làm để tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, đó là trách nhiệm chung và cũng là tài sản chung của người Việt Nam. Và, nên nhớ rằng ngay những kẻ ám sát và làm phản mà Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm cũng vẫn cho xử công bằng theo Pháp Luật.
3/ Trong khi đó tập đoàn VGCS từ Hồ Chí Minh cho đến lũ hiện nay đã giết một cách tàn bạo những người yêu nước, đã có công đóng góp rất lớn cho sự thành công của chúng. Thí dụ như tử hình bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long), tử hình kỹ sư Đào Đình Quang (bố vợ của tên VGCS Nguyễn Khánh Toàn); tịch thu tài sản của Trịnh Văn Bô (chủ ngôi nhà mà đại Việt Gian Cộng Sản Hồ Chí Minh ngồi cùng Patty, tình báo Mỹ và Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám, để soạn cái gọi là Tuyên Ngôn Độc Lập mùng 2 tháng 9, 1945)!!! Cũng như những nhà tư sản khác đã góp tiền của, làm kinh tài cho tập đoàn VGCS như chủ nhân hãng Đồng Tháp, Phú Gia, Vạn Lợi, Tân Vinh, Phát Đạt, Cự Vương, Cự Phát, Cự Đà, Điện Cơ, Vạn Vân, Hồng Khê, Vũ Đỗ Long, Vũ Đỗ Thìn, Đức Minh,... cho đến lưỡng khoa tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, đã cúng cho tập đoàn VGCS từ 1944 ngôi villa ở đường Nguyễn Cảnh Chân Hà Nội, sau này làm nơi tiếp dân oan!
4/ Ngay cái điều mà Việt Gian Cộng Sản cùng tay sai và lũ trí thức ngựa ngoại quốc toa rập bịa đặt để tìm cớ ám sát Lãnh Tụ Ngô Đình Diệmvà những người cộng tác thân cận, rằng Nền Đệ Nhất VNCH kỳ thị và đàn áp tôn giáo, tức lũ VGCS Ấn Quang trong băng Việt Gian Cộng Sản đó có cả tên ma tăng Việt Gian Cộng Sản tội đồ Quảng Độ aka Đặng Phúc Tuệ, mà nay hắn vẫn còn đang tiếp tục hoạt động, phục vụ cho quyền lợi ích kỷ của lũ VGCS và các ông bà chủ của chúng!
Như tập đoàn Việt Gian Cộng Sản vẫn tuyên truyền rằng (cho đến tận nay) bộ máy đàn áp, cảnh sát, an ninh của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà là khát máu, lùng sục hãm hại “những người yêu nước” (?), vậy sao lũ Việt Gian Cộng Sản đầu trọc Ấn Quang không bị phát hiện, tù đày tra tấn. Điều đó chứng minh rằng vì chúng núp trong tổ chức của Phật Giáo nên chúng được tự do hoạt động, phát triển gần như tuyệt đối, đến mức chúng sử dụng nơi chúng tu hành giả, làm nơi ẩn náu và chôn cất vũ khí của Việt Gian Cộng Sản rất an toàn. Vì Sao? Vì nếu Nền Đệ Nhất VNCH lùng sục và khám xét các chùa, kỳ thị theo dõi các tăng ni, phật tử như chúng đặt điều bịa chuyện thì làm sao chúng lại có thể cộng tác với các lũ phản tướng và ngoại bang để hãm hại, lật đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà. Chính Phái đoàn Phật Giáo Quốc Tế đến tận nơi điều tra cũng không thể tìm ra bằng cớ về những sự bịa đặt nhà nghề đó của Việt Gian Cộng Sản thông qua lũ ma tăng Ấn Quang!?
GIẢI QUYẾT CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC
Chiến tranh trên đất nước Việt Nam nổ ra từ 1945 và vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Sự thật là Nhân Dân Việt Nam vẫn chưa được sống trong Hoà Bình, Độc Lập, Tự Do. Móng vuốt của chủ nghĩa thực dân các mầu sắc khi thì cắm sâu móng nhọn, khi thì vờn trên thân xác Tổ Quốc và các tầng lớp Nhân Dân Việt Nam. Máu xương, nhân phẩm, trí tuệ và tài nguyên của nhân dân Việt Nam vẫn bị chảy ra khỏi đất nước Việt Nam!
Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ với vụ ám sát một cách lưu manh Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm chính là vì nhiều đảng phái, hội đoàn trên cả Nam và Bắc Việt Nam đã đặt quyền lợi đảng phái lên trên quyền lợi của Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam.Những người lãnh đạo của các đảng phái, hội đoàn đó đều có điểm chung là chỉ muốn được ngoại bang sử dụng, giúp họ được ngồi vào cái ghế chủ nhân Tổ Quốc Việt Nam hệt như hiện nay vậy. Họ chưa bao giời rút ra được các bài học lịch sử từ xa xưa cho đến sau Thế Chiến Lần Thứ 2!
Họ chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề tự lực cánh sinh là chính và việc cầu ngoại viện chỉ nên ở cái mức cần thiết trong một lãnh vực nào đó mà vẫn giữ được chủ quyền của mình. Và, đừng bao giờ hy vọng tìm sự giúp đỡ không lấy lãi của các ngân hàng!
Chính vì thế mà cho đến tận hiện nay những trí nô, sử nô, bút nô của ngoại quốc trong cả ba phe, là đã hoặc đang còn là cộng sản; là phe thế giới tự do (nhưng lại là tự do một chiều, vì chỉ thích xía vào chuyện nước khác); Và phe thứ 3 là phe những nước đang chỗi dậy. Loại trừ sử nô và bút nô Việt Gian Cộng Sản, thì một lực lượng quan trọng nữa là lũ trí thức ngựa gốc Việt ở nước ngoài, đều có chung một cách nhìn về sự thật cuộc chiến ở Việt Nam.
Họ dẫn giải cuộc chiến đó là:
1/Chiến Tranh Quốc - Cộng.
Cái nội dung này của họ là muốn diễn giải rằng, cuộc chiến giữa những người “Quốc Gia” ở Phía Nam với tập đoàn Cộng Sản Việt Nam ở Phía Bắc, sau Hiệp Định Geneve 1954 Về Việt Nam.
Cách diễn giải như vậy là thiếu thông tin hoặc thiếu lương thiện của những người được coi là trí thức nói chung và sử gia nói riêng.
a) Đối với Việt Nam, nếu nói đến chiến tranh “Quốc -Cộng” thì tối thiểu cũng phải biết điểm lại tình hình Việt Nam từ khi bắt đầu có sự xuất hiện chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930.
Trước khi ra đời chính thức cho đến khi ra đời, tập đoàn cộng sản Việt Nam đặt mục tiêu hàng đầu, vừa bằng hành động cụ thể, vừa đưa vào cương lĩnh chính trị của chúng là phải tiêu diệt không chỉ các đảng, phái, hội đoàn “Quốc Gia” mà ngay cả đến khái niệm “Quốc Gia”!
Do đó tên đại tội đồ Hồ Chí Minhđã BÁNCụ Phan Bội Châu cho mật thám thực dân Pháp và cài người để CƯỚP tổ chức của Cụ Phan. Đó là BÁN cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái của anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học. Đó là việc thực thi vụ Đào Tận Gốc - Trốc tận Rễ bốn tầng lớp rường cột của Quốc Gia Việt Nam, là Trí Phú Địa Hàotrong vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931! Bắt đầu thực thi kế hoạch xâm nhập vào tổ chức Phật Giáo, biến tổ chức đó thành công cụ đắc lực của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản.
Với lá thư của tên đại tội đồ Hồ Chí Minhgởi cho Nga Xô thừa nhận tổ chức cộng sản Việt Nam là một chi bộ của Nga Xô, chỉ tuân lệnh Nga Xô và hứa sẽ bolsevik hoá toàn đảng cộng sản Việt Nam để tiến tới bolsevik hóa toàn dân Việt Nam, đã đủ chứng minh rằng Đảng cộng sản Việt Nam là một công cụ của Nga Xô trong âm mưu XÂM LƯỢC toàn Đông Dương. Nghĩa là cái Đảng cộng sản Việt Nam đó là một TẬP ĐOÀN VIỆT GIAN.
Như thế có nghĩa là ngay từ 1930, Nga Xô thông qua tập đoàn Việt Gian Cộng sản để XÂM LƯỢC Việt Nam, âm thầm trong chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung.
b) Diễn biến lịch sử của những năm 1945 cho đến 1954, cũng cần phải thấy đó là sự tiếp diễn của cuộc chiến XÂM LƯỢC VIỆT NAM của Nga Xô có thêm sự tham gia của Tàu bành trướng.
Vì thế tập đoàn Việt Gian Cộng Sản mới CƯỚP quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim bằng việc chúng công khai thừa nhận là CÁCH MẠNG THÁNG 8 1945!
Một số đảng phái gọi là “Quốc Gia” do thiếu thông tin, ấu trĩ về chính trị, vô trách nhiệm với Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam không thấy rằng cái gọi là “Cách Mạng Tháng 8”đó chính là sự công khai hóa cuộc chiếnXÂM LƯỢC VIỆT NAM thông qua công cụ Việt Gian Cộng Sản từ chiến thuật nằm vùng, hoạt động âm thầm đã nắm bắt thời cơ cùng sự mê muội của các đảng phái đó để cướp lấy bộ máy nhà nước của Quốc Gia Việt Nam.
c) Ngay sau khi được sự tiếp tay một cách chân thành của mấy lãnh đạo của các đảng phái gọi là “Quốc Gia” đó, tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nhanh chóng cho ra đời một lô các đảng phái, hội đoàn“mặc áo Quốc Gia” mà vô thức gõ thanh la cầm cờ ma quỷ như các đảng Dân Chủ Việt Nam; Đảng Xã Hội Việt Nam; Nhi Đồng Cứu Quốc; Thanh Niên Cưú Quốc; Phụ Nữ Cứu Quốc; Phụ Lão Cứu Quốc; Công Nhân Cứu Quốc; Nông Dân Cứu Quốc… và đặc biệt là Phật Giáo Cứu Quốc!!!
Có thể nói là những tên Vũ Hồng Khanh. Nguyễn Tường Tam, Tạ Quang Bửu, Trần Huy Liệu (thời kỳ đó ít ai biết rằng tên này đã bỏ Việt Nam Quốc Dân Đảng để theo Tập đoàn Việt Gian Cộng Sản), Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm Sai Đại Thần Phan Kế Toại, Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường, Học Giả Nguyễn Văn Tố, Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm; GS Bác Sĩ Hồ Đắc Di, Huynh trưởng Hướng Đạo Hoàng Đạo Thuý, các Giáo Sư như Trịnh Thục Viên, Phan Thị An, Đoàn Phú Tứ, Cù Huy Cận, Bác Sĩ Vũ Văn Cẩn, Kỹ Sư Nguyễn Xiển, Kỹ Sư Nghiêm Xuân Yêm, Đỗ Đức Dục, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thái Mai, Trương Tửu (còn có tên là Nguyễn Bách Khoa) Nữ Sĩ Hằng Phương, các Tri Phủ Dương Văn Đàm, con trai cả Thượng Thư Dương Văn Am, Tạ Quang Đạm… kẻ nọ nhìn người kia tham gia vào một tổ chức việt gian một cách mù quáng kể cả Bảo Đại và Huỳnh Thúc Kháng đã từng bị VGCS kết tội là “việt gian” ghi trong cương lĩnh chính trị Đại Hội 1 của chúng tại Macao năm 1935.
Chỉ có Một Ngưởi Duy Nhất Không Tham Gia dù đượctên đại việt gian cộng sản Hồ Chí Minhtrân trọng mời. Đó là Lãnh Tụ NGÔ ĐÌNH DIỆM của nhân dân Việt Nam! Vì Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm biết rằng đằng sau những khẩu hiệu nổ như bắp rang đó nào là “cứu quốc”, nào là “đoàn kết” là một tập đoàn dao búa, đâm thuê chém mướn cho giặc xâm lược đỏ đang ra mặt tranh nô lệ Việt Nam với thực dân Pháp!!!
Và cũng chỉ có Người Duy Nhất Là Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm của Việt Nam mới nhận thức được sâu sắc rằng Quốc Gia Việt Nam phải tự mình gánh trọng trách trong cuộc CHỐNG XÂM LƯỢC.Đảng Cộng sản Việt Nam và mạng lưới tay sai chỉ là công cụ XÂM LƯỢC TRỰC TIẾP QUỐC GIA VIỆT NAM với các loại áo khoác, mặt nạ trá hình để che giấu căn cốt VIỆT GIAN mà thôi. Đó chính là xuất phát điểm sự ra đời các Ấp Chiến Lược, Ấp Dân Sinh, Khu Trù Mật… và Chính sách Chiêu Hồi để tẩy rửa nọc độc Viêt Gian Cộng Sản cho những Hồi Chánh Viên trở lại là một người Việt Nam chân chính. Đấy là một biểu hiện của việc ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN VIỆT NAM CHỐNG XÂM LƯỢC.
Chiến tranh trên đất nước Việt Nam nổ ra từ 1945 và vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Sự thật là Nhân Dân Việt Nam vẫn chưa được sống trong Hoà Bình, Độc Lập, Tự Do. Móng vuốt của chủ nghĩa thực dân các mầu sắc khi thì cắm sâu móng nhọn, khi thì vờn trên thân xác Tổ Quốc và các tầng lớp Nhân Dân Việt Nam. Máu xương, nhân phẩm, trí tuệ và tài nguyên của nhân dân Việt Nam vẫn bị chảy ra khỏi đất nước Việt Nam! Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ với vụ ám sát một cách lưu manh Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm chính là vì nhiều đảng phái, hội đoàn trên cả Nam và Bắc Việt Nam đã đặt quyền lợi đảng phái lên trên quyền lợi của Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam. Những người lãnh đạo của các đảng phái, hội đoàn đó đều có điểm chung là chỉ muốn được ngoại bang sử dụng, giúp họ được ngồi vào cái ghế chủ nhân và Tổ Quốc Việt Nam hệt như hiện nay vậy. Họ chưa bao giời rút ra được các bài học lịch sử từ xa xưa cho đến sau Thế Chiến Lần Thứ 2! Họ chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề tự lực cánh sinh là chính và việc cầu ngoại viện chỉ nên ở cái mức cần thiết trong một lãnh vực nào đó mà vẫn giữ được chủ quyền của mình. Và, đừng bao giờ hy vọng tìm sự giúp đỡ không lấy lãi của các ngân hàng! Chính vì thế mà cho đến tận hiện nay những trí nô, sử nô, bút nô của ngoại quốc trong cả ba phe, là đã hoặc đang còn là cộng sản; là phe thế giới tự do (nhưng lại là tự do một chiều, vì chỉ thích xía vào chuyện nước khác); Và phe thứ 3 là phe những nước đang chỗi dậy. Loại trừ sử nô và bút nô Việt Gian Cộng Sản, thì một lực lượng quan trọng nữa là lũ trí thức ngựa gốc Việt ở nước ngoài, đều có chung một cách nhìn về sự thật cuộc chiến ở Việt Nam. Họ dẫn giải cuộc chiến đó là:
1/Chiến Tranh Quốc - Cộng. Cái nội dung này của họ là muốn diễn giải rằng, cuộc chiến giữa những người “Quốc Gia” ở Phía Nam với tập đoàn Cộng Sản Việt Nam ở Phía Bắc, sau Hiệp Định Geneve 1954 Về Việt Nam. Cách diễn giải như vậy là thiếu thông tin hoặc thiếu lương thiện của những người được coi là trí thức nói chung và sử gia nói riêng.
a) Đối với Việt Nam, nếu nói đến chiến tranh “Quốc -Cộng” thì tối thiểu cũng phải biết điểm lại tình hình Việt Nam từ khi bắt đầu có sự xuất hiện chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Trước khi ra đời chính thức cho đến khi ra đời, tập đoàn cộng sản Việt Nam đặt mục tiêu hàng đầu, vừa bằng hành động cụ thể, vừa đưa vào cương lĩnh chính trị của chúng là phải tiêu diệt không chỉ các đảng, phái, hội đoàn “Quốc Gia” mà ngay cả đến khái niệm “Quốc Gia”! Do đó tên đại tội đồ Hồ Chí Minh đã BÁN Cụ Phan Bội Châu cho mật thám thực dân Pháp và cài người để CƯỚP tổ chức của Cụ Phan. Đó là BÁN cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái của anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học. Đó là việc thực thi vụ Đào Tận Gốc - Trốc tận Rễ bốn tầng lớp rường cột của Quốc Gia Việt Nam, là Trí Phú Địa Hào trong vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931! Bắt đầu thực thi kế hoạch xâm nhập vào tổ chức Phật Giáo, biến tổ chức đó thành công cụ đắc lực của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản. Với lá thư của tên đại tội đồ Hồ Chí Minh gởi cho Nga Xô thừa nhận tổ chức cộng sản Việt Nam là một chi bộ của Nga Xô, chỉ tuân lệnh Nga Xô và hứa sẽ bolsevik hoá toàn đảng cộng sản Việt Nam để tiến tới bolsevik hóa toàn dân Việt Nam, đã đủ chứng minh rằng Đảng cộng sản Việt Nam là một công cụ của Nga Xô trong âm mưu XÂM LƯỢC toàn Đông Dương. Nghĩa là cái Đảng cộng sản Việt Nam đó là một TẬP ĐOÀN VIỆT GIAN. Như thế có nghĩa là ngay từ 1930, Nga Xô thông qua tập đoàn Việt Gian Cộng sản để XÂM LƯỢC Việt Nam, âm thầm trong chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung.
b) Diễn biến lịch sử của những năm 1945 cho đến 1954, cũng cần phải thấy đó là sự tiếp diễn của cuộc chiến XÂM LƯỢC VIỆT NAM của Nga Xô có thêm sự tham gia của Tàu bành trướng. Vì thế tập đoàn Việt Gian Cộng Sản mới CƯỚP quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim bằng việc chúng công khai thừa nhận là CÁCH MẠNG THÁNG 8 1945! Một số đảng phái gọi là “Quốc Gia” do thiếu thông tin, ấu trĩ về chính trị, vô trách nhiệm với Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam không thấy rằng cái gọi là “Cách Mạng Tháng 8” đó chính là sự công khai hóa cuộc chiến XÂM LƯỢC VIỆT NAM thông qua công cụ Việt Gian Cộng Sản từ chiến thuật nằm vùng, hoạt động âm thầm đã nắm bắt thời cơ cùng sự mê muội của các đảng phái đó để cướp lấy bộ máy nhà nước của Quốc Gia Việt Nam. c) Ngay sau khi được sự tiếp tay một cách chân thành của mấy lãnh đạo của các đảng phái gọi là “Quốc Gia” đó, tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nhanh chóng cho ra đời một lô cá đảng phái, hội đoàn“mặc áo Quốc Gia” mà vô thức gõ thanh la cầm cờ ma quỷ như các đảng Dân Chủ Việt Nam; Đảng Xã Hội Việt Nam; Nhi Đồng Cứu Quốc; Thanh Niên Cưú Quốc; Phụ Nữ Cứu Quốc; Phụ Lão Cứu Quốc; Công Nhân Cứu Quốc; Nông Dân Cứu Quốc… và đặc biệt là Phật Giáo Cứu Quốc!!! Có thể nói là những tên Vũ Hồng Khanh. Nguyễn Tường Tam, Tạ Quang Bửu, Trần Huy Liệu (thời kỳ đó ít ai biết rằng tên này đã bỏ Việt Nam Quốc Dân Đảng để theo Tập đoàn Việt Gian Cộng Sản), Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm Sai Đại Thần Phan Kế Toại, Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường, Học Giả Nguyễn Văn Tố, Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm; GS Bác Sĩ Hồ Đắc Di, Huynh trưởng Hướng Đạo Hoàng Đạo Thuý, các Giáo Sư như Trịnh Thục Viên, Phan Thị An, Đoàn Phú Tứ, Cù Huy Cận, Bác Sĩ Vũ Văn Cẩn, Kỹ Sư Nguyễn Xiển, Kỹ Sư Nghiêm Xuân Yêm, Đỗ Đức Dục, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thái Mai, Trương Tửu (còn có tên là Nguyễn Bách Khoa) Nữ Sĩ Hằng Phương, các Tri Phủ Dương Văn Đàm, con trai cả Thượng Thư Dương Văn Am, Tạ Quang Đạm… kẻ nọ nhìn người kia tham gia vào một tổ chức việt gian một cách mù quáng kể cả Bảo Đại và Huỳnh Thúc Kháng đã từng bị VGCS kết tội là “việt gian” ghi trong cương lĩnh chính trị Đại Hội 1 của chúng tại Macao năm 1935. Chỉ có Một Ngưởi Duy Nhất Không Tham Gia dù được tên đại việt gian cộng sản Hồ Chí Minh trân trọng mời. Đó là Lãnh Tụ NGÔ ĐÌNH DIỆM của nhân dân Việt Nam! Vì Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm biết rằng đằng sau những khẩu hiệu nổ như bắp rang đó nào là “cứu quốc”, nào là “đoàn kết” là một tập đoàn dao búa, đâm thuê chém mướn cho giặc xâm lược đỏ đang ra mặt tranh nô lệ Việt Nam với thực dân Pháp!!! Và cũng chỉ có Người Duy Nhất Là Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm của Việt Nam mới nhận thức được sâu sắc rằng Quốc Gia Việt Nam phải tự mình gánh trọng trách trong cuộc CHỐNG XÂM LƯỢC. Đảng Cộng sản Việt Nam và mạng lưới tay sai chỉ là công cụ XÂM LƯỢC TRỰC TIẾP QUỐC GIA VIỆT NAM với các loại áo khoác, mặt nạ trá hình để che giấu căn cốt VIỆT GIAN mà thôi. Đó chính là xuất phát điểm sự ra đời các Ấp Chiến Lược, Ấp Dân Sinh, Khu Trù Mật… và Chính sách Chiêu Hồi để tẩy rửa nọc độc Viêt Gian Cộng Sản cho những Hồi Chánh Viên trở lại là một người Việt Nam chân chính. Đấy là một biểu hiện của việc ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN VIỆT NAM CHỐNG XÂM LƯỢC
0 comments:
Post a Comment