CHÍNH KHÍ VIỆT

Sunday, March 26, 2023

YOUTUBE 51 CHƯƠNG X, QUYỂN 7: "THẾ GIỚI ĐANG ĐỐI MẶT VỚI 'CUỘC TẤN CÔNG LỚN NHẤT VÀO SỰ THẬT' KỂ TỪ NHỮNG NĂM 1930"

CHƯƠNG X , QUYỂN 7: "THẾ GIỚI ĐANG ĐỐI MẶT VỚI 'CUỘC TẤN CÔNG LỚN NHẤT VÀO SỰ THẬT' KỂ TỪ NHỮNG NĂM 1930"


TÁC GỈA JOSEPH PHẠM, BÚT DANH CHÍNH KHÍ VIỆT.

1. Hiến Pháp 1956 Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa


(204) Chính Khi Việt: Quyền 7: Thế giới đáng đoi mặt với cuộc tấn công lớn nhất vào sự thật 0051 - YouTube


 

 

 

LỜI MỞ ĐẦU

 

Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo;

Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, căn cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ phát huy;

Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi hoạt động Quốc gia;

Chúng tôi, Dân biểu Quốc hội Lập hiến:

Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan;

Nguyện vọng ấy là:

Củng cố Độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị;

Bảo vệ tự do cho mỗi người và cho dân tộc;

Xây dựng dân chủ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị;

Ý thức rằng quyền hưởng tự do chỉ được bảo toàn khi năng lực phục tùng lý trí và đạo đức, khi nền an ninh tập thể được bảo vệ và những quyền chính đáng của con người được tôn trọng;

Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện.

Sau khi thảo luận, chấp nhận bản Hiến pháp sau đây:

 

 

THIÊN THỨ NHẤT: Điều khoản căn bản

 

 

Điều 1

Việt Nam là một nước Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.

Điều 2

Chủ quyền thuộc về toàn dân.

Điều 3

Quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng thống dân cử, và nhiệm vụ lập pháp cho Quốc hội cũng do dân cử.

Sự phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt. Hoạt động của các cơ quan hành pháp và lập pháp phải được điều hòa.

Tổng thống lãnh đạo Quốc dân.

Điều 4

Hành pháp, lập pháp, tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ Tự do, Dân chủ, chính thể cộng hòa, và trật tự công cộng. Tư pháp phải có một quy chế bảo đảm tính cách độc lập.

Điều 5

Mọi người dân không phân biệt nam nữ sinh ra bình đẳng về phẩm cách, quyền lợi, và nhiệm vụ, và phải đối xử với nhau theo tinh thần tương thân tương trợ.

Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của con người trong cương vị cá nhân, hay trong cương vị tập thể.

Quốc gia cố gắng tạo cho mọi người những cơ hội đồng đều và những điều kiện cần thiết để thụ hưởng quyền lợi và thực hành nhiệm vụ.

Quốc gia tán trợ sự khuếch trương kinh tế, phát huy văn hóa, khai triển khoa học và kỹ thuật.

Điều 6

Người dân có những nhiệm vụ đối với tổ quốc, với đồng bào, mục đích là để thực hiện sự phát triển điều hòa và đầy đủ nhân cách của mọi người.

Điều 7

Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp.

Điều 8

Nước Việt Nam Cộng hòa chấp nhận những nguyên tắc quốc tế pháp không trái với sự thực hiện chủ quyền Quốc gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.

Quốc gia cố gắng góp phần xây dựng và bảo vệ nền an ninh và hòa bình quốc tế cùng duy trì và phát triển sự liên lạc thân hữu giữa các dân tộc trên căn bản tự do và bình đẳng.

 

 

THIÊN THỨ HAI: Quyền lợi và nhiệm vụ người Dân

 

 

Điều 9

Mọi người dân đều có quyền sinh sống tự do và an toàn.

Điều 10

Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ tù đày, một cách trái phép.

Trừ trường hợp phạm pháp quả tang, chỉ có thể bắt giam khi có câu phiếu của cơ quan có thẩm quyền, trong trường hợp và theo hình thức luật định. Theo thể thức luật định các bị can về tội đại hình hoặc tiểu hình có quyền lựa chọn hoặc yêu cầu chỉ định người biện minh cho mình.

Điều 11

Không ai có thể bị tra tấn hoặc chịu những hình phạt hay những cách đối xử tàn bạo, bất nhân, hoặc làm mất phẩm cách.

Điều 12

Đời tư, gia đình, nhà cửa, phẩm giá, và thanh danh của mọi người dân phải được tôn trọng.

Tánh cách riêng tư của thư tín không thể bị xâm phạm, trừ khi có lệnh của Tòa án hoặc khi bảo vệ an ninh công cộng hay duy trì trật tự chung.

Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những đe dọa hoặc xâm phạm trái phép.

Điều 13

Mọi người dân có quyền tự do đi lại và cư trú trên lãnh thổ Quốc gia, ngoại trừ trường hợp luật pháp ngăn cấm vì duyên cơ vệ sinh hay an ninh công cộng.

Mọi người dân có quyền tự do xuất ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do anh ninh quốc phòng, kinh tế, tài chánh hay lợi ích công cộng.

Điều 14

Mọi người dân đều có quyền và có bổn phận làm việc. Việc làm như nhau, tiền công bằng nhau.

Người làm việc có quyền hưởng thù lao xứng đáng đủ để bảo đảm cho bản thân và cho gia đình một đời sống hợp với nhân phẩm.

Điều 15

Mọi người dân đều có quyền tự do tư tưởng và trong khuôn khổ luật định, có quyền tự do hội họp và lập hội.

Điều 16

Mọi người dân có quyền tự do ngôn luận. Quyền này không được dùng để vu cáo, phỉ báng, xâm phạm đến nền đạo lý công cộng, hô hào nổi loạn, hoặc lật đổ chính thể Cộng hòa.

Mọi người dân đều được hưởng quyền tự do báo chí để tạo thành một dư luận xác thực và

Điều 17

Mọi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, tự do hành giáo, và tự do truyền giáo, miễn là sử dụng quyền ấy không trái với luân lý và thuần phong mỹ tục.

Điều 18

Theo thể thức và điều kiện luật định, mọi người dân đều có quyền bầu cử, ứng cử, tham gia điều khiển việc công hoặc trực tiếp, hoặc do những đại diện của mình.

Điều 19

Mọi người dân đều có quyền tham gia công vụ tùy theo năng lực trên căn bản bình đẳng.

Điều 20

Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu. Luật pháp ấn định thể thức thủ đắc và hưởng thụ để ai ai cũng có thể trở thành sở hữu chủ và để bảo đảm cho con người đời sống xứng đáng và tự do, đồng thời xây dựng nền thịnh vượng xã hội.

Trong những trường hợp luật định và vợi điều kiện có bồi thường, Quốc gia có thể trưng thu tài sản vì công ích.

Điều 21

Quốc gia tán trợ việc nhân dân sử dụng của đẻ dành để thủ đắc nhà ở, ruộng cày, và cổ phần trong các xí nghiệp.

Điều 22

Mọi người dân đều có quyền tổ chức những hợp tác kinh tế, miễn là không có mục đích chiếm trái phép để đầu cơ và thao túng kinh tế.

Quốc gia khuyến khích và tán trợ sự hợp tác có tính cách tương trợ và không có mục đích đầu cơ.

Quốc gia không thừa nhận chế độ độc quyền kinh doanh hoặc độc chiếm, ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu quốc phòng, an ninh, hay vì lợi ích công cộng.

Điều 23

Quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được công nhận và sử dụng theo thể thức và điều kiện luật định.

Công chức không có quyền đình công.

Quyền đình công không được thừa nhận đối với nhân viên và công nhân trong các ngành hoạt động liên quan đến quốc phòng, an ninh công cộng, hoặc các nhu cầu cần thiết của đời sống tập thể.

Một đạo luật sẽ ấn định những ngành hoạt động kể trên và đảm bảo cho nhân viên và công nhân các ngành này một quy chế đặc biệt, mục đích là để bảo vệ các nhân viên và công nhân trong các ngành ấy.

Điều 24

Trong giới hạn của khả năng và sự phát triển kinh tế Quốc gia sẽ ấn định những biện pháp cứu trợ hữu hiệu trong các trường hợp thất nghiệp, già yếu, bệnh tật, thiên tai hoặc những cảnh hoạn nạn khác.

Điều 25

Quốc gia công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Quốc gia khuyến khích, nâng đỡ sự thành lập gia đình, sự thực hiện sứ mạng gia đình, nhất là trong sự thai nghén, sinh đẻ, dưỡng dục hài nhi.

Quốc gia tán trợ sự thuần nhứt của gia đình.

Điều 26

Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí.

Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn.

Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn.

Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định.

Quốc gia có thể công nhận các trường tư thục đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận.

Điều 27

Mọi người đều có quyền tham gia hoạt động văn hóa và khoa học, cùng hưởng thụ nghệ thuật và lợi ích của những tiến bộ kỹ thuật.

Tác giả được pháp luật bảo vệ những quyền lợi tinh thần và vật chất liên quan tới mọi phát minh khoa học, sáng tác văn chương hoặc nghệ thuật.

Điều 28

Quyền của mỗi người dân được sử dụng theo những thể thức và điều kiện luật định.

Quyền của mỗi người dân chỉ chịu những sự hạn chế do luật định đẻ tôn trọng quyền của những người khác cùng là thỏa mãn những đòi hỏi đích đáng của sự an toàn chung, nền đạo lý, trật tự công cộng, quốc phòng.

Ai lạm dụng các quyền được công nhận trong Hiến pháp để phá hoại chánh thể Cộng hòa, chế độ Dân chủ, Tự do và nền Độc lập, Thống nhứt Quốc gia sẽ bị truất quyền.

Điều 29

Mọi người dân đều có nhiệm vụ tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp và Luật pháp.

Mọi người dân đều có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chính thể Cộng hòa, nền tự do, dân chủ.

Ai ai cũng phải làm tròn nhiệm vụ quân dịch theo thể thức và trong giới hạn luật định.

Mọi người dân đều có nhiệm vụ góp phần vào sự chi tiêu công cộng tùy theo khả năng đóng góp của mình.

 

 

THIÊN THỨ BA: Tổng thống

 

 

Điều 30

Tổng thống được bầu theo lối đầu phiếu phổ thông trực tiếp và kín, trong một cuộc tuyển cử mà cử tri toàn quốc được tham gia. Một đạo luật sẽ quy định thể thức bầu cử Tổng thống.

Phó Tổng thống được bầu một lần với Tổng thống chung một danh sách.

Điều 31

Có quyền ứng cử Tổng thống và Phó Tổng thống những công dân hội đủ các điều kiện sau đây:

1.     Sinh trên lãnh thổ Việt Nam và có quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi mới sinh, hoặc đã hồi phục Việt tịch trước ngày ban hành Hiến pháp.

2.     Cư ngụ trên lãnh thổ Quốc gia một cách liên tục hay không trong một thời gian ít nhất 15 năm.

3.     Đủ 40 tuổi.

4.     Hưởng các quyền công dân.

Chức vụ Tổng thống và Phó Tổng thống không thể kiêm nhiệm với bất cứ một hoạt động nào trong lãnh vực tư dù có thù lao hay không.

Điều 32

Nhiệm kỳ Tổng thống và Phó Tổng thống là năm năm. Tổng thống và Phó Tổng thống có thể được tái cử hai lần nữa.

Điều 33

Nhiệm kỳ Tổng thống và Phó Tổng thống chấm dứt đúng 12 giờ trưa ngày cuối cùng tháng thứ sáu mươi kể từ ngày tựu chức và nhiệm kỳ của Tân Tổng thống và Tân Phó Tổng thống bắt đầu lúc ấy.

Nhiệm vụ Tổng thống và Phó Tổng thống có thể chấm dứt trước kỳ hạn, trong những trường hợp sau đây:

1.     Mệnh chung.

2.     Vì bịnh tật trầm trọng và kéo dài, không còn năng lực để chấp chưởng quyền hành và làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực này phải được Quốc hội xác nhận với đa số 4/5 tổng số Dân biểu sau các cuộc giám định và phản giám định y khoa.

3.     Từ chức, và sự từ chức này phải được thông đạt cho Quốc hội.

4.     Bị truất quyền do quyết định của Đặc biệt Pháp viện chiếu Điều 81.

Điều 34

Cuộc bầu cử Tân Tổng thống và Tân Phó Tổng thống sẽ cử hành vào ngày chủ nhật, ba tuần lễ trước khi nhiệm kỳ của Tổng thống tại chức chấm dứt.

Trong trường hợp nhiệm vụ Tổng thống chấm dứt trước kỳ hạn, Phó Tổng thống sẽ đảm nhiệm chức vụ Tổng thống cho đến hết nhiệm kỳ.

Trong trường họp dự liệu ở đoạn trên, nếu không có Phó Tổng thống, hoặc nếu Phó Tổng thống, vì một lý do gì, không thể đảm đương nhiệm vụ, Chủ tịch Quốc hội tạm thời đảm nhiệm chức vụ Tổng thống để xử lý thường vụ và tổ chức một cuộc bầu cử Tân Tổng thống và Tân Phó Tổng thống trong thời hạn tối đa hai tháng. Trong trường hợp này, đệ nhất Phó Chủ tịch Quốc hội quyền nhiếp chức vụ Chủ tịch Quốc hội.

Điều 35

Tổng thống ký kết, và sau khi được Quốc hội chấp thuận, phê chuẩn các điều ước và hiệp định quốc tế.

Tổng thống bổ nhiệm các sứ thần, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao, thay mặt Quốc gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc.

Điều 36

Với sự thỏa thuận của một nửa tổng số Dân biểu Quốc hội, Tổng thống tuyên chiến hoặc phê chuẩn hòa ước.

Điều 37

Tổng thống bổ nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân sự và quân sự theo thủ tục luật định, ngoại trừ những trường hợp mà Hiến pháp ấn định một thủ tục đặc biệt.

Tổng thống là Tổng tư lệnh tối cao của các lực lượng quân sự.

Tổng thống ban các loại huy chương.

Tổng thống sử dụng quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt, và huyền án.

Điều 38

Trong trường hợp chiến tranh hoặc nội loạn, những chức vụ dân cử định trong Hiến pháp sẽ đương nhiên được gia hạn khi mãn nhiệm kỳ.

Trong trường hợp một đơn vị bầu cử bị đặt trong tình trạng khẩn cấp, báo động, hoặc giới nghiêm, Tổng thống có thể gia hạn nhiệm kỳ dân biểu đơn vị ấy.

Tuy nhiên, cuộc bầu cử toàn bộ hay cục bộ phải được tổ chức chậm nhất là sáu tháng sau khi những tình trạng đặc biệt kể ở hai đoạn trên chấm dứt.

Điều 39

Tổng thống tiếp xúc với Quốc hội bằng thông điệp.

Tổng thống có thể dự các phiên họp Quốc hội và tuyên bố trước Quốc hội.

Mỗi năm vào đầu khóa họp thường lệ thứ nhì và mỗi khi thấy cần, Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia và chánh sách đối nội, đối ngoại của Chính phủ.

Điều 40

Với sự thỏa thuận của Quốc hội, Tổng thống có thể tổ chức trưng cầu dân ý. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý phải được Tổng thống và Quốc hội tôn trọng.

Điều 41

Giữa hai khóa họp Quốc hội, Tổng thống vì lý do khẩn cấp có thể ký sắc luật. Các sắc luật này phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ấy.

Trong khóa họp thường lệ tiếp cận, nếu Quốc hội không bác bỏ, các sắc luật ấy sẽ được coi hẳn như những đạo luật.

Điều 42

Trong tình trạng khẩn cấp, chiến tranh, nội loạn, khủng hoảng kinh tế hoặc tài chính, Quốc hội có thể biểu quyết một đạo luật ủy cho Tổng thống, trong một thời gian, với những hạn định rõ, quyền ký các sắc luật để thực hiện chánh sách mà Quốc hội ấn định trong đạo luật ủy quyền. Các sắc luật phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ký. 30 ngày sau khi mãn thời hạn đã ấn định trong đạo luật ủy quyền, nếu Quốc hội không bác bỏ, các sắc luật ấy sẽ được coi hẳn như những đạo luật.

Điều 43

Trong trường hợp ngân sách không được Quốc hội chung quyết trong thời hạn ấn định ở Điều 60, Tổng thống có thể ký sắc luật ngân sách cho tài khóa sau.

Mỗi tam cá nguyệt Tổng thống có thể thi hành một phần tư của ngân sách cho đến khi Quốc hội chung quyết xong đạo luật ngân sách.

Trong đạo luật ngân sách, Quốc hội phải giải quyết các hậu quả gây nên do việc bác bỏ hoặc sửa đổi những điều khoản của sắc luật ngân sách.

Điều 44

Tổng thống có thể ký sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm trong một hay nhiều vùng; các sắc lệnh này có thể tạm đình chỉ sự áp dụng một hoặc nhiều đạo luật tại những vùng đó.

Điều 45

Khi nhậm chức, Tổng thống tuyên thệ như sau:

Tôi long trọng tuyên thệ:

Tận lực cố gắng làm tròn nhiệm vụ Tổng thống;

Tôn trọng giữ gìn và bảo vệ Hiến pháp;

Trung thành phụng sự Tổ quốc và hết lòng phục vụ lợi ích công cộng.

Điều 46

Tổng thống, có Phó Tổng thống, các Bộ trưởng và Thứ trưởng phụ tá. Các Bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Tổng thống.

Điều 47

Các Bộ trưởng và Thứ trưởng có thể hội kiến với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội, và các Chủ tịch Ủy ban để giải thích về các vấn đề liên hệ với lập pháp.

 

 

THIÊN THỨ TƯ: Quốc hội

 

Chương Một. - Dân biểu

 

Điều 48

Đạo luật tuyển cử ấn định số Dân biểu Quốc hội và các đơn vị bầu cử.

Điều 49

Dân biểu được bầu cử theo lối đầu phiếu phổ thông, trực tiếp và kín, theo những thể thức và điều kiện do đạo luật tuyển cử quy định.

Điều 50

Có quyền ứng cử Dân biểu những người:

1.     Có quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi mới sinh, hoặc đã nhập Việt tịch ít nhất năm năm, hoặc đã hồi phục Việt tịch ít nhất ba năm trừ những người đã hồi phục Việt tịch trước ngày ban hành Hiến pháp;

2.     Hưởng các quyền công dân;

3.     Đủ 25 tuổi tới ngày đầu phiếu;

4.     Hội đủ các điều kiện khác dự liệu trong đạo luật tuyển cử.

Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt những người nhập Việt tịch có công trạng với Tổ quốc hoặc những người hồi phục Việt tịch có thể được Tổng thống ký sắc lệnh giảm thời hạn năm hoặc ba năm ghi trên.

Điều 51

Nhiệm kỳ Dân biểu là ba năm. Các Dân biểu có thể được tái cử.

Cuộc bầu cử Quốc hội mới sẽ cử hành một tháng trước khi pháp nhiệm chấm dứt.

Điều 52

Khi một Dân biểu từ chức, mệnh chung, hoặc chấm dứt nhiệm vụ vì bất cứ một nguyên nhân nào, cuộc bầu cử Dân biểu thay thế sẽ được cử hành trong hạn ba tháng.

Sẽ không bầu Dân biểu thay thế, nếu sự khống khuyết xẩy ra không đầy sáu tháng trước khi mãn pháp nhiệm.

Điều 53

Nhiệm vụ dân biểu không thể kiêm nhiệm với một công vụ được trả lương hay nhiệm vụ dân cử khác. Công chức đắc cử phải nghỉ giả hạn, quân nhân đắc cử phải giải ngũ.

Nhiệm vụ Dân biểu không thể kiêm nhiệm với những chức vụ Bộ trưởng và Thứ trưởng.

Tuy nhiên, Dân biểu có thể đảm nhận những công vụ đặc biệt liên tục không quá (12) mười hai tháng và thời gian đảm nhận công vụ tổng cộng không quá nửa thời kỳ pháp nhiệm. Trong thời gian đảm nhận công vụ, Dân biểu không có quyền thảo luận và biểu quyết tại Quốc hội hoặc tại các Ủy ban của Quốc hội.

Dân biểu có thể phụ trách giảng huấn tại các trường cấp bậc đại học và kỹ thuật cao đẳng.

Trong bất kỳ trường hợp nào, Dân biểu không thể tham dự những cuộc đấu thầu hoặc ký hợp đồng với các cơ quan chính quyền.

Điều 54

Không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay kết án một Dân biểu vì những lời nói hoặc vì những sự biểu quyết tại Quốc hội hoặc tại các Ủy ban Quốc hội.

Ngoại trừ trường hợp phản quốc, xâm phạm an ninh Quốc gia hoặc đương trường phạm pháp, không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một Dân biểu trong suốt thời gian các khóa họp Quốc hội, kể cả thời gian đi họp và họp về.

 

 

Chương Hai - Quyền hành của Quốc hội.

 

Điều 55

Quốc hội biểu quyết các đạo luật. Quốc hội chấp thuận các điều ước và các hiệp định quốc tế.

Chương Ba - Thủ tục Lập pháp

Điều 56

Dân biểu có thể đưa ra Quốc hội xét các dự án luật, Tổng thống có thể đưa ra Quốc hội xét các dự thảo luật.

Điều 57

Các dự án và dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận sẽ chuyển đến Tổng thống trong thời hạn bảy ngày tròn.

Tổng thống phải ban hành các đạo luật trong thời hạn ba mươi ngày tròn kể từ ngày tiếp nhận. Trong trường hợp khẩn cấp do Quốc hội tuyên bố, thời hạn ban hành sẽ rút ngắn còn bảy ngày tròn.

Điều 58

Trong thời hạn ban hành, Tổng thống có thể gởi thông điệp viện dẫn lý do yêu cầu Quốc hội phúc nghị một hay nhiều điều khoản đã được chấp thuận.

Khi phúc nghị, nếu Quốc hội không đồng ý sửa đổi theo thông điệp Tổng thống thì Quốc hội sẽ chung quyết bằng một cuộc minh danh đầu phiếu với đa số ba phần tư tổng số Dân biểu Quốc hội.

Điều 59

Trong thời hạn ấn định ở Điều 57, nếu Tổng thống không ban hành hoặc không chuyển hoàn bản văn mà Quốc hội đã thông qua, bản văn ấy sẽ đương nhiên thành luật.

Điều 60

Dự thảo ngân sách phải gởi tới Văn phòng Quốc hội trước ngày ba mươi tháng Chín. Ngân sách phải được chung quyết trước ngày ba mươi mốt tháng Chạp.

Điều 61

Dân biểu có quyền đề khởi các khoản chi mới, nhưng đồng thời phải đề nghị các khoản thu tương đương.

 

 

Chương Tư - Điều hành Quốc hội.

 

Điều 62

Quốc hội nhóm họp những khóa thường lệ hoặc bất thường.

Điều 63

Hằng năm có hai khóa họp thường lệ: một khóa đương nhiên bắt đầu ngày thứ hai đầu tiên trong tháng tư dương lịch, và một khóa đương nhiên bắt đầu ngày thứ Hai đầu tiên trong tháng Mười dương lịch. Mỗi khóa họp thường lệ không lâu quá ba tháng.

Điều 64

Quốc hội phải được triệu tập nhóm họp các khóa bất thường nếu có sự yêu cầu của Tổng thống hoặc quá nửa tổng số Dân biểu Quốc hội.

Trong trường hợp Tổng thống yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp bất thường do Tổng thống ấn định.

Trong trường hợp Dân biểu yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp bất thường do Văn phòng Quốc hội ấn định.

Thời gian mỗi khóa họp bất thường của Quốc hội không được quá ba mươi ngày.

Điều 65

Quốc hội nhóm họp công khai. Tuy nhiên, Quốc hội họp kín nếu quá nửa số Dân biểu hiện diện hoặc Tổng thống yêu cầu.

Các bản tường thuật y nguyên cuộc thảo luận và các tài liệu xuất trình tại Quốc hội sẽ được đăng trong Công báo, ngoại trừ trường hợp Quốc hội họp kín.

Điều 66

Để kiểm soát tánh cách hợp thức cuộc bầu cử các Dân biểu, Quốc hội sẽ chỉ định một Ủy ban kiểm soát để phụ trách việc phúc trình về vấn đề này.

Quốc hội có trọn quyền định đoạt.

Điều 67

Quốc hội bầu Văn phòng gồm có Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 1 Tổng Thơ ký, 3 Phó Tổng Thơ ký, và một số nhân viên cần thiết.

Quốc hội chỉ định các Ủy ban.

Điều 68

Quốc hội ấn định nội quy, nhất là các vấn đề sau:

Tổ chức nội bộ Quốc hội và Văn phòng;

Thủ tục Quốc hội và quyền hạn Văn phòng;

Kỷ luật trong Quốc hội và các sự chế tài về kỷ luật;

Thành phần và quyền hạn các Ủy ban.

Điều 69

Một dự án hoặc dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận chỉ có giá trị nếu hội đủ đa số một phần ba tổng số Dân biểu.

 

 

THIÊN THỨ NĂM: Thẩm phán

 

 

Điều 70

Để thi hành nhiệm vụ ấn định ở Điều 4, Tư pháp được tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng của mọi người trước pháp luật và nguyên tắc độc lập của Thẩm phán xử án.

Điều 71

Thẩm phán xử án quyết định theo lương tâm mình, trong sự tôn trọng luật pháp và quyền lợi Quốc gia.

Điều 72

Dưới sự kiểm soát của Bộ Tư pháp, Thẩm phán công tố, trông coi, và theo dõi sự áp dụng luật pháp, sự tôn trọng đạo lý và trật tự công cộng.

Điều 73

Sẽ thiết lập một Thượng Hội đồng Thẩm phán có nhiệm vụ góp phần trông coi sự áp dụng quy chế Thẩm phán xử án. Tổ chức, điều hành, và quyền hạn của Thượng Hội đồng sẽ do luật định.

 

 

THIÊN THỨ SÁU: Đặc biệt Pháp viện

 

 

Điều 74

Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo hiến, trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.

Điều 75

Đặc biệt Pháp viện gồm có:

Chánh án Tòa Phá án, Chánh án;

Mười lăm Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ, Hội thẩm.

Khi Chánh án Tòa Phá án là bị can, Chủ tịch Viện Bảo hiến sẽ ngồi ghế Chánh án.

Điều 76

Ban Điều tra của Đặc biệt Pháp viện gồm năm Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kỳ.

Điều 77

Sự khởi tố theo các điều kiện sau:

a/ Phải có một bản đề nghị viện dẫn lý do, được ba phần năm tổng số Dân biểu Quốc hội ký tên, nạp tại Văn phòng Quốc hội mười lăm ngày trước khi thảo luận;

b/ Đề nghị đó phải được hai phần ba tổng số Dân biểu Quốc hội chấp thuận.

c/ Các Dân biểu trong Đặc biệt Pháp viện và trong Ban Điều tra không được quyền đề nghị khởi tố và biểu quyết về đề nghị này.

Điều 78

Nhiệm vụ của đương sự bị đình chỉ từ khi Quốc hội biểu quyết truy tổ đến khi Đặc biệt Pháp viện phán quyết. Trong thời gian này sự quyền nhiếp sẽ theo thể thức định ở Điều 34, đoạn 2 và 3.

Điều 79

Ban Điều tra có quyền đòi hỏi nhân chứng và đòi các cơ quan liên hệ xuất trình các hồ sơ và tài liệu mật. Ban Điều tra sẽ làm tờ trình trong thời hạn hai tháng trước khi được Đặc biệt Pháp viện triển hạn một tháng nữa.

Điều 80

Đặc biệt Pháp viện họp để nghe Ban Điều tra và đương sự trình bày và phán quyết theo đa số ba phần tư tổng số nhân viên.

Điều 81

Nếu xét đương sự phạm tội, Đặc biệt Pháp viện sẽ tuyên bố truất quyền. Phán quyết này có hiệu lực ngay.

 

 

THIÊN THỨ BẢY: Hội đồng Kinh tế Quốc gia

 

 

Điều 82

Hội đồng Kinh tế Quốc gia có nhiệm vụ trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.

Hội viên Hội đồng Kinh tế Quốc gia lựa trong các nghiệp đoàn và các ngành hoạt động kinh tế, các tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và các nhà kinh tế học.

Chức vụ hội viên Hội đồng Kinh tế Quốc gia không thể kiêm nhiệm với nhiệm vụ Dân biểu Quốc hội.

Điều 83

Phó Tổng thống là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia.

Điều 84

Một đạo luật sẽ ấn định cách tổ chức và điều hành của Hội đồng Kinh tế Quốc gia.

 

 

THIÊN THỨ TÁM: Viện Bảo hiến

 

 

Điều 85

Viện Bảo hiến phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh.

Điều 86

Viện Bảo hiến, về mỗi nhiệm kỳ Quốc hội, gồm có:

Một Chủ tịch cho Tổng thống cử với thỏa hiệp của Quốc hội.

4 Thẩm phán cao cấp hay luật gia do Tổng thống cử;

4 Dân biểu do Quốc hội cử.

Điều 87

Viện Bảo hiến thụ lý các đơn xin phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh do các Tòa án nạp trình.

Phán quyết của Viện Bảo hiến có hiệu lực đình chỉ sự thi hành các điều khoản bất hợp hiến kể từ ngày phán quyết ấy được đăng trong Công báo.

Điều 88

Một đạo luật sẽ quy định cách tổ chức và điều hành của Viện Bảo hiến cùng thủ tục áp dụng trước cơ quan ấy.

 

 

THIÊN THỨ CHÍN: Sửa đổi Hiến pháp

 

 

Điều 89

Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này của Hiến pháp.

Điều 90

Tổng thống hay hai phần ba tổng số Dân biểu có thể đề nghị sửa Hiến pháp.

Đề nghị sửa Hiến pháp có viện dẫn lý do phải đủ chữ ký và nạp tại Văn phòng Quốc hội.

Điều 91

Sau khi nhận được đề nghị hợp lệ sửa đổi Hiến pháp, Văn phòng Quốc hội sẽ triệu tập một phiên họp đặc biệt của Quốc hội để cử một Ủy ban gồm ít nhứt mười lăm người có nhiệm vụ nghiên cứu đề nghị này, tham khảo ý kiến của Viện Bảo hiến và của Tổng thống.

Trong thời hạn tối đa sáu mươi ngày, Ủy ban sẽ thuyết trình trước Quốc hội trong phiên họp đặc biệt.

Điều 92

Đề nghị sửa đổi Hiến pháp chỉ được chấp thuận nếu ba phần tư tổng số Dân biểu tán thành trong một cuộc minh danh và đích thân đầu phiếu.

Điều 93

Đề nghị được chấp thuận sẽ ban hành theo thủ tục ghi ở các Điều 57, 58, 59.

Nếu có phúc nghị, Quốc hội sẽ chung quyết bằng một cuộc minh danh và đích thân đầu phiếu với đa số ba phần tư tổng số Dân biểu.

 

 

THIÊN THỨ MƯỜI: Các Điều khoản Chung

 

 

Điều 94

Hiến pháp sẽ ban hành ngày hai mươi sáu tháng Mười năm một nghìn chín trăm năm mươi sáu.

Điều 95

Quốc hội dân cử ngày mồng bốn tháng Ba dương lịch năm một nghìn chín trăn năm mươi sáu sẽ là Quốc hội Lập pháp đầu tiên theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa.

Nhiệm kỳ Quốc hội Lập pháp bắt đầu từ ngày ban hành Hiến pháp và chấm dứt ngày ba mươi tháng Chín năm một nghìn chín trăm năm mươi chín.

Điều 96

Đương kim Tổng thống được nhân dân ủy nhiệm thiết lập nền Dân chủ do cuộc trưng cầu dân ý ngày hai mươi ba tháng Mười dương lịch năm một nghìn chín trăm năm mươi lăm, sẽ là Tổng thống đầu tiên theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa.

Nhiệm kỳ Tổng thống bắt đầu từ ngày ban hành hiến pháp và chấm dứt ngày ba mươi tháng Tư năm một nghìn chín trăm sáu mươi mốt.

Điều 97

Trong khóa họp thứ nhứt của Quốc hội Lập pháp đầu tiên, đương kim Tổng thống sẽ chỉ định Phó Tổng thống đầu tiên. Sự chỉ định này sẽ thành nhứt định nếu được Quốc hội chấp thuận.

Nếu có sự thay thế, sự chỉ định Phó Tổng thống mới cũng theo theo thủ tục đó trong suốt nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên.

Điều 98

Trong nhiệm kỳ Lập pháp đầu tiên, Tổng thống có thể tạm đình chỉ sự sử dụng những quyền tự do đi lại và cư ngụ, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do nghiệp đoàn và đình công để thỏa mãn những đòi hỏi đích 


2. NỐI CHÍ  TỔNG THỐNG ANH MINH NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ CON ĐƯỜNG NÀO CHO  NGƯỜI VIỆT NAM HÔM NAY! 

CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC:



TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM
 Chính Khí Việt
KÍNH DÂNG LÊN ANH LINH NGÔ TỔNG THỐNG và TẤT CẢ NHỮNG VỊ ĐÃ ĐI THEO CON ĐƯỜNG CỦA NGÔ TỔNG THỐNG HY  SINH VÀ SẴN SÀNG HY SINH TẤT CẢ ĐỂ  NỐI CHÍ TỔNG THỐNG TRÊN  CON ĐƯỜNG  TỔ  QUỐC - DANH DỰ -TRÁCH NHIỆM
THẾ HỆ HẬU DUỆ CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM YÊU TỔ  QUỐC, YÊU DÂN TỘC, YÊU TỰ DO,  CÔNG BẰNG VÀ  HOÀ  BÌNH.
Trọng Kính Quý Bạn Đọc
Qua 60 bài, bắt đầu từ ngày 1-10-22 cho đến hôm nay nhân kỷ niệm lần thứ 59 Húy Nhật Tổng Thống Anh Minh Ngô Đình Diệm (1/11/1963 -1/11/2022),Chính Khí  Việt đã phần nào lật mặt  bè lũ  việt gian  cả  trong và  ngoài  nước, tạm thời  xem như  trận đánh mở đầu để mọi người Việt Nam  trong và  ngoài nước  còn có  lòng với Tổ Quốc và Dân Tộc  nhận thức được con đường  chúng ta  đi  sẽ  là  CON ĐƯỜNG NÀO?
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
 
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
 
Chính Khí  Việt  xin trình bày  với  quý bạn đọc  rằng, mặc  dù tuổi Chính Khí  Việt còn trẻ so với quý vị đã từng cống hiến tài năng,sức khỏe, ngay cả mạng sống để phục vụ  cho toàn dân Việt Nam Cộng Hòa,  trình độ học  vấn cũng chẳng có  gì là  cao siêu  lắm, tất  cả  những điều  Chính Khí Việt biết,  chính là từ  trí tuệ để thâm tín  được  khẩu hiệu mà  Tổng Thống Ngô Đình Diệm nêu ra  cho Quân Lực  Việt Nam Cộng Hòa.  Đó là khẩu hiệu: Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm. Chính Khí Việt nghĩ rằng lời giáo  huấn đó cũng là  TÔN  CHỈ cho mọi người dân Việt Nam,  tuy chưa  đứng trong hàng ngũ  Quân Lực  Việt Nam Cộng Hòa nhưng cũng phải nỗ lực  để  hoàn thành tôn chỉ đó để nối chí Ngài trong mỗi cương vị  của  mình.  Bởi vì  Tổ  Quốc  là  Tổ Quốc Chung, mỗi một con  người có  thể thể  hiện được  danh dự  của  mình khi mình có  chỗ  đứng vững chắc trên mảnh đất được  gọi là  Tổ Quốc.  Có  nghĩa  là chúng ta phải tiếp nối những điều mà  Tổ  Tiên hàng nhiều ngàn năm của chúng ta đã đổ xương máu, mồ  hôi công sức  để có  thể  tạo ra  cho chúng ta một chỗ  đứng, sống chung  và đứng ngang hàng với  Cộng Đồng Nhân Loại, như thể  NGƯỜI CHA đã  để  lại gia  tài cho con với  những  ngôi nhà  bền vững để từ đó mới có thể  phát  huy  sức  sống của  mình để  góp phần mình trong việc  xây dựng  một cộng đồng của  Người Việt Nam trên  mảnh đất  được  gọi là  Tổ  Quốc  sao cho  ngày  một thêm  vững mạnh, góp phần mình   trong  nhịp sống  chung của  Nhân Loại.  
Trách nhiệm của  người dân Việt Nam với  Tổ Quốc của mình  là  làm sao phải giữ  gìn  và  bảo vệ  được  mảnh đất mà  Tổ  Tiên đã trao lại cho  chúng ta,  không những chúng ta  phải gìn  giữ  nó một cách trọn vẹn  mà  còn phải bảo vệ  cũng như làm  sao cho  mảnh đất  ấy  ngày  càng thêm thăng tiến  theo kịp  trào lưu  tiến  hóa của Nhân Loại.
Chính Khí  Việt nghĩ rằng người dân Việt Nam  vốn có  truyền thống lịch sử lâu đời  là  bởi vì người dân Việt Nam  bao gồm tất cả  các  sắc dân sống trên mảnh đất  Việt Nam  đã đoàn kết với nhau  bằng sợi giây linh thiêng đó là sự kế thừa  của  việc  lập quốc, bảo vệ  tổ  quốc  và  một điều quan  trọng nữa   đó là  trong suốt quá  trình giữ nước và  dựng nước, người dân Việt Nam đã phải chống chọi với  không biết  bao nhiêu  lần xâm lược  của một đạo quân lớn mạnh hơn   về  số  lượng ở phía  bắc (tức tụi Tàu),  và  cũng phải chống  chọi  với thiên nhiên khắc  nghiệt,  cho nên Con Người Việt Nam đã tồn tại được trước  những cuộc  xâm lược  nổi tiếng  trong lịch sử  thế  giới, cũng như chống chọi và thích ứng  được  với thời tiết khắc nghiệt mà  ngày càng rút  được nhiều kinh nghiệm  để có  thể  vẫn làm cho mảnh đất  mình sinh sống  được  tốt đẹp.  Đấy chính  là cái trách nhiệm mà  chúng ta  phải thực  hiện.
Cái  Tôn Chỉ  chỉ  gồn có  Sáu Tiếng:  TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM, nhưng trong sáu  tiếng ấy  tiềm ẩn một khả  năng bao quát được LỐI SỐNG, TRUYỀN THỐNG,  và  CON ĐƯỜNG  ĐI cho một tương lai  HẠNH  PHÚC  ẤM NO  cho  toàn thể  nhân dân Việt Nam bao gồm mọi sắc tộc.
                Nếu nói  về  con đường Việt Nam  thì  chúng ta  cần phải lưu ý  đến  phần Chính Khí Việ muốn  chia  sẻ  với    quý  bạn đọc như sau: đó là  Chính Khí Việt  xin phép  được  băt đầu  từ  cái gọi là  cuộc  cách mạng tháng 10 Nga  1917.
Tại sao lại lây mốc điểm đó   để  mở  đầu?   Tại vì  kể  từ  khi Nga  Xô hình thành  thì thế  giới  đã  có một lực lượng mới  song hành cùng với  chủ  nghĩa thực  dân Phương Tây.  Nếu như chủ  nghĩa  thực  dân Phương Tây  trong quá  trình đi  xâm lược nhân dân các  nước trên thế giới  với  bộ mặt giả  dối  là: Đưa nền văn minh  đến  những nước lạc hậu,  để che  đậy bộ mặt thực  dân.  Tuy nhiên chúng ta   cũng cần nên lưu ý  là  ngay tên gọi  cho chức  năng  “khai phóng nền văn minh”  đó của  những nước  theo chủ  nghĩa  thực  dân Phương Tây thì  chúng lại không  che  đậy những dã tâm của  chúng  bằng việc  đặt tên cho  cơ quan xâm lược đó là  BỘ THUỘC  ĐỊA.
Còn Nga Xô khi được hình thành với  cái khẩu hiệu “xây dựng  một thế giới đại đồng”   theo luận điểm của Le Nin,  nghĩa  là  quan tâm đến vấn đề  các nước thuộc  địa  sống dưới  sự cai trị của  thực  dân Phương Tây.  Do đó  ngay  khi hình thành  “con đường” đó  Le Nin  đã tạo ra  một thứ  mà chúng ta  có  thể gọi được  là  THỰC  DÂN ĐỎ, để  phân biệt với thực  dân Phương Tây (là  thực  dân cũ).   Sự ra  đời của chủ  nghĩa  thực  dân đỏ là  nó  đã  học  được  bài học  kinh nghiệm  từ  chủ nghĩa  thực  dân Phương Tây  để  trở  nên tinh vi và  ma  quái hơn  trong việc xâm lược  các nước khác trên toàn thế giới.   Vì  thế  khác  với chuyện ở nước Pháp là  có  Bộ Thuộc Địa, thì  Nga Xô  trong tay Le Nin  đẻ  ra  cái gọi là Quốc Tế  Ba, mà  thực  chất  nó  chính là  của nước Nga  Xô Viết.  Nếu  như Bộ Thuộc  Địa của  thực  dân Phương Tây  nhằm tổ  chức quản lý,  và sử  dụng bộ máy  dân sự để  nắm vững các thuộc  địa  mà  nó chiếm được,  thì  chủ  nghĩa  thực  dân đỏ  của  Nga Xô Viết, trong cái vỏ  bọc  gọi là Quốc Tế  Vô Sản  3, mà  thực  chất  nó  là  Bộ Thuộc Địa  của Nga Xô, nó  được  sử  dụng  để  tuyển chọn, đào  tạo, hướng dẫn cho tay sai  bản địa trong tất cả  các  nước, nhất  là những nước  đang chịu sự thống trị của thực  dân Phương Tây, như Việt Nam  là  một thí dụ.  Nó  không chỉ  tuyển chọn người  mà nó  còn đào tạo  cho  cướp bộ máy  cầm quyền của  những nước đó  để  mang  một cái tên nghe  rất kêu đó  là  CÁCH MẠNG VÔ SẢN .
Giờ  đây Chính Khí Việt xin phép  được nói về  trường hợp ở Việt Nam.

Trước hết cần phải  phân biệt giữa  những người theo chủ nghĩa  cộng sản.  Ngay về  mặt lý thuyết  cho đến việc áp dụng cái lý  thuyết  mà  ta  thường hay gọi là  chủ  thuyết Marx Engels, đã có nhiều nhận thức khác nhau hoàn toàn.
Chính Khí  Việt  chỉ  xin được  chia  sẻ với quý  bạn đọc  một cách tóm tắt, rằng  đã có  những nhận thức khác nhau về chủ thuyết Marx Engels:
THỨ NHẤT:  Cùng nói theo  chủ  nghĩa  Marx Engels mà  đã có đến  bốn tổ  chức khác nhau mang tính cách  “Quốc tế”  để  giải thích về  nội dung  và  cách thực  hiện chủ  nghĩa  Marx Engels là Quốc Tế I, Quốc Tế II, Quốc Tế III và Quốc Tế IV.
Tại Việt Nam  “tín đồ”  chủ nghĩa  Marx  thuộc  nhóm Quốc Tế IV, thường được  gọi là nhóm “troskiste” và  Quốc Tế  III  là  sản phẩm đặc  trưng của V.I. Le Nin mà  thực  chất  nó  là  Bộ Thuộc  Địa  của Nước Nga Xô Viết (sau cái gọi là Cách Mạng Tháng 10 Nga)
Đặc  trưng của Quốc Tế III  là  dựa theo tư tưởng thực  dân kiểu mới do Le Nin  sáng tạo nhằm tranh dành thuộc  địa  với thực  dân Phương Tây như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…  và cả Sa Hoàng Nga nữa.
Quan điểm của Le Nin  thực  chất là  tiếp nối chủ nghĩa  thực  dân  của Sa Hoàng (vốn sinh ra cùng một mẹ) ,  nhưng  nâng mục  tiêu lên toàn thế giới  với  khẩu hiệu “thế  giới đại đồng”.
Vì  thế  cần lưu ý  là  cuộc  cách mạng tháng 10 Nga  được Le Nin dẫn giải về  mặt lý thuyết  là  hoàn toàn đi ngược  với lý  luận kinh điển của Marx Engels.  Để  tránh bị lộ tẩy  Le Nin mượn chiếc áo của Marx Engels nhằm che  đậy cái mà  ta gọi Chủ Nghĩa Thực Dân Đỏ toàn chế,  Le Nin  cũng gắn tên mình vào chủ nghĩa   Marx Engels (chủ nghĩa Marx Engels Le Nin), và  lý giải cái gọi là Chủ Nghĩa Le Nin (thực  chất là  thực  dân đỏ toàn chế)  là:  sự “phát  triển của  chủ  nghĩa Marx Engels trong tình hình chủ  nghĩa tư bản (capitalism) thế giới đã lên tới đỉnh điểm của  sự  phản động  thành chủ nghĩa  Đế Quốc, một sự cấu kết của những consortium (tức là  tổ hợp) giữa  các  nước theo chủ  nghĩa  tư bản (đặc  biệt là  các  nước Tây Phương).
Cho nên  việc  công nhận hay phủ  nhận “luận  điểm về  vấn đề  thuộc  địa”  do Le Nin đề  xướng  là  tiêu chuẩn để  phân biệt giữa  những người cộng sản  là  Quốc Tế Cộng Sản III  với các  Quốc tế  Cộng Sản khác.  Sở  dĩ gọi chủ  nghĩa  Le Nin là “chủ  nghĩa  thực  dân đỏ  toàn chế”  là  vì:
                1/Mục tiêu của thực  dân Phương Tây là  kinh tế, thị trường tiêu thụ, nguồn cung ứng vật liệu thô  và  nhân công rẻ  mạt… do  đó  mỗi nước thực  dân Phương Tây  chiếm một số thuộc  địa,  nhưng chúng vẫn tìm cách kình chống nhau để  tìm cách chia  lại  thuộc  địa, nghĩa  là  chúng dùng sức mạnh  để  cướp thuộc  địa  trong tay nhau;
                2/Chủ nghĩa  thực dân đỏ  toàn chế  của Le Nin, về mục  tiêu cũng giống  như  chủ nghĩa  thực  dân Phương Tây  nhưng phương pháp  chiếm thuộc  địa,  quản lý  thuộc  địa, và  bóc lột thuộc  địa hoàn toàn ở  mức  mà  ngày nay chúng ta  có  đủ  thông tin để  kết luận rằng  nó  tinh vi, nó tàn bạo đến mức  nếu để  nó  còn tồn tại rồi lây  lan  ra toàn thế giới  thì  chung cuộc  của  nó  sẽ biến toàn thể  nhân loại ra  hai đảng cấp rạch ròi:
A)     Đẳng cấp đảng viên cộng sản thành đẳng cấp thống trị tuyệt  đối còn hơn nhiều lần thời phong kiến chuyên chế trong lịch sử  nhân loại;
B)      Số  còn lại thành gia  súc  trong  lốt người,  tệ hại hơn nô lệ  trong  lịch sử  nhân loại.
 C) Nếu Nga Xô thành công trong việc  đặt ách Nô Lệ  Đỏ  lên toàn thế  giới, trong cái bánh vẽ “thế  giới đại đồng”, thì  sau khi thanh lọc  xong thành phần  người dân bị trị,  những sắc dân ít  người,  những cá  nhân có lòng  tự trọng, yêu công bằng xã hội, những tôn giáo … trên phạm vi toàn thế  giới, chắc chắn  rằng những đảng viên  trong đảng cộng sản Nga bonshevik sẽ là  giai tầng chủ  nhân ông của nước Nga Xô Viết  đã đành,  mà  chúng sẽ còn là nhân sự  đóng vai trò  ÔNG CHỦ LỚN của các nước trên toàn thế giới, và các đảng viện  cộng sản bản địa sẽ là  những kẻ  giữ  nhiệm vụ thừa  hành  việc  trực  tiếp quản lý  cộng đồng xã hội ở  nước bản sứ, cả vật chất  lẫn tinh thần. 
                Thí dụ  cụ thể  về  cái  viễn ảnh đó  là, trước khi có sự tranh ngôi vị bá  chủ  giữa  hai đảng cộng sản Nga Xô và  Tàu Cộng bành trướng, có tên là “GIÁO  ĐIỀU và  XÉT LẠI”,  thì  mỗi khi đảng cộng sản Nga  bonshevik  họp đại hội, các nhân vật cầm đầu các  đảng cộng sản  trên toàn thế  giới , kể  cả  các đảng cộng sản ở các nước như Pháp, Anh, Đức, Ý, Nhật, Tàu, Mỹ… đều phải đến tham dự  đại hội với nhiệm vụ phải nắm  được nội dung các nghị quyết của  đại hội, để  khi trở  về  nước mình, căn  cứ  vào đó  để vạch ra  cương lĩnh chính trị  cho mình, thông qua cái  gọi là  đại hội  định kỳ.
                Thí  dụ  tại Việt Nam:
Mỗi kỳ  đại hội của  đảng VGCS  đều phải qua  mấy  bước như sau:
1/Đại hội đảng bộ  cơ sở  bầu ban chấp hành  mới  theo danh sách  ban chấp hành cũ  do Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu, có ý kiến của  đại diện cấp trên trực tiếp xây dựng và  chỉ  đạo.  Nghĩa  là  thành phần nhân sự phải khớp với ý kiến cấp trên,  hay nói cho rõ nghĩa  hơn là  cấp trên đưa  ra danh sách nhân sự  và  cái ban chấp hành cũ chỉ  có nhiệm vụ giới thiệu ra  cho  đại hội để bầu ra cho đúng quy trình theo tinh thần trò  chơi “dân chủ giả  hiệu".
Tuy nhiên để cẩn thận hơn, nhân sự mặc  dù  do cấp trên chỉ  đạo cho ban chấp hành  cũ  đưa  ra cho đại hội bầu, nhưng  chính số  nhân sự  chỉ  định đó  được bầu ra còn phải  qua một cửa  ải nữa  là cấp trên phải ra  một nghị quyết công nhận. Chưa  nói  đến vị trí  bí  thư, phó  bí thư thường vụ  của đảng bộ  đó có  khi được  chỉ  dịnh trước khi được  đưa ra  bầu ở  đại hội. 
Cứ  từ  dưới lên trên như vậy  cho tới các đảng bộ trực  thuộc Trung Ương thì  phải  LƯU Ý  rằng các  đảng bộ  trực thuộc  Trung Ương là  không có  bầu bán. Ở  Việt Nam,  xưa  kia cái công thức đó  gọi là  “Đảng Đoàn”, sau Đại Hội IV việt gian cộng sản  (1976), thì  cái gọi là  “Đảng Đoàn”có tên mới là  “Ban Cán Sự”.  Thí  dụ “Ban Cán Sự Bộ Văn Hóa”.
Trước là “Đảng Đoàn”, nay là  “Ban Cán Sự” thành phần  nhân  sự  đều do Trung Ương Chỉ  Định,  kể  cả chức danh như  Bí Thư, Thường Trực, Uỷ Viên,  đều do chỉ  định.  Hiện nay cái trò  hề bầu bán cán sự  chỉ  là  “chuyện đùa”  với “dân chủ  giả  hiệu”,  vì phải bầu đúng như Trung Ương (tức Bộ Chính Trị) gợi ý  trước.
2/Kết hợp bầu nhân sự mới cho đảng bộ nào đó  thì  cùng lúc bầu đại biểu đi họp đảng bộ cấp trên.
3/ Ở Việt Nam trước khi Nga  Xô sụp đổ, thì  từ  cương lĩnh chính trị cho đến tổ  chức, nhân sự, thay đổi điều lệ  đảng (nếu có), với  các kế  hoạch kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng…đều phải cử  đại biểu có  thẩm quyền như  Tổng Bí Thư, Bí Thư Thứ  Nhất,  hoặc  tối thiểu cũng là  Thường Trực  Ban Bí  Thư (tức nhân vật số  2 trong đảng)   sang để  cho đại diện đảng cộng sản  Nga  Bonshevik  duyệt lại lần cuối trước  khi  mang về thông qua cái gọi là “hội nghị  trung ương thông qua các văn kiện đại hội”, và  trong thời gian đại hội, việc  đọc văn kiện và  thông qua  văn kiện  cũng như bầu bán nhân sự … chỉ là  thủ  tục làm cho vui vì:
Kiểu bầu bán như vậy là “TÍNH ĐẶC THÙ” của  cái  gọi là  “DÂN CHỦ TẬP TRUNG CỦA TẬP ĐOÀN VGCS” từ  thời Hồ  Chí Minh, tức từ  đại hội  2  của bọn chúng họp ở  Việt Bắc (1951), để chúng ra đời cái gọi là  Đảng Lao Động Việt Nam.  Còn trước đó, các vị trí  quan trọng trong đảng VGCS  là  do Nga Xô  trực  tiếp chỉ  định
                Thí Dụ: Lê Hồng Phong đang ở  Nga, được  Nga  Xô chỉ  định thay thế  Trần Phú  vì  Trần Phú bị chết.  Nhưng vừa  tới Saigon  thì  Lê  Hồng Phong bị bắt nên Nga  Xô  lại chỉ  định Hà  Huy Tập (trưởng ban đối ngoại VGCS) được thay thế  vào chỗ Lê Hồng Phong.  Nga  Xô cũng chỉ định Nguyễn Thị Minh Khai làm Bí Thư Saigon, và  Phùng Chí  Kiên  thay  Hà  Huy Tập là trưởng  ban đối ngoại.  Rồi sau đó Nga  Xô lại chỉ  định Phùng Chí  Kiên qua  phụ trách quân đội vũ trang, nhưng  Kiên đã  bị Hồ và  Giáp báo Pháp bắt và  bị bắn chết.  Chính vì  thế  Giáp mới được  Hồ cho  thay chỗ  của  Kiên cùng với Chu Văn Tấn. 
                Khi  có  vụ “XÉT LẠi”  và  “GIÁO  ĐIỀU” thì  cộng sản  Việt Nam  phải chịu sự chỉ  đạo của  cả Nga Xô (xét lại)  và của  Tàu Cộng (giáo điều).
Xét Lại và  Giáo Điều chỉ  là  cái  cớ  của Nga Xô và Tàu Cộng bành trướng tập hợp các đảng cộng sản tay chân nhằm tranh nhau cái ghế  3 cẳng  chứ  bản thân bọn chúng đều  là  Thực Dân Đỏ.
Sự khác nhau về  lý luận là:
-          Nga Xô Xét Lại thì  cho rằng Cộng Sản và Tư Bản  có thể  chung sống Hoà Bình. Cha  đẻ  ra Xét Lại là Nikita Sergeyevich Khrushchev (April 15 [O.S. April 3] 1894 – September 11, 1971).
-          Tàu Cộng Giáo Điều thì  coi  CHIẾN TRANH LÀ  TẤT YẾU không thể  tránh khỏi vì  còn Đế Quốc, “do Đế Quốc Mỹ  cầm đầu, là  tên Sen Đầm Quốc Tế  và  là Người Khổng Lồ Chân Đất Sét!!!”
Chính Khí Việt mạn phép Lưu Ý  Quý Bạn Đọc rằng:
-          Trong khi Nga  Xô cổ  võ  cho “Chung Sống Hòa Bình”  thì  chính Nga  Xô lại bí mật mang Hỏa Tiễn Hạt Nhân qua Cuba chĩa  vào Mỹ hơn nữa chúng còn nuôi lính Cuba  cho đi nhuộm đỏ  một số  nước Châu Phi bằng súng đạn, máu và buôn bán Ma Tuý … như đối với Congo, Ethiopia…  Sau đó  còn đưa  quân  sang Afghanistan  và bi  sa lầy ở  đó!!!
-          Còn Tàu Cộng bành trướng kêu gào chiến tranh thì chúng chỉ bắn đại bác  vào các đảo Bành Hồ, Mã Tổ (của Tàu)  liên tu bất tận, gây chiến với Nga Xô và Ấn Độ, dù  đói rã họng  cũng vẫn làm con đường chiến lược  qua sa mạc Karakoram Pakistan, và hề  nhất là cuộc  họp  ở  Bandung  (Băng Đung), Chu Ân Lai cùng Thủ Tướng Ấn Đô  Nehru  đã  ký  văn bản về  chính sách “Chung Sống Hòa Bình 5 Điểm”, và cũng nhờ tên “Sen Đầm Quốc tế, Người Khổng Lồ  Chân Đất Xét” là Đế Quốc Mỹ làm ngơ  nên mấy nhà  Khoa Học  Ở Mỹ Gốc Tàu … mới có  mặt ở Tân Cương trong vòng tay quản lý  và  bảo vệ  của Nguyên Soái  Tàu Cộng Trần Vân, để  hoàn thành… bom nguyên tử  cho  Tàu Cộng bành trướng!!!  
THỨ HAI: Hình Thức: Đảng Cách Mạng; Nội Dung:  Bè Lũ Việt Gian
Việc  hơn 80 năm thực dân Pháp  đặt ách cai trị lên toàn cõi Việt Nam và  người dân Việt Nam đã liên tục  chiến đấu chống ách thực  dân Pháp, rồi sau đó  là  cả  ba cái ách của các thế lực  là  THỰC DÂN  PHÁP, PHÁT XÍT NHẬT, và  TRIỀU ĐÌNH NHÀ NGUYỄN, như thế  nào thì  khỏi cần nhắc lại.
Điều chính yếu Chính Khí Việt muốn chia  sẻ  với Quý  Bạn đọc ở đây là:
1         Lần đầu tiên trong lịch sử  dựng nước và  giữ nước của  dân tộc  Việt Nam, lại có một tổ  chức  giương ngọn cờ  cách mạng cứu dân, cứu nước lại che  đậy nội dung của  một băng đảng việt gian, đã TỰ NGUYỆN  HIẾN DÂNG trọn vẹn  Nhân Dân và Tổ Quốc  Việt Nam cho ngoại bang  đó  chính là ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, gồm những tên được Nga Xô  Viết tuyển mộ, đào tạo để  làm nhiệm vụ việt gian, trong âm mưu  bành trướng chủ nghĩa thực  dân đỏ  vào  Việt Nam, với mục tiêu biến đất nước Việt Nam thành tài sản của Nga Xô Viết;  nhân dân Việt Nam thành Nô Lệ Đỏ, thuộc  phạm trù tài sản của Nga Xô Viết.
Cái  gọi là  Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là  gồm những Nga Xô Viết gốc Việt, bởi vì  chúng tự thú  rằng Đảng của  chúng là  một bộ phận của Nga Xô Viết; lãnh tụ tối cao của  chúng chính là  lãnh tụ  tối cao của Nga Xô Viết;  cờ  đảng của  chúng (cho tới 2022 này), màu đỏ với búa liềm màu vàng cũng chính là Quốc Kỳ  của  Nga Xô Viết.
Vì  không phải tất cả  đảng viên  việt gian cộng sản  đều được  đào tạo tại Nga Xô Viết,  cho nên sau khi cuộc  họp chuẩn bị thống nhất các nhóm cộng sản, do Nga Xô Viết  ra lệnh trong bức thư của Hồ Chí  Minh viết năm 1929 để  báo cáo  với Nga Xô Viết rằng, sau khi ra mắt cái gọi là  “đảng cộng sản Việt Nam” thì cái tổ  chức  việt gian đó khẳng định:
-          Tổ chức  của  chúng là một chi bộ của Quốc Tế III  (tức bộ thuộc địa  đỏ của Nga Xô Viết)
-          Nga Xô Viết là Tổ Quốc của chúng.
-          Chúng chỉ tuân theo mọi chỉ  thị của Nga Xô Viết.
-          Chúng sẽ  tổ chức cho người của  chúng xâm nhập vào các tổ  chức  chính trị, các hội đoàn…nào  ở Việt Nam mà theo tinh thần “QUỐC GIA   DÂN TỘC”  để  vẫn giữ nguyên danh xưng cũ cho dễ đoàn ngũ hóa  nhân dân Việt Nam,  nhưng chúng sẽ tìm cách cướp lấy bộ máy  lãnh đạo củ  ở tổ  chức một cách trọn vẹn hoặc  một chi nhánh (bộ phận) để  lèo  lái  đi theo con đường của  chúng mà  Nga Xô Viết đã hoạch định  cho bọn chúng  hành động.
-          Chúng sẽ  bonshevik hóa toàn đảng  tiến  tới bonshevik hoá  toàn dân Việt Nam (có  nghĩa  việt gian hóa  toàn đảng và  việt gian hóa toàn dân Việt Nam cho Nga Xô Viết),  gồm hai thành phần:  Đảng VGCS  là  tập hợp bọn CAI KÝ  trong bộ  máy cai trị thuộc  địa  đỏ của Nga Xô Viết, và  toàn dân bị trị  Việt Nam còn lại  là  Nô Lệ Đỏ  trong mọi hoạt động xã hội của Việt Nam phục  vụ  cho mọi quyền lợi của Nga Xô Viết từ  kinh tế  đến  làm binh nô đỏ  trong chiến tranh mở  rộng thuộc  địa  đỏ.
Chúng ta  cũng nên lưu ý  đến việc  Hồ  Chí  Minh, tên đại tội đồ, đại việt gian trong lịch sử  dựng nước và  giữ nước của  Việt Nam, ngay  sau khi  được Nga Xô Viết đào tạo xong, hắn đã  được cho về  hoạt động ở  Đông Nam Á Châu,   thì:
-          1925: tên Hồ  Chí Minh đã bán nhà  Ái Quốc Phan Bội Châu  cho thực dân Pháp.
-          1930: Hồ  đã bán cho thực dân Pháp tin tức về  cuộc  khởi nghĩa  của Việt Nam Quốc Dân Đảng do Anh Hùng Dân Tộc  Nguyễn Thái Học lãnh đạo.
-          1930-1931:  Tổ chức cái  gọi là  “Cách Mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh”
Tưởng cũng cần  nhắc lại là sau khi ra  đời với cái  tên “đảng cộng sản Việt Nam”, thì ngay sau đó Nga Xô Viết  ra lệnh đổi lại là “Đảng Cộng Sản Đông Dương”,  mà lúc đó  chưa hề  có một người Miên hay Lào nào là  đảng viên  cộng sản tham gia.  Điều đó  cho chúng ta có đủ  chứng cớ để  khẳng định:
a)      Bắt đổi tên từ đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, có  nghĩa  là Nga Xô Viết  hoạch định nhiệm vụ  cho bọn việt gian cộng sản có trách nhiệm và đồng thời phải nhuộm đỏ  ba nước trên bán đảo Đông Dương là Việt Nam, Lào và Miên. Đó  chính là  chân dung thực  của  bè  lũ Việt Gian Cộng Sản: “CÔNG CỤ CỦA  NGA XÔ VIẾT RA TOÀN BÁN ĐẢO ĐÔNG DƯƠNG”,  lúc đó  đang còn chịu  sự thống trị của  thực dân Pháp.
Cho nên phải thấy rằng nội dung thực  của khẩu hiệu mà  bè  lũ Việt Gian Cộng Sản nêu lên là: “Đánh thực dân Pháp để  dành tự do cho Dân Tộc, độc lập cho Tổ Quốc”, chỉ  là cái  mặt nạ mà bè lũ việt gian cộng sản che đậy  hành động dùng máu xương người Việt Nam (kể cả Lào và Miên, kể  cả tiềm năng khác của Việt Nam (kể cả Lào và Miên) ngay từ khởi thuỷ là  vì  chiến lược bành trướng cho chủ nghĩa  Thực Dân Đỏ của Nga Xô Viết.  Và  sau này  cho sự bành trướng của  cả Cộng Sản Tàu (hay đúng hơn là chủ nghĩa  đại hán bành trướng núp trong tấm  áo  chủ nghĩa  cộng sản!)
b)      Việc  tập đoàn VGCS chấp nhận cái tên mới “Đảng Cộng Sản Đông Dương” mà  Nga Xô Viết  đặt cho, cùng  với nhiệm vụ xích hoá  toàn Đông Dương, bổ  xung  thêm cho chứng cớ rằng  bè  lũ VGCS  là  CÔNG CỤ CỦA NGA XÔ VIẾT  trong chiến lược nhuộm đỏ thế giới   thuộc phần các nước ở Đông Nam Á
(Giống như chủ  của con chó  mới có quyền đặt tên, đổi tên cho con chó của mình.  Mà,   vì là  con chó  của chủ  Nga Xô Viết  nên bọn VGCS  chỉ  chấp nhận chứ đâu dám, mà  cũng không thể bàn cãi được).
Những điều trên cho phép chúng ta khẳng định:  Tập đoàn cộng sản Việt Nam  dù  trong bất cứ  danh xưng nào thì: Căn cốt  từ hình thành cho đến qúa trình  hoạt động, từ  khởi thuỷ cho đến khi bị tiêu diệt, CHÚNG HOÀN TOÀN LÀ  VIỆT GIAN TỰ NGUYỆN  và  cho dù  có  làm gì  cũng chịu sự  chỉ đạo bởi  TƯ TƯỞNG VIỆT GIAN  mà thôi.
THỨ BA: Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931

KHI NHẮC LẠI  SỰ KIỆN GỌI LÀ XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH 1930-1931 CHÚNG TA  CŨNG CẦN NHỚ  ĐẾN  CUỘC KHỞI NGHĨA  CỦA ANH HÙNG NGUYỄN THÁI HỌC  VÀO NĂM 1930 BI THẤT BẠI HOÀN TOÀN. THỰC DÂN PHÁP ĐÃ THẰNG TAY CHÉM GIẾT  ĐẾN TẤT  CẢ NHỮNG NGƯỜI VÔ TỘI.  CHÚNG DÙNG CẢ  MÁY BAY BÀ GIÀ NÉM  BOM VÀO LÀNG XUÂN LŨNG (PHỦ LÂM THAO, TỈNH PHÚ THỌ) TAN HOANG,  CHỈ  VÌ  Ở  ĐÓ  CÓ MỘT CƠ SỞ CỦA VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG,  VÀ  ĐÁNG CĂM PHẪN NHẤT LÀ  SỰ MẤT MÁT KHÔNG THỂ  BÙ  ĐẮP ĐƯỢC, VÌ  CÁC  ANH HÙNG LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT NHẤT CỦA VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG, MÀ  CŨNG LÀ  LINH HỒN CỦA  CUỘC  KHỞI NGHĨA  ĐÓ,  ĐÃ BỊ THỰC  DÂN PHÁP BẮT,  ĐÀY ĐỌA, TRA TẤN VÔ CÙNG MAN RỢ TRƯỚC KHI BỊ MANG RA  CHẶT ĐẦU Ở  TỈNH LỴ YÊN BÁI,  KỂ  CẢ  ĐẢNG TRƯỞNG ANH HÙNG NGUYỄN THÁI HỌC.

                Một trong những nguyên nhân thất bại của  cuộc  khởi nghĩa  đó  là: tên đại tội đồ, đại việt gian Hồ Chí Minh  đã vô cùng thâm độc giúp thực dân Pháp rất hữu hiệu trong việc báo cho mật thám Pháp về cuộc khởi nghĩa của các anh hùng Việt Nam Quốc Đảng.
                Sự việc  được tóm tắt như sau:
                Để  có thể  làm cuộc  khởi nghĩa vũ trang,  Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học  đã cử  ba  cán bộ  của Việt Nam Quốc Dân Đảng qua  Thái Lan  tìm cách mua  súng đạn.  Thời  ký  đó  bọn Hoàng Văn Hoan và Nguyễn Đức Quỳ là  đảng viên cộng sản đang hoạt động ở Thai Lan.  Ba  cán  bộ  VNQDĐ đã liên lạc  với chúng, vừa  lúc đó  Hồ Chí  Minh sang Thái Lan  được  Hoan  và Quỳ  cho biết sự  việc  nói trên.  Hồ  đã căn dặn bọn Hoan và  Qùy  không được  liên lạc  với VNQDĐ vì  rất  nguy hiểm cho tổ  chức (tức tổ chức việt gian cộng sản của chúng).
                Như vậy việc  Ba  Cán Bộ  của VNQDĐ  sang Thái Lan  mua  súng chỉ  có 3  người biết  là Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Đức Quỳ  và  Hồ Chí  Minh.
                Sau khi biết người của VNQDĐ mua  súng ở Thái Lan,  Hồ  rời Thái Lan ngay lập tức.
                Làm xong nhiệm vụ, Ba Cán Bộ VNQDĐ cũng rời Thái Lan  và  vừa ra khỏi biên giới Thái thì đã có mật thám Pháp chờ  bắt.  Chúng mang về  tra tấn mới biết là VNQDĐ  đang âm thầm tổ  chức  vũ trang khởi nghĩa và  có  sự tham gia  khởi nghĩa  của binh sĩ  người Việt Nam trong quân lính của thực dân Pháp.  Chúng vội cho lệnh tước vũ khí  của  binh lính người Việt  và  ra “lệnh cấm trại”, nghĩa là  không được rời doanh trại.  Cùng lúc  thực  dân Pháp  cho lệnh khám xét khắp nơi, lùng sục  dấu vết của  tổ  chức Việt Nam Quốc Dân Đảng, đặc  biệt là  các  cấp lãnh đạo chỉ  huy then chốt.  Vì  lý  do đó  Đảng Trưởng Nguyễn Thái  Học  đã  cho lệnh Khởi nghĩa  SAI  với kế hoạch ban đầu.  Tức là  kế  hoạch ban đầu từ  lệnh  sẽ khởi nghĩa vào đêm 12 tháng 2, 1930 phải chuyển sang  vào 15 tháng 2, 1930.
 Anh Hùng Nguyễn Thái Học
Đảng Trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng
                Câu hỏi được  đặt ra  là  làm sao mật thám  thực  dân Pháp lại biết để  chờ đón sẵn ở  biên giới Thái Lan  và bắt gọn cả  Ba Cán Bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng được cử  đi mua  súng đạn?
                Với hành động bán nhà Ái Quốc Phan Bội Châu cho mật thám thực dân Pháp  năm 1925 của  đại  đại việt gian Hồ Chí  Minh và  cái việc sau khi biết có Ba Cán Bộ VNQDĐ đang ở Thái Lan  mua  súng đạn do Hoàng Văn Hoan và  Nguyễn Đức Quỳ  báo cáo, việt gian Hồ  Chí  Minh  vội vã  rời Thái Lan và  rồi sau đó mật thám thực  dân Pháp nằm chờ  sẵn, bắt  gọn Ba cán Bộ  VNQDĐ,  thì  dù  có kém thông minh đến đâu cũng phải  thấy:
-         KẺ BÁO  CHO MẬT THÁM THỰC DÂN PHÁP  CHÍNH LÀ  TÊN ĐẠI TỘI ĐỒ, ĐẠI VIỆT GIAN  HỒ  CHÍ MINH.
(Có thể tham khảo cuốn “Giọt Nước Trong Biển Cả” của Hoàng Văn Hoan và hồi ký  “Tôi Theo Đảng” của Nguyễn Đức Quỳ. Năm 1954  khi ngụy quyền VGCS  Hồ Chí Minh vào Hà NộiNguyễn Đức Quỳ  được Hồ cho giữ chức Thường Vụ Đảng Đoàn kiêm Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa  mà  tên việt gian Hoàng Minh Giám làm Bộ Trưởng. Bí Thư Đảng Đoàn kiêm thường trực Thứ Nhất là Lê Liêm; về  sau Lê Liêm qua Bộ Giáo Dục và Hà Huy Giáp, từ  Bộ Giáo Dục thay chỗ Lê Liêm, hắn còn được chỉ định làm Bí Thư Đảng Đoàn của Hội Liên Hiệp Văn Học  Nghệ Thuật, và  còn làm Phó Ban Tuyên Huấn Trung Ương;  vợ  hắn là Hà Thị Chí là Thứ  Trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ ).
Sau khi bán thông tin cho thực dân Pháp  về  cuộc khởi nghĩa vũ trang (có sự kết hợp với  binh lính Việt Nam trong binh lính của thực dân Pháp) của VNQDĐ do Đảng Trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học  trực tiếp lãnh đạo,  Hồ  Chí Minh lại một lần nữa  chứng tỏ bản chất việt gian làm tay sai cho chủ nghĩa  Thực Dân Đỏ Nga Xô Viết.
Lần Thứ Nhất  hắn bán nhà Ái Quốc Phan Bội Châu vào năm 1925;
Lần Thứ Hai hắn bán  cuộc khởi nghĩa 1930  của VNQDĐ
Những hành động trên của  tên đại việt gian Hồ Chí Minh chứng tỏ  rõ ràng rằng đầu óc hắn hoàn toàn căm thù  Tổ Quốc, Nhân Dân và  Truyền Thống Dân Tộc  Việt Nam.  Cho nên lá thư đại việt gian Hồ Chí Minh viết  gởi cho Nga Xô Viết năm 1929, là  việc làm có suy nghĩ chín chắn, và  quyết tâm thực thi việc phục  vụ cho cái TƯ DUY VIỆT  GIAN ĐÓ.
Sáu tháng sau cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại thực dân Pháp  của Anh Hùng Nguyễn Thái  Học, Đảng Cộng Sản Đông Dương (danh xưng mới do Nga Xô Viết đặt cho) cố gắng đẻ  ra cái gọi là “Xô Viết Nghệ  Tĩnh", khởi đầu từ 12 tháng 9 1930  tồn tại khoảng  bốn  tháng (?). 
Để  làm gì?
                    Làm một cuộc tuyên truyền bằng các phương tiện truyền thông báo chí các loại để xóa  mờ đi  tiếng vang  Cuộc Khởi Nghĩa Vũ Trang của Việt Nam Quốc Dân Đảng do nhà Đại Ái Quốc Nguyễn Thái  Học trực tiếp lãnh đạo.
2              Dùng máu xương của người Việt Nam làm lễ vật “mừng kính” đã được Nga Xô Viết trao cho những nhiệm vụ to lớn hơn, đó là được quyền xâm lược cả Lào và Miên  để  biến Hai Nước này thành THUỘC ĐỊA ĐỎ  cho Nga Xô Viết.
           Chứng minh với tập đoàn  cầm quyền Nga Xô Viết về  khả  năng tổ chức, tinh thần hy sinh và  điều quan trọng nhất là,  vì  quyền lợi mở  rộng Thuộc Địa Đỏ của Nga Xô Viết, đại việt gian Hồ Chí Minh  và bè lũ  việt gian trong tổ chức do Nga Xô Viết đào tạo, huấn luyện ban cho cái tên Đảng Cộng Sản Đông Dương,sẵn sàng đưa người dân Việt Nam vào chỗ chết;  sẵn sàng dùng những tên lưu manh làng xã địa phương và những tên lưu manh thành thị để làm cái  việc “trời không dung, đất không tha”; khiến tổ tiên người Việt Nam phải đau lòng; người Việt yêu nước phải căm phẫn;  đó là  việc  chúng thi hành cái  chính sách do đại tội đồ, đại việt gian Hồ Chí Minh và  toàn băng đảng được Nga Xô Viết đặt tên cho là đảng Cộng Sản Đông Dương,  đồng một lòng đưa  ra  và được  sự chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp bởi  khẩu hiệu  cho hành động  là:
                TRÍ, PHÚ, ĐỊA, HÀO –
ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC  TÃN RỄ!!!
4              Tạo cớ  cho  thực dân Pháp tàn sát, bắt bớ vô tội vạ  nhân công không lương (vì là tù nhân) đi  khai  rừng, phá núi, làm đường, giúp cho thực dân tiếm đoạt thêm những vùng khai hóa mới  thành các đồn điền,  lâm trường,… đồng thời bọn tham quan, cẩu quan trong Triều Đình Nhà Nguyễn lúc bấy giờ tha hồ vơ vét qua  xử án , chạy án,  cướp ruộng vườn, gia súc, nhà cửa  và công khai MUA BÁN các chức sắc Hào, Lý  trong làng xã.  Những nông dân mất  ruộng đất vì chạy án, để  không dính vào tội tham gia Xô Viết,  trở thành lao động rẻ  mạt, đến làm nhân công ở  các nhà máy  ở  khu vực  mới với đồng lương chết đói, hoặc  trở thành tá điền trong các đồn điền, hoặc gia nhập hàng ngũ  công nhân cạo mủ  cao su  ở các công ty cao su, hoặc các hầm mỏ của thực dân Pháp.
5              Đấy  cũng chỉ là  một cách mà  VGCS  mượn  bàn tay thực dân  Pháp  Vô Sản Hóa  hơn nữa  người dân Việt Nam,  để  khi nắm  được thời cơ, băng đảng việt gian có tên Đảng Cộng Sản Đông Dương  sẽ dễ dàng  lợi dụng, dẫn dắt những con người “cùng khổ”  đói ăn đó  làm cái  gọi là  CÁCH MẠNG VÔ SẢN, tiến  tới cái  bánh vẽ  xã hội cộng sản không có người bóc lột người, bình đẳng “làm theo  năng lực, hưởng theo nhu câu!!!” và khi đã bị đoàn ngũ hóa  giống như  con chó bị xích cổ,  khi hối lại thì đã qúa muộn  đành phải  cắn răng chấp nhận công thức: “Làm Hêt Năng Lực, Hưởng Xương Thừa Canh Cặn!!!”

VÀI  NGỘ NHẬN VỀ XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH 1930-1931

                  Các nhà  máy ở khu vực bến Thuỷ (Vinh, Nghệ An) có khoảng  gần 4,000 công nhân.  Theo kế hoạch, bè lũ việt gian do Nga Xô Viết  trong lốt Đảng Cộng Sản Đông Dương, kích động công nhân biểu tình ngày  mùng 1 tháng 5, số lượng công nhân tham gia  khoảng chừng hơn 400.  Mục  đích là  làm cuộc  Xô Viết Nghệ Tĩnh  ngay ngày hôm biểu tình đó nhưng không thành công vì  công nhân không hưởng ứng cho nên chúng phải lùi lại  đến tận ngày 12 tháng 9, 1930 vận động để  nông dân ở  năm xã chung quanh Vinh (thủ phủ  của Nghệ An) khoảng độ 200 người  đi xin giảm thuế.  Nghĩa  là  với số  công nhân nói  trên chỉ  còn lại chừng độ một hai trăm người tiếp tục  đi theo việt gian cộng sản, cùng với khoảng 200 nhân mạng là  những nông dân nghèo khổ,  mà  chúng đã  biến thành cái gọi là cuộc  nổi dậy của  Xô Viết ở trong một xã.  (Nên lưu ý, mỗi xã  chỉ có khoảng 40 người kể cả đàn bà và thiếu niên!)
  Lũ  đảng viên của  cái gọi là  Đảng Cộng Sản Đông Dương  tập  trung vào một vài xã và tổ chức chém giết  các hào lý  của  xã,  chém giết các nhà  nông  gọi là vừa  đủ ăn  và các hương sư, thủ từ giữ đền , cùng với các sư sãi  nhà chùa.  Chúng cướp lúa gạo, gia  súc, xóa  giấy nợ , chặt đầu người này đâm tiết người kia  và  gõ  trống  mõ  phèng la để  ăn mừng cái gọi là “Chính Quyền Xô Viết Công Nông”  (không có  binh,không có  lính tham gia như cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc  Dân Đảng).  Chúng cướp bóc, giết người chẵng cần xét xử.  Chỉ  cần một tên xướng lên, thì cả  bọn hùa nhau giết người, cướp của  và  sau đó chúng tổ  chức  nhậu nhẹt ăn mừng chiến thắng,  thật  đúng là  một lũ cướp ngày.   Từ  đó  chúng lan ra một vài xã,  rồi lên đến một vài huyện lỵ.Và  với sự đàn áp của thực dân Pháp, và không có  sự hưởng ứng của người dân địa phương nên chỉ  sau bốn tháng là  xẹp hết, mà VGCS  gọi đó là “THOÁI TRÀO”.
Sau này, cho đến tận hiện nay, VGCS vẫn thổi phồng cái gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, chỉ là nhằm đề cao những cái không hề có thật, mà chỉ  là việc tự dối mình, dối người và các thế hệ sau mà thôi.
Gọi là Nghệ Tĩnh (2 tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh) nhưng thực ra “phong trào”  đó chỉ xuất hiện chưa qúa  5 huyện,  ở Thanh Chương là chính còn 4 huyện còn lại chỉ  xảy ra ở  vài xã hưởng ứng (còn lại  ở Hà  Tĩnh chỉ  có một  xã giáp giới  với Nghệ An mà thôi).
 Không thấy số đông công nhân hưởng ứng, một số quay lại hàng phục chủ nhà máy, một số  hoảng sợ bỏ trốn về nông thôn hoặc trốn đi các tỉnh khác,  thậm chí một số vượt cả biên giới qua Lào, Miên và cả Thái Lan.  Một số  ít  khác lại bỏ  trốn tận Vân Nam bên Tàu.
 2    Sự  việc VGCS  rêu rao là tồn tại bốn tháng  của cái gọi là  “Xô Viết Nghệ Tĩnh” là  vì,  kể từ ngày 12 tháng 9, 1930,  là  ngày  mà  chúng kéo nông dân ra  và lôi kéo một số  công nhân để bắt đầu phá rối, rồi quay trở về xã giết người cướp của  và  đặt tên cho cuộc nổi dậy đó là lập chính quyền Xô Viết Công Nông.  Thoạt đầu, để lôi kéo những người công nhân thì  chúng nói rằng ra biểu tình bất bạo động để xin được giài quyết  về điều kiện làm việc cũng như xin tăng lương một cách ôn hòa.  Nhưng khi một số lưu manh ở nông thôn ra,  chúng đã biên cộc biểu tình “bất bạo động”  thành hành động cướp của giết người,  và thế  là một số  công nhân đã trót đi theo  đành  phải “đâm lao thì phải theo lao” vậy.
 Đầu tháng 9, 1930  cũng là ngày  mà thực dân Pháp làm cái  việc  nối tiếp của  VGCS đang làm giở dang đó cũng  là   việc  chém giết, cướp bóc, hãm hiếp, cho đi tù lưu đày biệt xứ hàng  chục ngàn gia đình (chứ không phải người).  Xô Viết của thực dân đỏ Nga Xô  chỉ thị  cho VGCS thi hành bị sụp đổ hoàn toàn chỉ còn lại xác  chết  đầy đồng,  nhà  cửa bị đốt, làng mạc  vắng tanh.  Chỉ có  hằng ngàn  con qụa  bay về rỉa xác người và  kêu suốt ngày.  Huyện lỵ Thanh Chương là một điển hình từ  cái năm 1930 đó,  cái lũ chim quạ thay thế  cái gọi là Xô Viết đã  sinh sôi nảy nở  đến mức  năm 1960, ở huyện Thanh Chương, chim quạ  bay đen trời!!!
 3    Một điều cần lưu ý là sau khi Le Nin đẻ ra một tổ chức mới nhằm quản lý  đất nước ở  cấp “nhà nước”,  từ  đó chúng cho ra  đời Bộ Thuộc Địa  mang danh xưng Quốc Tế III, thì  bè lũ việt gian do Nga Xô trong lốt đảng Cộng Sản Đông Dương có thể  được coi là công cụ tự nguyện  trung thành nhất của Nga Xô Viết.  Và  chúng cũng là  tay sai bản xứ  đầu tiên thực thi mô hình Xô Viết trên đất nước Việt Nam  với một mục tiêu rõ ràng là: Tạo điều kiện dễ dàng nhất cho Nga Xô Viết cai trị vĩnh viễn, tiến tới sát nhập nhân dân và đất nước Việt Nam thành  một bộ phận của Liên Bang Nga  Xô Viết, làm  bàn  đạp ra toàn Đông Dương  và  sẽ mở  rộng  ra Đông Nam Á Châu. 
Thời kỳ  đó  VGCS chưa có kinh nghiệm về “chơi chữ” để mơ hồ hóa nhiệm vụ  thực  sự mà Nga Xô Viết  giao cho chúng, cho nên chúng đã nói rõ nhiệm vụ hàng đầu và lâu dài  của chúng  đối với người dân Việt Nam là: 
  “TRÍ, PHÚ,  ĐỊA,  HÀO 
 ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ”.
  Một đất nước, một cộng đồng mà thiếu bóng các tầng lớp Trí, Phú, Địa, Hào  thì còn lại  cái gì???   Ngoại trừ  làm lao nô và binh nô cho ngoại bang.  Ngoại  Bang  ở đây là  Liên Bang Xô Viết (và từ 1950  cho đến tận nay là cả Tàu bành trướng nữa).
  
Nói chủ nghĩa thực dân đỏ Nga Xô Viết  tinh vi và  tàn bạo nhất   trong lịch sử  nhân loại là nằm  trong khẩu hiệu hành động nói trên của bè lũ VGCS từ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931,   cho đến  tận hiện nay (2013) và  sẽ còn tiếp  diẽn cho tới  khi chúng hoàn toàn bị loại bỏ.
  Phong kiến Tàu cho đến  thực dân Pháp, Phát Xít Nhật cũng từng có hành động như bắt cống các nhà  Nho, Thày Thuốc,  Thợ cao tay của các ngành nghề,  nhưng chúng chưa  dám làm cái  việc:  trí, phú, địa, hào; đào tận gốc, trốc tận rễ.   Riêng tụi Tàu  từ khi đội lốt “cộng sản”  để  thực thi “chủ nghĩa  đại hán bành trướng”   thì chúng KHÔNG   “đào tận gốc, trốc tận rễ” mà chúng đã và đang hán hóa:  cả tổ quốc  Việt Nam và  mọi sắc  dân sống trên đất nước  Việt Nam, đã có  công đoàn kết  dựng nước  và  giữ nước trong suốt  chiều dài  lịch sử Việt Nam từ khi chúng ta còn chưa có lịch sử thành văn.
CẦN HIỂU ĐÚNG NỘI DUNG CỦA :
 TRÍ, PHÚ, ĐỊA, HÀO ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ
Chỉ  khi nào hiểu đúng nội dung khẩu hiệu: Trí, Phú, Địa, Hào – Đào Tận Gốc, trốc tận rễ  được  VGCS  thực thi liên tục  từ cái gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh  1930-1931 cho đến hiện nay  và  tiếp tục  như thế  cho đến ngày cả tổ  chức việt gian của  chúng bị loại bỏ  khỏi Việt Nam, thì chúng ta  mới thấy hết tội ác của  chúng, mới  có thể hiểu được vì  sao chúng được  sự tiếp tay của các  chính quyền  các  nước trên thế giới (cần phân biệt chính quyền  với người dân các  nước đó).  Đồng thời chúng ta mới  hiểu được trách  nhiệm  sơ đẳng nhất  của mỗi nguời dân Việt Nam.  Và,  trước  Quốc Nạn  này,  làm sao toàn dân Việt Nam có thể đoàn kết mọi sắc dân, mọi cộng đồng, mọi thành phần xã hội, cả  trong và  ngoài Việt Nam,  cũng như làm thế nào để nhân dân yêu tự do,  yêu dân chủ, độc lập, hoà  bình, hạnh  phúc, công bằng, văn minh trên toàn thế giới  bảo vệ  và  giúp nhân  dân Việt Nam  PHỤC QUỐC, XÂY  DỰNG ĐẤT  NƯỚC VIỆT NAM  thành một đối  tác ổn định tin cậy được  và  có tinh thần quốc tế cao cả, bảo vệ mối  quan hệ đôi bên cùng có  lợi  trong hợp tác trên mọi lãnh vực,  quyết làm trọn mọi nhiệm vụ quốc tế phân công với tinh thần trách nhiệm cao nhất. 


4. Chúng ta cần lưu ý đến việc quyết tâm tiêu diệt Việt Nam của tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh trong cụm chữ:
“ĐÀO TẬN GỐC TRỐC TẬN RỄ”
Và đối chiếu với những chính sách được  thực  thi sau khi chúng lừa  đảo  cướp  được  chính quyền bộ máy nhà  nước ở Việt Nam vào năm  1945, cũng như những  việc  làm của  chúng sau khi Nga Xô Viết cho tổ  chức  việt gian  của  chúng ra  đời.
Nếu  mở  đầu là  bán nhà  Ái Quốc  Phan Bội Châu, năm 1925, cho thực dân Pháp, do tên đại tội đồ  Hồ  Chí Minh thực hiện mà  không phải  được  sự  đồng lõa  của  toàn thể  đảng cộng sản Đông Dương việt gian của  chúng,  vậy thì  tại sao  trước  một tội  ác lớn lao đó  mà  Hồ  vẫn được  bọn chúng suy tôn làm lãnh tụ  số một?  Ngay tên việt gian Hà Huy Tập, kẻ  đã có  những báo  cáo vể  những sai sót của  Hồ, mà  với tư  cách Tổng Bí Thư  1935, Hà  Huy Tập  đọc  báo  cáo chính trị lần Thứ  Nhất của  cái  tổ  chức việt gian mang tên  Đảng Cộng Sản Đông Dương, ở  Ma Cao (Tàu)  trong đó  có  đọc bản kết  án “tên Bảo Đại, Phan  Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng… là  bọn việt gian” (SIC)!!!???  
Nên nhớ cái  báo  cáo  đó  do  Hà  Huy Tập đọc và  được  thông qua không một  đứa  nào  phản đối. Không những thế  nó  vẫn được  duy trì  trong tuyển tập “Văn Kiện Đảng” (việt gian) do nhà  xuất bản chính trị  quốc gia (in lần thứ  1).
Xin được  đặt câu hỏi:
Nếu một  đảng chính trị  tự  đóng cho mình cái nhãn “cách mạng giải phóng đất nước và dân tộc  khỏi ách thống trị của  thực dân Pháp” mà  lại có  thể  “Đào Tận Gốc, Trốc Tận Rễ”  bốn giai  tầng rường cột của nước nhà;  lại có  thể  bán nhà  Ái Quốc của  Dân Tộc đã được  khẳng  định và  được  đặt tên ở  các đường phố  Hà  Nội, Huế, Saigon  và  nhiều  đô thị  của Việt Nam  suốt  từ  thời kỳ VGCS còn rúc đầu bên Tàu, bên Nga Xô Viết,  trong cái lỗ hang pac pó (Cao Bằng)…  Vì vậy việc bán các  nhà  yêu nước là  các cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học và  các  lãnh tụ  Việt Nam Quốc Dân Đảng…  cho thực dân Pháp  để  chúng tiêu diệt tàn bạo,  thì  chúng ta phải gọi cho đúng cái tên của  “tổ  chức”  đó  là  gì???  Quan  điểm lập trường của  chúng rất ăn khớp  và  tung hứng với lũ thực dân Pháp để  tiêu diệt những cá  nhân và  tổ  chức yêu nước  của  Việt Nam.  Vậy  chúng ta  phải gọi  chúng là  gì???
Tưởng cũng nên nhớ  rằng cái  tội toa  rập với thực dân Pháp nhằm tiêu diệt những người mà  chính chúng  cũng phải thừa  nhận qua các  bài viết của lũ “sử  nô”  bọn chúng, đó  là những cá  nhân và  đảng phái  của người Việt Nam yêu nước (ngay tận 2013 này), và  với sự  khẳng định của  toàn thể  đảng viên của  chúng,  mà  không một ai phản bác  kể  từ  sau  báo cáo  chính trị  của  tên việt gian Hà  Huy Tập vào năm 1935.
Vậy xin hỏi quý  cụ  và  quý  bạn đọc  cả  trong và  ngoài nước Việt Nam; kể cả  những học  giả  quốc  tế, nhất là  những người làm chính trị,  viết sử, hoặc  làm truyền thông, hãy tìm  một cái  tên thích hợp cho  bọn chúng, căn cứ qua hành động và  tư duy của  bọn chúng dùm,  vì  lịch sử  đã trải qua hơn 80 năm  rồi đấy.
5              Nên nhớ  rằng việc  cộng tác  cùng thực  dân Pháp  và  các thế lực  ngoại quốc khác như  Tàu Tưởng (Tưởng Giới Thạch)  để  tiêu diệt những cá  nhân và  tổ  chức  của  người Việt Nam không cùng lập trường làm  việt gian cho Nga Xô Viết của tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh trong lốt  ĐảngCộng Sản Đông Dương còn tiếp diễn cho đến sau khi Tàu Tưởng phải rút khỏi Việt Nam (1946)  Vì quân của Tưởng đã để  lại vũ khí  tước từ Phát Xít Nhật  giao cho tổ  chức việt gian Hồ Chí Minh và  thực dân Pháp, thì  không chỉ  tổ  chức việt gian Hồ  Chí Minh lùng bắt những người Việt Nam không  chấp nhận làm việt gian mà  còn  huấn luyện về  quân sự cho lực lượng vũ trang của  tập đoàn  việt gian Hồ Chí Minh, giúp chúng làm trọn vẹn hơn nữa  trong cái gọi là “tiêu thổ  kháng chiến”, để  chúng nhanh chóng hoàn thành bước đi của việt gian đầu tiên là “Vô Sản Hóa Toàn Dân”;  cùng  chúng phá  các Chùa, Đền, Thành Hoàng, Nhà Thờ, Đình Làng… Đó  là bước đầu xóa bỏ  truyền thống văn hóa, biết ơn tiền bối  đã có  công giữ nước và dựng nước; phá  bỏ  nền kiến trúc đặc  thù  của Việt Nam và  sinh  hoạt tâm linh, vốn là  một điều hết hết quan trọng  của người Việt Nam  trong giáo dục,  nếp sống  gia đình và  xã hội lành mạnh, đạo đức…
6              Từ  đó  cho thấy:
                a) Đào tận gốc, trốc  tận rễ  tầng lớp TRÍ trong xã hội không có nghĩa  là  giết chết  về  mặt thể  lý (thân xác) mà  thôi .  Vấn đề quan trọng nhất là  xóa  bỏ  nền tảng văn hóa  đặc thù  của  các  sắc dân anh em  sống  hoà  đồng trong Tổ Quốc việt Nam; thoái hóa  tầng lớp trí thức  thành trí  nô (hay trí thức ngựa  như Nhà  Báo Việt Thường đặt cho họ)* ,  chấp nhận sống  hèn, vô liêm sỉ,  run sợ  trước cường quyền  bạo lực; hoa mắt trước tiền tài, danh vọng (ảo).  Điều đặc  biệt cần quan tâm là  trong đầu óc họ  không còn khái niệm “Tổ Quốc và Dân Tộc”  họ  hành động  vô trách  nhiệm với các thế  hệ ông cha, với chính bản thân họ và  các  thế hệ nối tiếp.
Xin quý  bạn đọc  cứ  nhìn và  quan sát các hoạt động của tầng lớp trí thức  diễn ra  trong  ngoài Việt Nam, xem con số  hành xử  có  trí tuệ  và  đúng là tầng lớp  ưu tú của  đất nước  dân tộc  có  phải chỉ  là một con số hết sức khiêm nhường!!!

XIN ĐƯA RA ĐÂY  MỘT CHUYỆN CÓ THẬT 100%  ĐƯỢC  KỂ  LẠI QUA MỘT NHÂN CHỨNG HIỆN ĐANG CÒN SỐNG TẠI HẢI NGOẠI KỂ RẰNG,  CÁI NĂM  VIỆT GIAN HỒ CHÍ MINH VÀO HÀ NỘI  CƯỚP CHÍNH QUYỀN, THÌ  ĐÚNG NGÀY ĐẦU NĂM 1955, NGUỴ QUYỀN VGCS HÀ NỘI CHO TỔ  CHỨC MỘT CUỘC MEETING  ĐỂ TÊN VẨU PHẠM VĂN ĐỒNG ĐẾN CHÚC TẾT NGƯỜI HÀ NỘI, Ở  TRƯỚC CỬA NHÀ HÁT LỚN CỦA THÀNH PHỐ.  SAU KHI CHÚC  TẾT XONG, XEM NHƯ LÀ  PHI LỘ  CHO  BUỔI NÓI CHUYỆN, NHÂN DÂN HÀ NỘI CHÍNH THỐNG (KHÔNG KỂ BÈ LŨ VGCS  VÀ DÂN TỨ  XỨ  Ở  CÁC TỈNH KÉO VỀ)  PHẢI NÍN CƯỜI KHI  NGHE VIỆT GIAN PHẠM VĂN ĐỒNG “TOE  TOÉT MỘT CÁCH RẤT THẬT LÒNG”, ĐẠI Ý  ĐỒNG NÓI: “KHI ĐOÀN CHÚNG TÔI TỪ  GENEVE VỀ  LẠI VIỆT NAM QUA  NGẢ  MÚT CU (TỨC MẠC TƯ KHOA, NGA XÔ VIẾT), ĐẾN CHÀO ĐỒNG CHÍ  MALENCOV ( LÚC ĐÓ LÀ TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN BONSHEVIK NGA XÔ VIẾT) THÌ  ĐƯỢC  ĐỒNG CHÍ ẤY ÂN CẦN DẶN DÒ RẰNG, VIỆT NAM  CỦA CÁC ĐỒNG CHÍ  CHỈ CẦN SĂN HỔ VÀ  TRỒNG CHUỐI, TẤT  CẢ BÁN CHO LIÊN XÔ LÀ  TẤT CẢ NHÂN DÂN VIỆT NAM (PHÍA BẮC)  ĐỦ  ĂN, ĐỦ  MẶC  RỒI!!!”

Nói  đến đó Đồng vẩu tự  vỗ tay trước và  cười  mõm há  ra tới mang tai, trông rõ cả  mấy chiếc răng Hàm mạ vàng.  Thế  là Trần Duy Hưng, phó chủ tịch Uỷ Ban  Quân Quản Hà Nội lúc đó  rất  nhanh chóng  đứng dậy khô khẩu hiệu “Liên Bang Xô Viết, thành trì  cách mạng vô sản thế  giới  muôn năm” và  vân vân. 
Câu chuyện hài hước  đó,  ai ngờ  lại được  nguỵ quyền việt gian Hồ Chí Minh  nhanh chóng thực  hiện:
                Ủy Ban Nông Nghiệp trung ương được cho ra đời với Hoàng Anh, Ủy  viên Ban Bí Thư VGCS làm chủ  nhiệm  ủy ban.,  Hoàng Anh cho họp các chuyên viên về nông ngiệp, gồm các kỹ sư về nông nghiệp như Nghiêm Xuân Yêm; Thi Nô Cù Huy Cận (vì  tên này  cũng có  bằng kỹ sư nông nghiệp); Đoàn Trọng Truyến (kỹ sư nông nghiệp); tổng thư ký trường đại học nhân dân;  hiệu trưởng trường đại học kinh tế tài chánh;  chủ nhiệm ủy ban kinh tế - tài chánh của quốc hội VGCS…Ngoài những tên trên còn có  mặt tiến sĩ  Thái Văn Trừng, giáo  sư lưu dụng của  trường đại học Hà Nội, mà  cũng là  tác giả  quyển sách có tên “Về Hệ Thảm Thực Vật Ở Việt Nam” .
                 Với   tư cách Chủ Nhiệm Uỷ Ban Nông Nghiệp Trung Ương, Hoàng Anh phổ biến kế  hoạch thực  thi sáng kiến của hắn là  trồng chuối vào tất cả các đồi hoang  vùng Việt Bắc và Tây Bắc.
Cả  đám có  tên  ở  trên  đều  ngồi im không đứa nào dám mở  miệng  nói  được lấy  một câu kể cả  Thơ Nô  Cù  Huy Cân mà  Ngưu Ma Vương  Đặng Phúc Tuệ  gọi là “đại công thần của chế độ (nô lệ  đỏ)”.  Trong thâm tâm cả lũ nói  trên,  dù biết  rất  rõ ràng việc  đề  xướng của  thằng được gọi  là  Chủ Nhiệm Uỷ  Ban Nông Nông Nghiệp Trung Ương  Hoàng Anh,  là bất  khả  thi nếu  như không muốn nói là không tưởng.  Riêng  nhà trí thức Thái Văn Trừng có góp  ý  nhẹ nhàng  đại ý  là  bộ rễ của  cây chuối không thể thích nghi được trên đồi núi.  Vừa nghe  xong lời góp ý  nhẹ nhàng  Hoàng Anh chỉ mặt và  mắng  Giáo Sư Tiến Sĩ Thái Văn Trừng như tát nước
Kế hoạch trồng chuối của Hoành Anh trên đồi hoang vẫn cứ được tiến  hành, người dân, cán bộ, kể  cả  công an việt gian và ngụy quân việt gian cho đến cả  công nhân, nông dân, phải đi dân công (không lương,phải tự túc),  bị  bắt buộc  đi chồng chuối  để  bán cho Liên Xô…!!! Và khi chuối trồng đến đâu thì chỉ  sau vài ngày là  chuối… chết  hết đến  đó!
Chuyện kết thúc rất có hậu: Vì  chuối chết mà  chẳng ai bị khiển trách gì  cả.  Chỉ  có một chút thay đổi nhỏ  là Hoàng Anh thôi làm chủ nhiệm Uỷ Ban Nông Nghiệp Trung Ương  mà  lại lên chức sang làm Phó Thủ Tướng ngụy quyền Ba Đình, kiêm Bộ Trưởng Tài Chánh!!!
Tiến Sĩ Thái  Văn Trừng bị Hoàng Anh chửi như chửi chó  trong hội nghị  may mắn không bị  truy cứu  cái lý  lịch là “lưu dụng”, có lẽ nhờ  tác phẩm “Về  Hệ Thảm Thực Vật Ở  Việt Nam” của  ông được  Nga Xô chú  ý  tới,  và  qua  sứ  quán Nga Xô ở  Hà  Nội  trao cho ông bằng Tiến Sĩ  của  Nga Xô (không cần phải  qua Nga Xô nhận bằng)!!!
                Còn việc  săn  Hổ  theo gợi ý  của  Malencov với Phạm Văn Đồng cũng được  chấp hành nghiêm chỉnh.  Đó  là  thượng tướng ngụy quân VGCS là Chu Văn Tấn, Uỷ Viên Trung Ương VGCS; phó  chủ  tịch quốc hội việt gian; chủ tịch kiêm bí thư khu ủy  và  quân khu ủy khu tự trị Việt Bắc,  được  giao toàn quyền tổ  chức (độc  quyền săn hổ), có  cộng tác viên là  đại tá  ngụy quân VGCS  Hoàng Điền (cán bộ VGCS tập kết) giữ chức cục trưởng cục  kiểm tra lâm nghiệp!
Câu chuyện trồng chuối  như trên kết luận là  có  hậu, còn chuyện săn hổ  còn (hình như) có  hậu hơn  là  ở  chỗ sau đó  Chu Văn Tấn kiêm thêm chức “Trưởng Ban Bảo Vệ  Sức Khoẻ Cho Trung Ưong Đảng”  (VGCS),  nên  hắn  quản lý  luôn cả  các khu vực  trồng thuốc phiện. Sau này thuốc phiện còn được  dùng làm “vũ khí” để  đầu độc  xã hội Việt Nam Cộng Hòa  trong  cuộc  xâm lược toàn diện,  nghĩa  là  tha hóa  con người  để  dễ nô lệ đỏ  hoá.  Còn điều nữa  VGCS  còn dùng thuốc phiện bán lấy tiền của VNCH,  để  chi dùng cho các  hoạt động tình báo (giống như trò  gởi tiền cho thân nhân ở Việt Nam hiện nay),  khủng bố, nuôi dưỡng các  "phong trào" điển hình như  phong trào gìn giữ hoà  bình, dân chủ, du ca…  Hệt như hiện nay chúng dùng  qũy của NQ 36 nuôi  dưỡng các  đảng phái  ma trơi, chống cộng cuội, dân chủ cuội…
Trong quản lý  thuốc phiện, Chu Văn Tấn  còn quản lý  luôn cả  mật ong ở những vùng  trồng thuốc phiện, vì  ong đó  hút  từ  các nhụy hoa  thuốc phiện nên  mật ong  đó rất đặc  biệt cho việc cho việc  ngâm thai nhi  con so  làm thuốc “Trường Sinh – Kích Dục”  cho lũ Trung Ương  VGCS . Chẳng rõ hiệu qủa  khoa  học  ra sao, nhưng  trong thực tế  cho thấy  những tên được  gọi là  lãnh đạo  chóp bu của  tập đoàn VGCS  đều  sống dai như Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Anh, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vỉnh, Võ  Chí  Công, Hoàng Văn Hoan, Đỗ Mười, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn,  Phùng Thế Tài, Chu Huy Mân…, trường hợp Đỗ Mười gần 90 tuổi mà còn làm cho người hầu phình bụng!!!
b) Đào tận gốc, trốc tận rễ tất cả Trí, Phú, Địa, Hào, nên trong xã hội Việt Nam  dưới bàn tay việt gian cộng sản từ  Hồ Chí Minh  cho đến nay, chúng ta thấy:
                - Ở Bắc Việt Nam từ  1954, nghĩa  là  bắt đầu tập đoàn VGCS  Hồ Chí  Minh  được tạm quyền  quản lý Việt Nam  từ  vĩ tuyến 17 ra  phía  Bắc, mọi  hoạt động từ  công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp,  tài chánh, ngân hàng, lưu thông phân phối, tiểu thủ  công, giao thông vận tải cho đến  các phương tiện phục  vụ  dân sinh đều  nằm trọn trong tay tập đoàn  VGCS  Hồ  Chí Minh và  được  điều hành bằng bộ máy ngụy quyền thư lại của  VGCS  với phong cách “lãnh chúa tuyệt đối”, nghĩa  là  không theo công thức nào, không theo luật lệ nào, không theo văn bản pháp lý  nào.  Tất  cả tuỳ  theo ý thích cá nhân của tên VGCS đứng đầu những tổ  chức  đó, như  Bộ Trưởng, Chủ Nhiệm Ủy Ban,  Tổng cục trưởng,  tổng giám đốc của một công ty, chủ nhiệm hợp tác  xã mọi loại… Chính vì  thế  nên cái ngụy quyền VGCS đó  có  lúc có  tới 11 đứa  phó thủ tướng và  các bộ  tối thiểu  là  5 thứ trưởng; ở  cấp tổng cục, cục, vụ, viện, phòng, vân vân… cũng đều như thế  cả.
Bộ máy nhà  nước ngụy quyền VGCS  đã  cồng kềnh  lại thêm  sự chồng chéo  của tác tổ  chức ngoại vi của  tập đoàn VGCS.
Thí  dụ:   Chính phủ  ngụy quyền VGCS  có  các  bộ ngoại giao,  ngoại thương, nội thương, văn hóa, thông tin, giáo dục  vân vân… thì  ở  Trung Ương  đảng VGCS  cũng  có các ban  đối ngọai, ban kinh tế, ban tuyên huấn,  thông tin, giáo dục… để  hướng dẫn và  giám sát  các bộ trong cái gọi là  chính phủ  của ngụy quyền VGCS.   Đã thế, nó  còn rườm rà  tới mức  ngay  trong  phủ thủ tướng ngụy quyền VGCS  cũng có thêm các văn phòng như  Bộ Trưởng phủ  thủ tướng; bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng nội chính, theo dõi cả bộ  công an và  bộ nội vụ;  bộ trưởng chủ nghiệm văn phòng khoa  giáo,  theo dõi khoa  học  kỹ thuật …;  bộ trưởng văn phòng tài mậu,  theo dõi về vấn đề  tài chánh   và mậu dịch  vân vân…
Tổ chức một bộ máy quản lý  18 triệu dân (dân số Bắc Việt Nam trong những năm 1954-1960), mà nó cồng kềnh đến mức mỗi đoàn thể ngoại vi cũng đủ thứ ban bệ, cục, vụ,  vân vân… như tổng công đoàn có  trường đại học công đoàn học tập chung, cũng co đủ  ban từ tổ chức, giáo dục, thi đua, văn hóa quần chúng cho đến cả tờ báo  riêng là tờ Lao Động và có nhà xuất bản riêng là nhà  xuất bản Lao Động… ; Hội Phụ Nữ; Hội Liên Hiệp Sinh Viên; Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh;  Ủy Ban Thiếu Niên Nhi Đồng; Hội Nông Dân; Liên Hiệp Hợp Tác Xã Tiểu Thủ Công và Thủ Công; Hội Đồng Hòa Bình Thế Giới; các  Hội Hữu Nghị như  Việt-Xô, Việt -Đức,  Việt –Pháp, Việt –Hoa, Việt Nam – Cuba … cũng đều có  một đống nhân sự ngồi chơi sơi nước.  Tất  cả  các hội đoàn nói trên lại nằm trong  sự quản lý  của  cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.  Và, bộ  máy quản lý  của  Mặt Trận Tổ  Quốc  cũng có  đầy đủ  ban bệ, cục, vụ, phòng… hệt như một thứ  “chính phủ” nhỏ.  Nó  cũng có  một tờ  báo  riêng là tờ Cứu Quốc  và  quản lý mấy  tờ báo  khác  nữa  như Độc Lập của đảng Dân Chủ, Tổ Quốc của  đảng  Xã Hội; một tờ  của Hội Việt- Hoa và  một tờ  Chính Nghĩa  của  ban Tôn Giáo, và  vân vân…
            Trước  kia tầng lớp HÀO  là  những người quản lý về mặt hành chánh của toàn xã hội trước 1954, nay bị “đào tận gốc, trốc tận rễ”  nên bộ máy quản lý  xã hội của  tập đoàn VGCS  mới phình ra một cách phi thường  như vậy.  Cho nên Tập đoàn VGCS có  vẻ như nhận thấy  giai đoạn đó khi chúng phát động phong trào tinh giản bộ máy nhà  nước, giảm biên chế, chống tham ô lãng phí, bảo đảm 8 giờ lao động vàng ngọc; đẩy mạnh phong trào dám nghĩ  dám làm, phát huy sang kiến, tiết kiệm nguyên vật liệu sản phẩm, hạn chế thấp nhất sản phẩm sai quy cách… những phong trào nổ như  pháo tết nói trên  được quảng bá rầm rộ trên  các phương tiện truyền thong đại chúng như báo chí, đài phát thanh, loa phóng thanh...nhất là  cùng lúc việt gian Hồ Chí Minh ra lệnh xây dựng “con người mới xã hội chủ nghĩa”,  với phong trào tìm các điển hình: “người tốt việc tốt”,  “người thực  việc thực”. Các báo  đều có mục tuyên dương các điển hình đó và  cá nhân nào đó đã  được báo  chí tuyên dương sẽ nhận “huy hiệu bác hồ” (SIC),   và một tờ giấy khen  và  nhân vật đó  được xem như là  đã ló đầu, thoát  ra khỏi “đám quần chúng nô lệ đỏ” thầm lặng  để  bước   vào thẳng vào hàng ngũ“quan lại” ở cơ sở,  có  thể  được đi đào tạo hoặc ngay trong nước, hoặc gởi đi đào tạo ở những “nước bạn”. 
Chính cái “mục tiêu” tinh giản trong bộ máy nhà  nước  quá  phức tạp  đó  lại làm cho- bộ máy nhà nước  không những đã qúa  cồng kềnh-  còn phình to hơn  nữa. Vì, lại đẻ  ra đủ  các  ban bệ, cụm vụ… để  hướng dẫn các phong trào nói trên,  tự trong cái gọi là “chính phủ”, cho đến  các  ban ngành hành chánh, các bộ  từ cấp tỉnh thành huyện xã, tổ dân phố; và tất nhiên ở  các  ban ngành của  đảng VGCS  và  các tổ  chức ngoại vi nằm trong cái gọi là  Mặt Trận Tổ Quốc và  ngay chính trong  cái Mặt Trận Tổ  Quốc đó!!!
                Trước 1975, kẻ đầu tiên được  việt gian Hồ Chí Minh chỉ  định làm cái việc  đó trong toàn bộ hệ thống  quản lý của tập đoàn VGCS  là  Đỗ Mười.  Sauk hi làm xong cái việc “Đào tận Gốc, Trốc Tận Rễ” tầng lớp PHÚ  của  xã hội phía Bắc Việt Nam, Đỗ Mười và  phó  của  hắn là Khuất Duy Tiến  đều bị bệnh điên. Cả hai được Hồ  cho qua Tàu  Cộng bành trướng  chữa  trị.   Sau hai năm ở  bên Tàu,  bệnh của Đỗ Mười tạm ổn định,  Hồ  cho gọi về  và  trao cho chức vụ nói trên.  Còn Khuất Duy Tiến  bị điên cho đến chết.
                Từ cái trò hề  “xây dựng con người mới xã  hội chủ nghĩa” , “người tốt việc tốt” , “người thật việc thật” của Hồ  đưa ra, đã có  biết bao chuyện khó tin mà  có thật.  Xin đưa  vài thí  dụ để  chia sẻ  với quý  cụ và  quý bạn đọc  những âm mưu thâm độc  của tập đoàn việt gian cộng sản từ Hồ Chí Minh cho đến nay  và tai hại của nó  to lớn như thế nào đối với Dân Tộc  và   Tổ Quốc ra  sao cho mọi tầng lớp người dân trong  xã hội Việt Nam,  đến  mức   đại đa  số  đã và  đang tự nguyện thoái hóa  mình, thoái hoá  cái tầng lớp  mà mình muốn đạt tới.  Nói một cách khác  là người ta  đã vô thức tự nguyện “đào tận gốc, trốc tận rễ” bản thân và  giai tầng  xã hội mà  mình  là  một thành viên. 
Cái khẩu hiệu và mục tiêu hàng đầu khi Nga Xô Viết  là tuyển lựa nhân sự; huấn luyện cách gây nội chiến;  tổ chức  các phong trào yêu nước giả hiệu để  lôi cuốn người Quốc Gia yêu nước và tổ  chức xâm nhập theo lối minh cưu  vào các đảng phái yêu nước;  chu cấp tiền bạc và các  nhu cầu  cả khi còn hoạt động bí mật  lẫn công khai bằng cả hệ thống chính trị của Nga Xô Viết (sau đó có thêm sự trực tiếp lèo lái, chỉ  đạo và hỗ trợ của tàu Cộng đại hán bành trướng), và các chư hầu trong cái gọi là  phe “xã hội chủ nghĩa” chính là  việc  “Đào tận Gốc, Trốc Tận Rễ” các giai tầng “Trí Phú Địa Hào của Người Việt Nam”.  Vậy tại sao lại phải nhận định rằng từ  việc  quản lý bộ máy hành chánh  xã hội Việt Nam  qúa  cồng kềnh  khi vào tay tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh và  các phong trào như nêu trên lại có  khả năng tồn tại  cho đến tận ngày hôm nay (2013) này?
Chính Khí Việt  xin được chia sẻ  với  quý  bạn đọc nhằm giải thích câu hỏi nói trên như sau:

         A) VÌ LÀ MỘT TỔ  CHỨC  DO NGOẠI QUỐC (NƯỚC NGA XÔ VIẾT) TẠO RA  VÀ LÃNH ĐẠO MỌI HOẠT ĐỘNG  PHỤC  VỤ CHO CHIẾN LƯỢC  BÀNH TRƯỚNG CHỦ NGHĨA THỰC DÂN ĐỎ; SAU NÀY,  DO ĐIỀU KIỆN CÓ  CHUNG BIÊN GIỚI VỚI TÀU  VÀ  MỌI HOẠT  ĐỘNG ĐỀU NHỜ TÀU HUẤN LUYỆN, HỖ TRỢ, VIỆN TRỢ MỌI MẶT  CHO NÊN TẬP ĐOÀN VGCS HỒ CHÍ MINH CŨNG PHỤC  VỤ CHO TỤI TÀU KHỰA  ĐẠI HÁN BÀNH TRƯỚNG.  NÓI MỘT CÁCH KHÁC LÀ TẬP ĐOÀN VGCS  HỒ CHÍ MINH TỰ NGUYỆN HOẶC BẮT BUỘC  PHẢI TỰ NGUYỆN  LÀM VIỆT GIAN CHO CẢ NGA XÔ VIẾT (LÀ MẸ ĐẺ) VÀ TÀU KHỰA ĐẠI HÁN BÀNH TRƯỚNG (LÀ MẸ NUÔI) ĐỂ BIẾN NHÂN DÂN VÀ  ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM THÀNH THUỘC  ĐỊA ĐỎ  VÀ NÔ LỆ ĐỎ CHO CẢ NGA XÔ VIẾT LẪN TÀU CỘNG ĐẠI HÁN BÀNH TRƯỚNG. 




Cho nên cái khẩu hiệu hành động được ghi chép trên giấy trắng mực  đen  được chính thức ra mắt với cái  lốt “Đảng Cộng Sản Đông Dương”,  trong vụ gọi là “Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931”, tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh  cũng vẫn thực thi cái  khẩu hiệu đó  một cách rất trung thành, cho  đến tận ngày nay   Có  điều khác  với lúc ban đầu,  tức  thời  Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, là tập đoàn VGCS  vừa  bonshevik hóa toàn đảng (VGCS  Đông Dương)  và  bonshevik hóa toàn dân Việt Nam, thì  chúng cũng đồng thời Hán hóa đảng VGCS  của  chúng và  cũng vừa  hán hóa  toàn dân Việt Nam.  Nếu  tập đoàn VGCS Hồ Chí Minh có  hai chủ nhân  thì  người dân Việt Nam bị trị  phải chịu đeo ba cái ách  trong hệ thống cai trị của VGCS. Đó là: Nga Xô Viết, Tàu Cộng bành trướng và VGCS  Hồ Chí minh.  Dưới ba ách cai trị nêu trên, người dân Việt Nam chỉ còn là:  kiếp nô lệ như  trâu ngựa. 
Còn bè lũ cầm quyền và toàn thể  tập đoàn  VGCS Hồ Chí Minh thì  đấm đá  nhau chính vì  cái ách một cổ  hai tròng:  Đó là  mâu thuẫn giữa  tụi thờ Nga Xô Viết  và lũ thờ  Tàu cộng đại hán bành trướng.  Điển hình là  vụ án thường được gọi Ià  “xét lại chống đảng làm gián điệp” và  vụ chém giết nhau bằng súng đạn năm 1979 giữa VGCS  và  Tàu khựa đại hán bành trướng.
Vì vậy không thể  coi những tên  cộng sản Việt Nam  chết ở hai chiến trường phía Tây Nam  và Phía  Bắc  trong những năm 1979 và  những năm tiếp theo sau đó là các “Liệt Sĩ - Tử Sĩ”.  Vì  chúng là  binh nô cho Nga Xô đánh Tàu Cộng  bành trướng  do  mâu thuẫn tranh chấp MỘNG  làm bá  chủ thế giới  giữa  tụi thực dân đỏ với nhau  mà thôi.  Nạn nhân thực  sự chính là  người dân Việt Nam,  còn lại  là  những kẻ  không chịu mở  mắt để  chọn đường  đi  cho  mình, nhất là  cuộc chiến đó xảy ra  sau 1975.
Chỉ có Quân Nhân QLVNCH hy sinh sinh mạng để  bảo vệ Tổ Quốc mới  xứng đáng được cái danh dự mang cái danh xưng đó.  Bởi vì, các  vị đó mới thực sự hy sinh mình VÌ LỢI ÍCH CỦA TỔ QUỐC  và NHÂN DÂN  Việt Nam.  Không thể  lẫn lộn  để  xếp chung với nhau  trong danh xưng “Liệt Sĩ - Tử Sĩ”  được. (Như tên việt gian Bút Nô Đỏ Phan Nhật Nam  đã đồng hóa  cái  chết của  Quân Nhân QLVNCH điển hình như Thiếu Tá  Nguỵ Văn Thà  cùng với cái chết của  lũ binh nô đỏ  VGCS  và coi đó  đều là  vì Tổ Quốc là  hoàn toàn SAI LẦM).  Suốt bốn năm trời (từ  1975 đến 1979) lóa mắt và tự hào là  kẻ chiến thắng, ngụy quân CGCS  không hề  có một chút động tâm, một chút tỉnh ngộ khi chứng kiến cảnh  Quân- Cán – Chính VNCH  bị  đưa  toàn bộ đi tù khổ  sai để bị hành hạ vì  đói rét,  bệnh tật, bị làm nhục và  biết bao người đã phải chết một cách  khốn khổ như vậy! Gia  đình, nhà cửa, vợ con bị tan nát, cuộc  sống không bằng súc vật; bị phân biệt đối xử,  bị cưỡng bức  đi các nơi rừng sâu, núi hiểm  được gọi  bằng mỹ từ  “kinh tế mới”, một hình thức giết lần, giết mòn!!!
Cả nước Việt Nam Cộng Hòa bị lật nhào  các giá  trị nhân văn, truyền thống, lịch sử  nếp sống văn minh…từ thành thị  đến nông thôn và kể  cả  nhừng vùng thuộc cao nguyên Trung Phần trong các sắc tộc  anh em dân tộc thiểu số.
Cộng đồng các  sắc dân thiểu số  của VNCH bị  khủng bố, chia cắt bằng cắt  bằng các làng xã Việt Nam phía Bắc  được VGCS  tổ chức ồ  ạt kéo vào,  tàn phá, cướp ruộng cướp rẫy…
Một kiểu cách mạng  Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 với khẩu hiệu “Trí Phú Địa Hào, Đào tận gốc, trốc tận rễ” được tái hiện một cách tinh vi và thâm độc hơn nhiều lần.
Thanh Niên Nam Nữ của Việt Nam Cộng Hòa  bắt đầu bị tập đoàn VGCS  bắt  buộc phải vào hàng ngũ binh nô trong mỹ từ “trúng tuyển nghĩa vụ, làm nghĩa  vụ  quốc tế” nhưng thực ra chỉ là một thứ “lê dương”  cho Nga Xô Viết để  chúng tiến hành cuộc xâm lược Cam-Bốt, một chư hầu của Tàu Cộng bành trướng, kéo theo cuộc  chiến ở phía  Bắc  với Tàu cộng bành trướng là điều tất nhiên.
Xưa kia, Quân Lực VNCH  là lực lượng cốt yếu trong việc bảo vệ  Tổ Quốc và Người Dân Việt Nam; bảo vệ cuộc  sống an toàn cho mọi sinh hoạt xã hội từ  sản xuất đến văn hóa giáo  dục, khoa học, nghệ thuật, tín ngưỡng…  lực  lượng đó  đã là  cản lực mạnh nhất, nguy hiểm nhất  cho “sự nghiệp” làm việt gian  của tập đoàn cộng sản  Việt Nam, cho nên vì không thể  và  cũng không dám chém giết hết  lực lượng đó, nên chúng đã hành xử  như  đã thực thi thời kỳ trước 1975 ở  vĩ tuyến 17 trở ra phía Bắc.   Có nghĩa  là  chúng dùng đủ mọi phương pháp để thoái hóa cái lực lượng đó nhằm vô hiệu hóa  họ hoặc  sử dụng họ như  những thứ nô lệ tay sai trong mọi  bình diện sinh hoạt xã hội…
Ý  đồ đó của VGCS  không phải  là không có  chủ  điểm  của bọn chúng,  chúng  ta thử nhìn lại các thành phần HO ở hải ngoại hiện nay thì  sẽ thấy những loại đã đầu hàng trong nhà tù VGCS  như Vũ Ánh, Phan Nhật Nam, Nguyễn Tường Tâm, Phùng Ngọc  Sa  và  vân vân… thì  mới thấy hết được  những trò nham hiểm rất thâm độc  của  tập đoàn VGCS  trong việc “cải tạo” khiến cho một số những người nằm trong QLVNCH  cũng như Quân – Cán – Chính của VNCH  đã bị thoái hóa trở thành tay sai  gián tiếp hoặc  trực tiếp cho VGCS, hoặc  làm tất cả những điều  theo sự hướng dẫn của  cơ quan truyền thông mà VGCS  đã  gián tiếp hoặc trực tiếp mua chuộc  được.
b) Những nhận xét trên của Chính Khí Việt hoàn toàn là  sự thật  dựa vào tài liệu của  chính VGCS đưa ra mà ai ai cũng có thể tham khảo được,  và những ”người thật, việc thật”  cũng chính do báo chí  của tập đoàn VGCS  đăng tải hằng ngày.  Lẽ tất nhiên ai ai cũng có thể  tự do tra cứu dù ở trong hay ngoài nước Việt Nam.
                Xin phép lưu ý đến quý cụ và quý bạn đọc rằng:
-Chính trong quyển  ”Biên Niên Tiểu Sử Hồ Chí Minh do nhà  xuất bản chính trị quốc gia ở Hà Nội”   cho xuất bản năm 1993, thì Hồ  với tư cách chủ tịch của Chính Phủ Liên Hiệp ngày 06 tháng 01, 1946 đã ký sắc lệnh hợp nhất lực lượng vũ trang của các đảng phái trong Chính Phủ Liên Hiệp.
Lực lượng vũ trang hợp nhất đó được đặt tên là: “Quân Đội Quốc Gia Việt Nam”.  Sau đó trong lễ khai mạc  Lục Quân ở Sơn Tây, Hồ thay mặt chính phủ Liên Hiệp  tặng cờ cho trường Lục Quân  có thêu  tôn chỉ  của Quân Đội Quốc Gia là : TRUNG VỚI NƯỚC HIẾU VỚI DÂN.
Thế  nhưng khi Tàu Mao làm chủ lục địa năm 1949, thì Hồ  cũng nhân danh chủ tịch chính phủ Liên Hiệp, Hồ  cấp tốc luân phiên gởi các  đơn vị  Quân Đội Quốc Gia sang  Tàu Mao để được huấn luyện, trang bị và tổ chức lại theo  khuôn mẫu giống hệt quân lính Tàu cộng bành trướng, mà  điều quan trọng nhất là đã đưa Quân Đội  vào tay VGCS   để chúng  trực tiếp điều hành quản lý. Kể từ  đó, Hồ  cho đổi tên các lực lượng  vũ trang hợp nhất đó, sau  khi đã bị cưỡng bức “cộng sản hóa” (cải tạo)  trong quân trường của Tàu cộng, để trở thành cái gọi là  Quân Đội Nhân Dân (hay còn có tên bộ đội cụ Hồ).  Và tôn chỉ  ban đầu làTRUNG VỚI NƯỚC  HIẾU VỚI DÂN bị đổi thành TRUNG VỚI  ĐẢNG(VGCS), HIẾU VỚI DÂN, Nhiệm Vụ Nào Cũng  Hoàn Thành, Khó Khăn Nào Cũng Vượt Qua, Kẻ Thù Nào Cũng Đánh Thắng (tất nhiên là kẻ thù của đảng VGCS).
                Và từ  cái tôn chỉ  Trung Với Đảng được khẳng định rõ hơn trong cái tên bộ đội cụ Hồ, mà  cái thằng cụ Hồ  đó,  nó đã khẳng  định trong lá thư  năm 1928 gởi cho Quốc Tế III, tức  Bộ Thuộc Địa của Nga Xô Viết  (có in trong văn kiện Đảng  (VGCS)- Nhà  xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, in lần thứ I) rằng Đảng VGCS  của hắn là một bộ phận của Nga Xô Viết và  chỉ tuân theo mọi chỉ thị của Nga Xô Viết mà thôi.  Và từ khởi thuỷ  bằng việc tên đại việt gian Hồ Chí Minh (năm 1925) bán Nhà Ái Quốc  Phan Bội Châu và năm 1930, bán cuộc Khởi Nghĩa Yên Bái của  Đảng Trưởng VNQDĐ, Anh Hùng Nguyễn Thái Học… để  rồi qua  cái gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 chúng tiêu diệt mọi giai tầng xã hội Việt Nam với khẩu hiệu Trí, Phú, Địa, Hào- Đào Tận Gốc,Trốc Tận Rễ.
Tiếp theo đó toàn là  hành động buôn dân bán nước của  tập đoàn Hồ Chí Minh, từ  khi chúng cướp được  bộ máy nhà nước 1945  cho đến tận ngày hôm nay  .
Trong việc  vinh danh tên đại tướng ngụy quân VGCS Võ Nguyên Giáp,  Chính Khí Việt xin được  chia sẻ  cùng quý   bạn đọc rằng, cái  mà lũ sử nô của VGCS  không chỉ  rêu rao việc- mà  chúng còn cẩn thận ghi trong thông sử  và  các văn kiện chính thống của bọn chúng rằng, - chúng  đã “có công đánh Pháp,  đuổi Nhật”  để làm nên cái gọi là  “cách mạng tháng 8, 1945”.   
Sự  thật là thực dân Pháp đã bị Phát Xít Nhật làm cuộc đảo chánh trên cả Ba Nước Đông Dương.  Còn với Phát Xít Nhật lúc đó  đang nằm chờ quân đội đồng minh đến giải giới.  VÀ MỘT  SỰ THẬT KHÁC NỮA  LÀ:  nhân  việc tên đại việt gian Võ Nguyên Giáp chết, một kẻ thân cận với Giáp  trong những năm từ 1946 đến 1968 (sau đó  bị dính vào vụ án xét lại chống đảng), là Lê Trọng Nghĩa (92 tuổi), nguyên đại tá cục trưởng tình báo và  quân báo của ngụy quân VGCS  đã tiết lộ một bí mật.
Đó là  năm 1945, tên việt gian Võ Nguyên Giáp đã ra lệnh cho Giải Phóng Quân (VGCS) ngưng tấn công quân Phát Xít Nhật  và “TRỰC TIẾP GIAO HẢO  với quân  Quân Đội Nhật” (SIC), “nhờ đó Giải Phóng Quân VGCS vào  chiếm lĩnh Hà Nội” (SIC).  (Tài Liệu lấy từ bài “Tướng Giáp qua góc nhìn của nhà tình báo” VN Express, ngày 11 Tháng 10, 2013) (Tướng Giáp qua góc nhìn của nhà tình báo - VnExpress)
                Vậy là, lực lượng vũ trang của VGCS không có chuyện “đuổi Nhật” mà là  “GIAO HẢO VỚI NHẬT”  đem quân vào “CHIẾM LĨNH  HÀ NỘI”  (SIC).  Đó là bằng chứng VGCS tự nguyện khai ra là chúng đã bắt tay với Nhật  để CƯỚP bộ máy nhà nước  của nhân dân Việt Nam trong tay những người theo tôn chỉ “QUỐC GIA – DÂN TỘC , “chứ không Vô Tổ Quốc” như chúng. 
  


8. Những tóm tắt  sơ lược  nói  trên cho ta  cơ sở hợp lý để kết luận  về  sự cồng kềnh, chồng chéo,  dẵm chân lên nhau  trong bộ máy  quản lý của tập đoàn VGCS  áp  đặt lên mọi tầng lớp người dân Việt Nam trong mọi sinh hoạt xã hội: Từ sản xuất đến  lưu thông hàng hóa;  từ hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch đến hệ thống truyền thông báo chí; từ sinh hoạt tôn giáo, tâm linh đến giáo  dục  đào tạo; từ cơ sở truyền thống vật thể đến phi vật thể; từ an ninh quốc phòng đến  việc  đoàn ngũ hóa người dân trong các tổ chức  hội đoàn, đoàn thể  nhằm mục đích quản lý mọi hoạt động  sinh hoạt và  định hướng  mọi  hoạt động  sinh hoạt  của mọi tầng lớp thành phần xã hội  người Việt nói chung, đặc biệt người  Việt Tỵ Nạn VGCS  ở hải ngoại.  Cụ thể là cái cơ quan có tên là “Đảng Uỷ Cộng Sản Việt Nam  ở Nước Ngoài”  và “Uỷ Ban Người Việt Ở Nước Ngoài”. Cùng song song hoạt động với  toà lãnh sự, tổng lãnh sự và  Toà  Đại Sứ của VGCS  nước ngoài. 
Chúng ta  cũng cần nhớ rằng lực lượng ngụy quân VGCS ở các cấp và  cái gọi là “công an nhân dân” cùng với cái gọi là “An Ninh Quốc Phòng, trật tự  trị an nhân dân”  mà VGCS  từng “ưu ái” trao nhiệm vụ  cho chúng là:
a)      Lính là  do đảng VGCS độc quyền quản lý, trực tiếp chỉ huy, lãnh đạo, có nhiệm vụ hàng  đầu là “BẢO VỆ ĐẢNG”  (VGCS);
b)      Công An là thanh kiếm”  của đảng VGCS , nghĩa là chủ  yếu để chém giết  người dân bị trị (vì VGCS  coi  nhân dân  là  kẻ thù như hình với bóng của  chúng);
c)       An Ninh nhân dân  là một thứ lính và công an VGCS  không mặc sắc phục nằm trong mọi đoàn thể  tổ chức  của người dân  mà  VGCS  đã  đoàn ngũ hóa, từ  thiếu nhi  cho đến phụ lão; từ  cán bộ hưu trí  cho đến  cựu chiến binh;  từ các  hội nhà văn  cho đến  các tổ chức tôn giáo… kể cả các loại băng đảng  chứa điếm,  mở  sòng bạc, trộm cướp, buôn bán ma tuý,  đòi nợ thuê, giết mướn … thậm chí  chúng còn nằm trong cả  những nhóm dân chủ  cuội,  phản tỉnh cuội, các phong trào chống cộng cuội cả trong và ngoài nước… như  Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Thanh Giang,  Nguyễn Văn Đài, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh...  Một số khác thì công khai kêu gọi   khai rõ tên tuổi, địa  chỉ, nghề nghiệp, số điện thoại vân vân.. như  8406; Thăng Tiến;  và  đặc  biệt  là  nhóm mạo danh Phật trong danh xưng GHPGVNTN do  Ngưu Ma Vương Quảng Độ aka Đặng Phúc Tuệ (đã chết) cầm đầu.
Qua  sự trình bày của Chính Khí Việt  bên trên cho phép  CKV  kết luận rằng:
Để tự vệ trước những đòn sấm sét  của người dân bị trị Việt Nam và  vẫn có thể tiếp tục làm tròn  nhiệm vụ việt gian cho các mẫu quốc và  các  tập đoàn tài phiệt quốc tế, cho nên tập đoàn VGCS đã thực thi và  tiếp tục thực thi  xây dựng một bộ máy ngụy quyền cồng kềnh.  Bởi vỉ  đó là đường lối  mà  cũng là biện pháp để các tổ chức của chúng giám  sát lẫn nhau,  ngăn chặn sự thâm nhập  của các thành phần  không phải là  VGCS  tự nguyện (tức thế lực thù địch  với tội việt gian của tập đoàn cộng sản Việt Nam).
Nhưng việc mở  rộng bộ máy ngụy quyền cũng là  một cách thỏa hiệp chia  tiền và  quyền giữa các thế lực  phe nhóm làm việt gian cho các mẫu quốc  và  các  thế lực tài phiệt quốc tế Sự cồng kềnh, chồng chéo  đó của  các tổ  chức có nhiệm vụ khống chế lẫn nhau lại sẽ là những kẽ hở tốt nhất để  người dân bị trị Việt Nam có thể  tận dụng  những mối nối không bền vững đó để triệt tiêu chúng bằng tất cả  sự  sáng tạo mà  chỉ  có  người dân  bị trị  mới có thể  nhận ra được
Muốn làm được những việc nói trên, tất cả những người  Việt Nam yêu nước cần phải đoàn kết để thực hiện việc lấy lại quyền  làm chủ và quản lý  đât nước  từ tay lũ việt gian cộng sản, sử dụng bộ máy nhà nước  đó vào việc xây dựng một TỔ QUỐC VIỆT NAM thực  sự có độc lập và các sắc dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam  phải  thực  sự có tự do  trong mọi hoạt động của  mọi sinh hoạt  đặc thù của mình trong  cộng đồng dân tộc VIỆT NAM,  cả  về vật chất lẫn PHI VẬT CHẤT
Có như vậy chúng ta mới nối chí trong tinh thần TRI ÂN đối với vị lãnh tụ Anh Minh Ngô Đình Diệm trong tôn chỉ mà Người đã đề ra, đó là TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM.
(Kết thúc 2 tháng với 61 bài Tưởng Niệm Húy Nhật Lần 59 Tổng Thống Anh Minh
Ngô Đình Diệm)
Chính Khí Việt (Joseph. l. Pham)
Ngày 30 Tháng 11 năm 2022.


 3. TÍNH ƯU VIỆT CỦA NỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HOÀ

 
-
 -oalt
 
Saigon 1960 - Nữ sinh Trưng Vương diễn hành trong ngày Phụ Nữ http://namrom64.blogspot.com/2013/06/hinh-xua-ngay-phu-nu-3031960-tai-sai.html

1/ Nếu so sánh các bộ máy cầm quyền ở cả Nam và Bắc Việt Nam từ 1945 cho đến nay, thì dù có mù cũng không thể nào phủ nhận được nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là duy nhất phục vụ cho Nhân Dân và Tổ Quốc Việt NamLần đầu tiên những mầm mống dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, tự do tôn giáo, y tế toàn dân, giáo dục toàn dân theo tinh thần bảo tồn truyền thống trên cơ sở tiếp thu sự hiện đại của nền văn minh thế giới một cách có chọn lọc. Tự do tư tưởng cả trong học thuật, văn hoá, văn học, nghệ thuật…  Những thành tích Việt Nam Hoá xã hội vốn còn đầy rác rưởi của thực dân Pháp, của suy thoái cuối đời Nhà Nguyễn, vốn thực chất là công cụ của thực dân Pháp.

Vấn đề quốc phòng cũng đã thực sự được quan tâm như xây dựng Trường Võ Bị Đà Lạt. Quân Đội được chính quy hoá theo hướng hiện đại và được xác định mục tiêu cao cả và duy nhất là “TỔ QUỐC – DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM”, hoàn toàn khác biệt với nguỵ quân VGCS là “TRUNG VỚI ĐẢNG” (VGCS).  Nghĩa là nguỵ quân VGCS không có nhiệm vụ bảo vệ Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam!
 
Về kinh tế đã thực hiện hữu sản hoá tất cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam.  Đã bước đầu hạn chế một số ngành nghề đối với người mang quốc tịch nước ngoài, hạn chế sự lũng đoạn nền kinh tế của Việt Nam.

Nói chung mục tiêu đề ra cho mọi hoạt động xã hội trên mọi lãnh vực  của chính trị là bảo đảm cho Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam giữ được độc lập thực sự, có tự do thực sự, đang xây dựng công bằng thực sự trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại, từ đó bảo đảm cho một Việt Nam hội nhập với thế giới trong tư thế bình đẳng, cùng có lợi chứ không phải là tay sai, tà lọt như tập đoàn VGCS từ thời tên đại tội đồ Hồ Chí Minh cho đến nay là bè lũ hậu duệ của hắn!
 
2/ CHÚ Ý:  Nhưng có một điều quan trọng nhất là Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà được Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã COI TRỌNG SINH MẠNG VÀ TRÍ TUỆ CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM.  Không chỉ vì tinh thần Nhân Vị mà còn hiểu sâu sắc rằng nếu Việt Nam không có những người Việt Nam và Trí Tuệ Việt Nam thì đất nước, biển đảo, núi rừng của Việt Nam có cũng như không, sẽ tồn tại trong mọi biến tướng của chủ nghĩa thực dân như một thứ nô lệ đời này qua đời khác!
alt
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra Bản tuyên cáo vào ngày 17 tháng 4 năm 1963 mở đầu chiến dịch Chiêu hồi.
 
ĐÓ LÀ CHÍNH SÁCH CHIÊU HỒI. Phải có lòng tin vào Nhân Dân, phải có trách nhiệm với Tổ Quốc Việt Nam, không chỉ đối với Tổ Tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước bằng trí tuệ, xương máu, hạnh phúc cá nhân của nhiều đời, mà còn thấy trách nhiệm với những thế hệ tương lai của Việt Nam.
Nếu như tập đoàn Việt Gian Cộng Sản tận diệt bốn tầng lớp rường cột của Việt Nam ngay từ khi cái tổ chức việt gian của chúng được Nga Xô cho ra đời năm 1930.  Và từ đó chưa bao giờ chúng ngưng nghỉ cái tội ác với ngàn thế hệ Tiền Bối  và  các thế hệ tương lai cho đến khi chúng bị tiêu diệt, thì hệ quả tội việt gian bán nước buôn dân của chúng vẫn để lại nhiều gánh nặng cho nhiều thế hệ phải quét sạch lại ngôi nhà Tổ Quốc Việt Nam,  hàn gắn lại những vết thương chia rẽ trong nhân dân Việt Nam và lấy lại niềm tin của Cộng Đồng Quốc Tế để trở thành những đối tác bình đẳng chứ không phải sự “tôn trọng, bình đẳng” giả tạo của lũ con buôn chính trị và niềm tin bị  hạn chế trong mối quan hệ CHỦ - TỚ như hiện nay tập đoàn VGCS đối với các cái gọi là “đối tác” của chúng!?
Dưới Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà, những người bị lầm đường lạc lối đã theo VGCS làm Cán Nô - Binh Nô cho tập đoàn VGCS, tay sai của Nga Xô và Tàu Mao xâm lược Việt Nam đã được giúp đỡ để hiểu rõ đúng sai, được cho tiếp tục đi học và đi thi (ngay tên Lê Hiếu Đằng, lúc sắp chết cũng phải công khai thừa nhận điều này), được cho học nghề, được ưu đãi kiếm việc làm để tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, đó là trách nhiệm chung và cũng là tài sản chung của người Việt Nam.  Và, nên nhớ rằng ngay những kẻ ám sát và làm phản mà Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm cũng vẫn cho xử công bằng theo Pháp Luật.
 
3/ Trong khi đó tập đoàn VGCS từ Hồ Chí Minh cho đến lũ hiện nay đã giết một cách tàn bạo những người yêu nước, đã có công đóng góp rất lớn cho sự thành công của chúng. Thí dụ như tử hình bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long), tử hình kỹ sư Đào Đình Quang (bố vợ của tên VGCS Nguyễn Khánh Toàn); tịch thu tài sản của Trịnh Văn Bô (chủ ngôi nhà mà đại Việt Gian Cộng Sản Hồ Chí Minh ngồi cùng Patty, tình báo Mỹ và Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám, để soạn cái gọi là Tuyên Ngôn Độc Lập mùng 2 tháng 9, 1945)!!!  Cũng như những nhà tư sản khác đã góp tiền của, làm kinh tài cho tập đoàn VGCS như chủ nhân hãng Đồng Tháp, Phú Gia, Vạn Lợi, Tân Vinh, Phát Đạt, Cự Vương, Cự Phát, Cự Đà, Điện Cơ, Vạn Vân, Hồng Khê, Vũ Đỗ Long, Vũ Đỗ Thìn, Đức Minh,...  cho đến lưỡng khoa tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, đã cúng cho tập đoàn VGCS từ 1944 ngôi villa ở đường Nguyễn Cảnh Chân Hà Nội, sau này làm nơi tiếp dân oan!
 
4/ Ngay cái điều mà Việt Gian Cộng Sản cùng tay sai và lũ trí thức ngựa ngoại quốc toa rập bịa đặt để tìm cớ ám sát Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm và những người cộng tác thân cận, rằng  Nền Đệ Nhất VNCH kỳ thị và đàn áp tôn giáo, tức lũ VGCS Ấn Quang trong băng Việt Gian Cộng Sản đó có cả tên ma tăng Việt Gian Cộng Sản tội đồ Quảng Độ aka Đặng Phúc Tuệ, mà nay hắn vẫn còn đang tiếp tục hoạt động, phục vụ cho quyền lợi ích kỷ của lũ VGCS và các ông bà chủ của chúng!
Như tập đoàn Việt Gian Cộng Sản  vẫn tuyên truyền rằng (cho đến tận nay) bộ máy  đàn áp, cảnh sát,  an ninh của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà là khát máu, lùng sục hãm hại “những người yêu nước” (?), vậy sao lũ Việt Gian Cộng Sản  đầu trọc Ấn Quang không bị phát hiện, tù đày tra tấn.  Điều đó chứng minh rằng vì chúng núp trong tổ chức của Phật Giáo nên chúng được tự do hoạt động, phát triển gần như tuyệt đối, đến mức chúng sử dụng nơi chúng tu hành giả, làm nơi ẩn náu và chôn cất vũ khí của Việt Gian Cộng Sản  rất an toàn Vì Sao?  Vì  nếu Nền Đệ Nhất VNCH lùng sục và khám xét các chùa, kỳ thị theo dõi các tăng ni, phật tử như chúng đặt điều  bịa chuyện thì làm sao chúng lại có thể cộng tác với các lũ phản tướng và ngoại bang để hãm hại, lật đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà.  Chính Phái đoàn Phật Giáo Quốc Tế đến tận nơi điều tra cũng không thể tìm ra bằng cớ về những sự bịa đặt nhà nghề đó của Việt Gian Cộng Sản thông qua lũ ma tăng Ấn Quang!?

GIẢI QUYẾT CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC

Chiến tranh trên đất nước Việt Nam nổ ra từ 1945 và vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay.  Sự thật là Nhân Dân Việt Nam vẫn chưa được sống trong Hoà Bình, Độc Lập, Tự Do.  Móng vuốt của chủ nghĩa thực dân các mầu sắc khi thì cắm sâu móng nhọn, khi thì vờn trên thân xác Tổ Quốc và các tầng lớp Nhân Dân Việt Nam.  Máu xương, nhân phẩm, trí tuệ và tài nguyên của nhân dân Việt Nam vẫn bị  chảy ra khỏi đất nước Việt Nam!
Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ với vụ ám sát một cách lưu manh Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm chính là vì  nhiều đảng phái, hội đoàn trên cả Nam và Bắc Việt Nam  đã đặt quyền lợi đảng phái lên trên quyền lợi của Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam.  Những người lãnh đạo của các đảng phái, hội đoàn đó đều có điểm chung là chỉ muốn được ngoại bang  sử dụng, giúp họ được ngồi vào cái ghế chủ nhân Tổ Quốc Việt Nam hệt như hiện nay vậy.  Họ chưa bao giời rút ra được các bài học lịch sử từ xa xưa cho đến sau Thế Chiến Lần Thứ 2!
Họ chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề tự lực cánh sinh là chính và việc cầu ngoại viện chỉ nên ở cái mức cần thiết trong một lãnh vực nào đó mà vẫn giữ được chủ quyền của mình Và, đừng bao giờ hy vọng tìm sự giúp đỡ không lấy lãi của các ngân hàng!
Chính vì thế mà cho đến tận hiện nay những trí nô, sử nô, bút nô của ngoại quốc trong cả ba phe, là  đã hoặc đang còn là cộng sản; là phe thế giới tự do (nhưng lại là tự do một chiều, vì chỉ thích xía vào chuyện nước khác);  Và phe thứ 3 là phe những nước đang chỗi dậy.  Loại trừ sử nô và bút nô Việt Gian Cộng Sản,  thì một lực lượng quan trọng nữa là lũ trí thức ngựa gốc Việt ở nước ngoài, đều có chung một cách nhìn về sự thật cuộc chiến ở Việt Nam.
Họ dẫn giải cuộc chiến đó là:
1/Chiến Tranh Quốc - Cộng.
Cái nội dung này của họ là muốn diễn giải rằng, cuộc chiến giữa những người “Quốc Gia” ở Phía Nam với tập đoàn Cộng Sản Việt Nam ở Phía Bắc, sau Hiệp Định Geneve 1954 Về Việt Nam.
Cách diễn giải như vậy là thiếu thông tin hoặc thiếu lương thiện của những người được coi là trí thức nói chung và sử gia nói riêng.
a)      Đối với Việt Nam, nếu nói đến chiến tranh “Quốc -Cộng”  thì tối thiểu cũng phải biết  điểm lại tình hình Việt Nam từ khi bắt đầu có sự xuất hiện chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930.
Trước khi ra đời chính thức cho đến khi ra đời, tập đoàn cộng sản Việt Nam  đặt mục tiêu hàng đầu, vừa bằng hành động cụ thể, vừa đưa vào cương lĩnh chính trị của chúng là phải tiêu diệt không chỉ các đảng, phái, hội đoàn “Quốc Gia” mà ngay cả đến khái niệm “Quốc Gia”!
Do đó tên đại tội đồ Hồ Chí Minh đã BÁN Cụ Phan Bội Châu cho mật thám thực dân Pháp và cài người để CƯỚP tổ chức của Cụ Phan.  Đó là BÁN cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái của anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học.  Đó là việc thực thi vụ Đào Tận Gốc - Trốc tận Rễ bốn tầng lớp rường cột của Quốc Gia Việt Nam, là Trí Phú Địa Hào trong vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931!   Bắt đầu thực thi kế hoạch xâm nhập vào tổ chức Phật Giáo, biến tổ chức đó thành công cụ đắc lực của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản. 
Với lá thư của tên đại tội đồ Hồ Chí Minh gởi cho Nga Xô thừa nhận tổ chức cộng sản Việt Nam là một chi bộ của Nga Xô, chỉ tuân lệnh Nga Xô và hứa sẽ bolsevik hoá toàn đảng cộng sản Việt Nam để tiến tới bolsevik hóa toàn dân Việt Nam, đã đủ chứng minh rằng Đảng cộng sản Việt Nam là một công cụ  của Nga Xô trong âm mưu XÂM LƯỢC toàn Đông Dương.  Nghĩa là cái Đảng cộng sản Việt Nam đó  là một TẬP ĐOÀN VIỆT GIAN.
Như thế có nghĩa là ngay từ 1930, Nga Xô thông qua tập đoàn Việt Gian Cộng sản để XÂM LƯỢC Việt Nam, âm thầm trong chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung.
b)      Diễn biến lịch sử của những năm 1945 cho đến 1954, cũng cần phải thấy đó là sự tiếp diễn của cuộc chiến XÂM LƯỢC VIỆT NAM của Nga Xô có thêm sự tham gia của Tàu bành trướng.
Vì thế tập đoàn Việt Gian Cộng Sản mới CƯỚP  quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim bằng việc chúng công khai thừa nhận là CÁCH MẠNG THÁNG 8 1945!
Một số đảng phái gọi là “Quốc Gia”  do thiếu thông tin, ấu trĩ về chính trị, vô trách nhiệm với Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam không thấy rằng  cái gọi là “Cách Mạng Tháng 8” đó chính là sự công khai hóa cuộc chiến XÂM LƯỢC VIỆT NAM  thông qua công cụ Việt Gian Cộng Sản từ chiến thuật nằm vùng, hoạt động âm thầm đã nắm bắt thời cơ cùng sự mê muội của các đảng phái đó để  cướp lấy bộ máy nhà nước của Quốc Gia Việt Nam.
c)       Ngay sau khi được sự tiếp tay một cách chân thành của mấy lãnh đạo của các đảng phái gọi là “Quốc Gia” đó, tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nhanh chóng cho ra đời một lô các đảng phái, hội đoàn“mặc áo Quốc Gia” mà vô thức gõ thanh la cầm cờ ma quỷ như các đảng Dân Chủ Việt Nam; Đảng Xã Hội Việt Nam; Nhi Đồng Cứu Quốc; Thanh Niên Cưú Quốc; Phụ Nữ Cứu Quốc; Phụ Lão Cứu Quốc; Công Nhân Cứu Quốc; Nông Dân Cứu Quốc… và đặc biệt là Phật Giáo Cứu Quốc!!!
Có thể nói là những tên Vũ Hồng Khanh. Nguyễn Tường Tam, Tạ Quang Bửu, Trần Huy Liệu (thời kỳ đó ít ai biết rằng tên này đã bỏ Việt Nam Quốc Dân Đảng để theo  Tập đoàn Việt Gian Cộng Sản), Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm Sai Đại Thần Phan Kế Toại, Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường, Học Giả Nguyễn Văn Tố, Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm; GS Bác Sĩ Hồ Đắc Di, Huynh trưởng Hướng Đạo Hoàng Đạo Thuý, các Giáo Sư như Trịnh Thục Viên, Phan Thị An, Đoàn Phú Tứ, Cù Huy Cận, Bác Sĩ  Vũ Văn Cẩn, Kỹ Sư  Nguyễn Xiển, Kỹ Sư  Nghiêm Xuân Yêm, Đỗ Đức Dục, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thái Mai, Trương Tửu (còn có tên là Nguyễn Bách Khoa) Nữ Sĩ Hằng Phương, các Tri Phủ Dương Văn Đàm, con trai  cả Thượng Thư Dương Văn Am, Tạ Quang Đạm… kẻ  nọ nhìn người kia tham gia vào  một tổ chức việt gian một cách mù quáng kể cả Bảo Đại và Huỳnh Thúc Kháng đã từng bị VGCS  kết tội là “việt gian” ghi trong cương lĩnh chính trị  Đại Hội 1 của chúng tại Macao năm 1935.
Chỉ có Một Ngưởi Duy Nhất Không Tham Gia dù được tên đại việt gian cộng sản Hồ Chí Minhtrân trọng mời. Đó là Lãnh Tụ NGÔ ĐÌNH DIỆM của nhân dân Việt Nam!  Vì Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm biết rằng đằng sau những khẩu hiệu nổ như bắp rang đó nào là “cứu quốc”, nào là “đoàn kết”  là một tập đoàn dao búa, đâm thuê chém mướn cho giặc xâm lược đỏ đang ra mặt tranh nô lệ Việt Nam với thực dân Pháp!!!
Và cũng chỉ có Người Duy Nhất Là Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm của Việt Nam mới nhận thức được sâu sắc rằng Quốc Gia Việt Nam phải tự mình gánh trọng trách trong cuộc CHỐNG XÂM LƯỢC. Đảng Cộng sản Việt Nam và mạng lưới tay sai  chỉ là công cụ XÂM LƯỢC TRỰC TIẾP QUỐC GIA VIỆT NAM với các loại áo khoác, mặt nạ trá hình để che giấu căn cốt VIỆT GIAN  mà thôi.  Đó chính là xuất phát điểm sự ra đời các Ấp Chiến Lược, Ấp Dân Sinh, Khu Trù Mật… và Chính sách Chiêu Hồi để tẩy rửa nọc độc Viêt Gian Cộng Sản cho những Hồi Chánh Viên trở lại là một người Việt Nam chân chính.  Đấy là  một biểu hiện của việc ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN VIỆT NAM CHỐNG XÂM LƯỢC.

Chiến tranh trên đất nước Việt Nam nổ ra từ 1945 và vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Sự thật là Nhân Dân Việt Nam vẫn chưa được sống trong Hoà Bình, Độc Lập, Tự Do. Móng vuốt của chủ nghĩa thực dân các mầu sắc khi thì cắm sâu móng nhọn, khi thì vờn trên thân xác Tổ Quốc và các tầng lớp Nhân Dân Việt Nam. Máu xương, nhân phẩm, trí tuệ và tài nguyên của nhân dân Việt Nam vẫn bị chảy ra khỏi đất nước Việt Nam! Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ với vụ ám sát một cách lưu manh Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm chính là vì nhiều đảng phái, hội đoàn trên cả Nam và Bắc Việt Nam đã đặt quyền lợi đảng phái lên trên quyền lợi của Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam. Những người lãnh đạo của các đảng phái, hội đoàn đó đều có điểm chung là chỉ muốn được ngoại bang sử dụng, giúp họ được ngồi vào cái ghế chủ nhân và Tổ Quốc Việt Nam hệt như hiện nay vậy. Họ chưa bao giời rút ra được các bài học lịch sử từ xa xưa cho đến sau Thế Chiến Lần Thứ 2! Họ chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề tự lực cánh sinh là chính và việc cầu ngoại viện chỉ nên ở cái mức cần thiết trong một lãnh vực nào đó mà vẫn giữ được chủ quyền của mình. Và, đừng bao giờ hy vọng tìm sự giúp đỡ không lấy lãi của các ngân hàng! Chính vì thế mà cho đến tận hiện nay những trí nô, sử nô, bút nô của ngoại quốc trong cả ba phe, là đã hoặc đang còn là cộng sản; là phe thế giới tự do (nhưng lại là tự do một chiều, vì chỉ thích xía vào chuyện nước khác); Và phe thứ 3 là phe những nước đang chỗi dậy. Loại trừ sử nô và bút nô Việt Gian Cộng Sản, thì một lực lượng quan trọng nữa là lũ trí thức ngựa gốc Việt ở nước ngoài, đều có chung một cách nhìn về sự thật cuộc chiến ở Việt Nam. Họ dẫn giải cuộc chiến đó là: 

1/Chiến Tranh Quốc - Cộng. Cái nội dung này của họ là muốn diễn giải rằng, cuộc chiến giữa những người “Quốc Gia” ở Phía Nam với tập đoàn Cộng Sản Việt Nam ở Phía Bắc, sau Hiệp Định Geneve 1954 Về Việt Nam. Cách diễn giải như vậy là thiếu thông tin hoặc thiếu lương thiện của những người được coi là trí thức nói chung và sử gia nói riêng. 

a) Đối với Việt Nam, nếu nói đến chiến tranh “Quốc -Cộng” thì tối thiểu cũng phải biết điểm lại tình hình Việt Nam từ khi bắt đầu có sự xuất hiện chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Trước khi ra đời chính thức cho đến khi ra đời, tập đoàn cộng sản Việt Nam đặt mục tiêu hàng đầu, vừa bằng hành động cụ thể, vừa đưa vào cương lĩnh chính trị của chúng là phải tiêu diệt không chỉ các đảng, phái, hội đoàn “Quốc Gia” mà ngay cả đến khái niệm “Quốc Gia”! Do đó tên đại tội đồ Hồ Chí Minh đã BÁN Cụ Phan Bội Châu cho mật thám thực dân Pháp và cài người để CƯỚP tổ chức của Cụ Phan. Đó là BÁN cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái của anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học. Đó là việc thực thi vụ Đào Tận Gốc - Trốc tận Rễ bốn tầng lớp rường cột của Quốc Gia Việt Nam, là Trí Phú Địa Hào trong vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931! Bắt đầu thực thi kế hoạch xâm nhập vào tổ chức Phật Giáo, biến tổ chức đó thành công cụ đắc lực của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản. Với lá thư của tên đại tội đồ Hồ Chí Minh gởi cho Nga Xô thừa nhận tổ chức cộng sản Việt Nam là một chi bộ của Nga Xô, chỉ tuân lệnh Nga Xô và hứa sẽ bolsevik hoá toàn đảng cộng sản Việt Nam để tiến tới bolsevik hóa toàn dân Việt Nam, đã đủ chứng minh rằng Đảng cộng sản Việt Nam là một công cụ của Nga Xô trong âm mưu XÂM LƯỢC toàn Đông Dương. Nghĩa là cái Đảng cộng sản Việt Nam đó là một TẬP ĐOÀN VIỆT GIAN. Như thế có nghĩa là ngay từ 1930, Nga Xô thông qua tập đoàn Việt Gian Cộng sản để XÂM LƯỢC Việt Nam, âm thầm trong chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung. 

b) Diễn biến lịch sử của những năm 1945 cho đến 1954, cũng cần phải thấy đó là sự tiếp diễn của cuộc chiến XÂM LƯỢC VIỆT NAM của Nga Xô có thêm sự tham gia của Tàu bành trướng. Vì thế tập đoàn Việt Gian Cộng Sản mới CƯỚP quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim bằng việc chúng công khai thừa nhận là CÁCH MẠNG THÁNG 8 1945! Một số đảng phái gọi là “Quốc Gia” do thiếu thông tin, ấu trĩ về chính trị, vô trách nhiệm với Nhân Dân và Tổ Quốc Việt Nam không thấy rằng cái gọi là “Cách Mạng Tháng 8” đó chính là sự công khai hóa cuộc chiến XÂM LƯỢC VIỆT NAM thông qua công cụ Việt Gian Cộng Sản từ chiến thuật nằm vùng, hoạt động âm thầm đã nắm bắt thời cơ cùng sự mê muội của các đảng phái đó để cướp lấy bộ máy nhà nước của Quốc Gia Việt Nam. c) Ngay sau khi được sự tiếp tay một cách chân thành của mấy lãnh đạo của các đảng phái gọi là “Quốc Gia” đó, tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nhanh chóng cho ra đời một lô cá đảng phái, hội đoàn“mặc áo Quốc Gia” mà vô thức gõ thanh la cầm cờ ma quỷ như các đảng Dân Chủ Việt Nam; Đảng Xã Hội Việt Nam; Nhi Đồng Cứu Quốc; Thanh Niên Cưú Quốc; Phụ Nữ Cứu Quốc; Phụ Lão Cứu Quốc; Công Nhân Cứu Quốc; Nông Dân Cứu Quốc… và đặc biệt là Phật Giáo Cứu Quốc!!! Có thể nói là những tên Vũ Hồng Khanh. Nguyễn Tường Tam, Tạ Quang Bửu, Trần Huy Liệu (thời kỳ đó ít ai biết rằng tên này đã bỏ Việt Nam Quốc Dân Đảng để theo Tập đoàn Việt Gian Cộng Sản), Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm Sai Đại Thần Phan Kế Toại, Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường, Học Giả Nguyễn Văn Tố, Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm; GS Bác Sĩ Hồ Đắc Di, Huynh trưởng Hướng Đạo Hoàng Đạo Thuý, các Giáo Sư như Trịnh Thục Viên, Phan Thị An, Đoàn Phú Tứ, Cù Huy Cận, Bác Sĩ Vũ Văn Cẩn, Kỹ Sư Nguyễn Xiển, Kỹ Sư Nghiêm Xuân Yêm, Đỗ Đức Dục, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thái Mai, Trương Tửu (còn có tên là Nguyễn Bách Khoa) Nữ Sĩ Hằng Phương, các Tri Phủ Dương Văn Đàm, con trai cả Thượng Thư Dương Văn Am, Tạ Quang Đạm… kẻ nọ nhìn người kia tham gia vào một tổ chức việt gian một cách mù quáng kể cả Bảo Đại và Huỳnh Thúc Kháng đã từng bị VGCS kết tội là “việt gian” ghi trong cương lĩnh chính trị Đại Hội 1 của chúng tại Macao năm 1935. Chỉ có Một Ngưởi Duy Nhất Không Tham Gia dù được tên đại việt gian cộng sản Hồ Chí Minh trân trọng mời. Đó là Lãnh Tụ NGÔ ĐÌNH DIỆM của nhân dân Việt Nam! Vì Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm biết rằng đằng sau những khẩu hiệu nổ như bắp rang đó nào là “cứu quốc”, nào là “đoàn kết” là một tập đoàn dao búa, đâm thuê chém mướn cho giặc xâm lược đỏ đang ra mặt tranh nô lệ Việt Nam với thực dân Pháp!!! Và cũng chỉ có Người Duy Nhất Là Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm của Việt Nam mới nhận thức được sâu sắc rằng Quốc Gia Việt Nam phải tự mình gánh trọng trách trong cuộc CHỐNG XÂM LƯỢC. Đảng Cộng sản Việt Nam và mạng lưới tay sai chỉ là công cụ XÂM LƯỢC TRỰC TIẾP QUỐC GIA VIỆT NAM với các loại áo khoác, mặt nạ trá hình để che giấu căn cốt VIỆT GIAN mà thôi. Đó chính là xuất phát điểm sự ra đời các Ấp Chiến Lược, Ấp Dân Sinh, Khu Trù Mật… và Chính sách Chiêu Hồi để tẩy rửa nọc độc Viêt Gian Cộng Sản cho những Hồi Chánh Viên trở lại là một người Việt Nam chân chính. Đấy là một biểu hiện của việc ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN VIỆT NAM CHỐNG XÂM LƯỢC

3.

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website