Công lý cho Mậu Thân
(824) HỘI LUẬN VỚI THIẾU TÁ LIÊN THÀNH VỀ THẢM SÁT TẾT MẬU THÂN 1968 HUẾ - YouTube
Hãy trả lại công bằng và công lý cho 1200 thuờng dân bị mất
tích và 5327 thường dân vô tội bị Cộng Sản đập đầu chôn sống, bắn giết, trong Tết
Mậu Thân 1968 tại Cố Đô Huế.
Đồng bào Huế xin hãy hợp tác với tôi, truy tố đám sát nhân
này ra tòa án hình sự Quốc Tế về tội diệt chủng.
LIÊN THÀNH
Nguyên Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế
Địa chỉ liên lạc:
nguyenphuclienthanh @gmail.com Địa chỉ email này đang được bảo
vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó
biendongmientrung@ yahoo.com Địa chỉ email này đang được bảo
vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó
1968-2009: bốn
mươi mốt năm trôi qua, một quảng thời gian dài cho đời người, nhưng đối với người
dân Huế và thân nhân của tổng cộng 6527 nạn nhân trong cuộc tàn sát tàn bạo do
Hồ Chí Minh (HCM) và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản gây ra, thì biến cố lịch sử
kinh hoàng này vẫn còn mới, còn đau và còn rỉ máu, bởi vì: nợ vẫn chưa được trả,
công bằng và công lý vẫn chưa có.
Tôi, Liên
Thành, người đã có mặt trước, trong, và sau khi xảy ra cuộc chiến, viết lại mấy
dòng này, như là một chút bổn phận cho những người dân vô tội và đồng đội của
tôi đã ngã xuống trong Tết Mậu Thân.
Mậu Thân
1968
Tháng 5 năm
1967, HCM chủ tọa phiên họp của Bộ CT trung ương đảng CS Việt Nam để duyệt xét
tình hình và kế hoạch cho chiến dịch đông xuân 1967-1968. Kế tiếp, từ ngày 20 đến
ngày 24/10/1967, tại phiên họp của bộ chính trị, thay mặt Quân ủy trung ương,
Tướng Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo chiến dịch Đông-Xuân -Hè 1967-1968. Bộ CT
quyết định mở cuộc tổng CK, tổng nỗi dậy vào đúng Tết Mậu Thân 1968.
Như vậy cuộc
TCKT nổi dậy đã được bọn chúng quyết định vào tháng 10/1967, để đánh lừa và tạo
bất ngờ, HCM tráo trở đề nghị hưu chiến 7 ngày trong dip tết Mậu Thân, nhưng
chính phủ VNCH chỉ đồng ý 3 ngày mà thôi.
Những hoạt động
của VC được cơ quan tình báo CSQG Thừa Thiên Huế ghi nhận trước cuộc Tổng Công
Kích, Tổng nỗi dậy tại Thừa Thiên Huế:
Tình báo Kỹ
thuật:
1- Khoảng từ
ngày 10 tháng 12 /1967, gần 20 ngày trước cuộc tấn công, cơ quan tình báo dân sự
đồng minh đã có một loạt không ảnh chụp được tại những vùng núi phía tây thành
phố Huế: thượng nguồn sông Bồ, Khe Trái, động Chuối, sông Hữu Trạch, phát giác
một số lượng đông đảo các lực lượng quân sự của VC đang tập trung tại các vùng
trên. Tin tức tình báo kỹ thuật cũng ghi nhận một số điện đài quân sự địch đang
họat động liên tục tại vùng nầy.
Tôi đã được
cơ quan tình báo dân sự đồng minh thông báo đầy đủ.. Đồng thời họ cũng đã yêu cầu
tôi xử dụng lực lượng tình báo cơ hữu Cảnh Sát Đặc Biệt để phối kiểm và xác nhận
thêm các tin tức trên.
2- Mười toán
tình báo của 10 quận thuộc tỉnh Thừa Thiên từ phía bắc là quận Phong Điền, xuống
tận phía nam là quận Phú Lộc, đều báo cáo về BCH tỉnh những tin tức tương tự giống
nhau: Dân chúng trong những vùng C, D, F (lượng giá tình hình anninh) đều được
cơ sở VC địa phương thông báo: Mọi gia đình trong vùng đều phải mua trữ lương
thực, dự trữ thuốc men, chuẩn bị cho một cuộc đánh lớn sắp xảy ra.
3- Một số
cán bộ cộng sản từ cấp huyện trở lên cũng đã được lệnh rời khỏi địa bàn hoạt động
lên mật khu hội họp.
Tại thành phố
Huế có 8 chi bộ đảng cộng sản và 80 cơ sở đảng bí mật có những họat động khác
thường, bọn chúng tiếp xúc với nhau thường xuyên hơn. Tại các trạm giao liên nội
thành có rất nhiều kẻ lạ xuất hiện.
4- Nhiều cơ
sở quan trọng nội thành được điều lên mật khu hội họp do Khu Ủy Trị Thiên tổ chức.
Bọn họ rời thành phố lên Mật khu họp vào đầu tháng 12/1967 và trở về lại thành
phố Huế vào khoảng 20 tháng 12/1967.
Đương nhiên,
trong số những cơ sở lên họp tại mật khu có cơ sở nội tuyến của chúng tôi. Vì vậy,
khi họ trở về chúng tôi nhận được báo cáo của họ như sau:
Khóa học tập
này có khoảng 300 cán bộ và 130 cơ sở nồng cốt nội thành. Nội dung học tập là
phương thức phát động quần chúng nổi dậy tại nông thôn và đô thị. Nhiệm vụ của
họ là sau khi trở về địa bàn họat động là thành lập các đội công tác làm nòng cốt
phát động quần chúng tổng nổi dậy khởi nghĩa.
Cũng cần nói
rõ thêm trong số những cơ sở nội thành được điều lên mật khu, có cả Giáo sư Lê
văn Hảo, một số sinh viên đại học Huế. Bọn chúng là cơ sở nội thành VC.
Điểm chính rất
quan trọng là chúng tôi phát giác hầu hết các thành phần thân cận tranh đấu của
Thích Trí Quang vào năm 1966, đào thoát lên mật khu, nay trong những ngày cận Tết,
đã đột nhập trở lại, trú ngụ tại các căn cứ lõm của bọn chúng trong thành phố Huế.
Căn cứ vào những sự việc vừa nêu trên, cộng thêm một số dữ kiện khác, chúng
tôi, cơ quan tình báo CSQG của BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế và cơ quan tình báo dân
sự Hoa kỳ sau khi nhận định lượng giá đều đi đến một kết luận chung là Việt Cộng
sẽ tấn công Huế trong những ngày Tết Mậu Thân 1968.
Câu hỏi được
đặt ra, tại sao tin tức tình báo của các cơ quan tình báo VNCH và đồng minh đầy
đủ như vậy, mà thảm họa vẫn xảy ra cho Huế? VC tấn công và chiếm giữ Huế 26
ngày kể từ 2 giờ 33 phút sáng, rạng ngày 2 Tết Mậu Thân 1968, tàn sát 5327 thường
dân vô tội và bắt dẫn đi mất tích 1200 ngừời?
Có những điều
sau đây để có thể lý giải một phần nào:
- Bản chất
người quốc gia quá thiệt thà lương thiện, bị HCM và đảng Cộng Sản phỉnh gạt,
hưu chiến 3 ngày. Chính quyền Miền Nam cũng như đồng bào Miền Nam đã không thể
tưởng tượng nổi rằng, cộng sản lại chọn ngày tết để chém giết đồng bào, vì dù
sao chúng cũng là con người. Ai có thể ngờ những giờ phút thiêng liêng đầu năm
của toàn dân tộc, dành để cúng giỗ ông bà, nhớ ơn tiền nhân, mà chúng lại nỡ
đang tâm làm chuyện sát hại sinh linh vô tội. Chính quyền Miền Nam lúc ấy vẫn
còn nghĩ là bọn CS không đến độ man rợ mất hết lương tri như thế. Cho nên, Miền
Namđã bỏ ngỏ tết Mậu Thân. Lợi dụng sự lương thiện của Miền Nam, chúng đã phát
động chiến tranh và tàn sát đồng bào cùng màu da tiếng nói. Chúng dùng mọi thủ
đoạn, nhất là khủng bố bằng máu để thắng hôm nay, nhưng muôn vạn đời sau, mỗi độ
tết về, lịch sử lại nhắc rằng, bọn Cộng Sản Việt Nam đã vô lương tráo trở, cuồng
sát đồng bào Mậu Thân 1968.
- Các cấp chỉ
huy Quân sự vô trách nhiệm, hoàn toàn không có kế hoạch phòng thủ cho Huế.
- Quân số và
lực lượng không đủ để phòng thủ khi bị địch tấn công, vì đã cho quân nhân, cảnh
sát xã trại năm mươi phần trăm nghỉ Tết
Và quan trọng
nhất là tin tức tình báo từ lực lượng CSĐB/BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, một phúc
trình rất đầy đủ, đích thân tôi đưa lên cho trưởng ty, đã bị ém nhẹm. Lý do:
trưởng ty CSQG Đoàn Công Lập lại là Việt Cộng nội tuyến nằm vùng, hoạt động dưới
sự chỉ huy của Hoàng Kim Loan. Đoàn Công Lập lý luận là loan tin đi chỉ sẽ làm
kinh động dân chúng, chắc gì có thật. Trong thời gian làm phó ty, cá nhân tôi
thấy Đoàn Công Lập có những hành tung và cách xử sự rất đáng ngờ. Sau đó cơ
quan Tình Báo Dân Sự Hoa Kỳ có cho tôi hay là họ đang theo dõi Đoàn Công Lập,
đương sự có những hoạt động nội tuyến. Từ đó tôi theo dõi hắn rất sát. Và hình
như hắn cũng biết là tôi đang nghi ngờ hắn. Chúng tôi và cơ quan tình báo dân sự
Hoa Kỳ đang phối hợp theo dõi để lấy thêm bằng cớ phúc trình lên trung ương,
thì lại xảy ra biến cố Mậu Thân. Đêm 30 tết, chính Đoàn Công Lập đã mưu sát tôi
bằng cách ra lệnh cho tôi dẫn một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến đến quận Nam Hòa, vì
Đoàn Công Lập nói rằng có một toán du kích sẽ đến đó. Bụng đã nghi ngờ Đoàn
Công Lập, cho nên tôi rất cẩn thận. Khi tôi và 6 anh em nữa đến đó, thì không
phải là một tiểu đội mà là một tiểu đoàn địch đang di chuyển. Nếu chúng tôi
không nín thở nằm im, thì giờ này tôi và 6 anh em CSQG đã xương tàn cốt rục.
Khi trở về báo cho ông ta biết là không phải một toán mà là một tiểu đoàn, ông
ta không phản ứng gì, chỉ hỏi “Sao anh không nổ súng?” Tôi nhìn ông ta và trả lời
“Nếu hồi đêm tôi nổ súng thì giờ này đâu gặp ông trưởng ty được nữa”.
Vì tình hình
quá sức khẩn cấp nghiêm trọng, theo nguyên tắc không được vượt quyền Đoàn Công
Lập, nhưng tôi đã vượt rào gặp Tỉnh Trưởng Thừa Thiên lúc đó là Trung Tá Phan
Văn Khoa, để cố thuyết phục ông tỉnh trưởng nên có kế hoạch chống đỡ tối thiểu,
ít nhất là còn nước còn tát. Nhưng ông ta không chú ý gì đến bản phúc trình của
thằng trung úy quèn mặt non choẹt búng ra sửa mới 25 tuổi tôi cả, chỉ ừ hử cho
qua chuyện.
Kết quả, Mậu
Thân tại Huế thảm khốc hơn các nơi nào hết trên toàn cõi Miền Nam, với tổng cộng
6527 người chết, bao gồm cả mất tích không tìm thấy xác cho đến bây giờ.
Những tên đồ
tể cộng sản chủ chốt Hồ Chí Minh và các Ủy Viên Trung Ương Đảng đã ra lệnh cho
Khu Ủy Trị Thiên, chính ủy mặt trận Huế, Lê Chưởng, áp dụng chính sách “Bạo lực
cách mạng” hay “Bạo lực đỏ”, tàn sát đẩm máu đồng bào vô tội Huế. Tất cả cũng
chỉ vì dân Huế không theo Hồ Chí Minh, không nghe lời tuyên truyền của đảng Cộng
Sản tham gia cuộc “Tổng Nổi Dậy” mà họ Hồ và Bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt
Nam hô hào, mà ngược lại, lại chạy đi tìm sự che chở của quân đội VNCH, nên Cố
Đô trong những ngày xuân Mậu Thân 1968, đã chìm trong biển máu, một thành phố
trắng xóa khăn sô, một ngày giỗ chung cho đất Thần Kinh.
Bốn mươi mốt
năm trôi qua, mỗi độ xuân về, cùng với mối hận mất nước, làm sao có thể quên những
đổ nát đau thương, phẫn uất xót xa trong lòng người dân Huế?
Thi hành chỉ
thị tàn sát đồng bào của Hồ Chí Minh và bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam,
ngoài Lê Chưởng ra, còn có những nhân vật sau đây:
1- Đại tá
Nguyễn Mậu Huyên, tức Bảy Lanh, tức Nguyễn Đình Bảy, trưởng ban An Ninh Tỉnh ủy
Thừa Thiên, Thị ủy Huế.
2- Đại Tá Lê
Tư Minh, tư lệnh mặt trận Huế
3-Tống Hoàng
Nguyên, Trưởng Ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên-Huế.
4- Hoàng
Phương Thảo, Thường vụ Thành ủy Huế.
5- Trung Tá
điệp viên Hoàng Kim Loan, Thành ủy viên Thành Ủy Huế, phụ trách “Tổng nỗi dậy”
Còn có một số
đông cơ sở nội thành Việt Cộng như:
1- Giáo sư
trung học đệ nhị cấp Hoàng Phủ Ngọc Tường,
2- Sinh viên
Y khoa Hoàng Phủ Ngọc Phan,
3- Nguyễn Đắc
Xuân Sinh viên sư phạm ban Việt Hán,
4- Sinh viên
luật khoa Nguyễn Thiết
5- Nữ Sinh viên
dược khoa Sài Gòn Nguyễn Thị Đoan Trinh,
6- Sinh viên
Nguyễn Dũng,
7- Nguyễn Hữu
Vấn, Giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc và kịch nghệ
8- Tôn Thất
Dương Tiềm, giáo sư trường trung học Bồ Đề
9- Lê Văn Hảo,
giáo sư nhân chủng học thuộc viện Đại Học Huế
10- Nguyễn
Đóa, cựu giám thị trường Quốc Học Huế, cũng là cha vợ của Tôn Thất Dương Tiềm.
11-Đào thị
Xuân Yến, thường được gọi là Bà Tuần Chi, nguyên hiệu trưởng trường nữ trung học
Đồng Khánh Huế, tình nhân của ông Thích Đôn Hậu
12- Cha con
ông Thiên Tường, chủ tiệm thuốc Bắc tại vùng An Cựu (Ông Thiên Tường là cha
nuôi Đại Tá Công An Việt Cộng Nguyễn đình Bảy, tức Bảy Lanh, nuôi từ lúc Bảy
Lanh còn nhỏ).
13- Nguyễn
Bé, thợ nề, chủ tịch khu phố tại Quận II, thị xã Huế.
14- Thầy bói
Diệu Linh ở khu phố Gia Hội, Quận II thị xã Huế.
Và một số
đông các cơ sở nội thành khác của Việt Cộng nằm vùng từ lâu trong học sinh,
sinh viên, công chức, cảnh sát, tiểu thương, thương gia.
Những kẻ đội
lốt tu hành như Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật Giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh,
trù trì chùa chùa Linh Mụ, Thích Thiện Siêu, Chùa Từ Đàm v.v…
Đặc biệt, để
chuẩn bị cho cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy tại Huế, vào ngày 21 tháng 1 năm
1968 trước trận đánh Mậu Thân, bộ Chính Trị trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam gởi
mật điện cho Trung ương Cục Miền Nam, Khu Ủy khu 5, và Khu Ủy Trị Thiên-Huế yêu
cầu Phạm Hùng, Võ Chí Công, Tướng Trần văn Quang chỉ thị thành lập mặt trận
chính trị thứ hai lấy tên là Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Tổ chức chính
trị này, như mục đích thường thấy của tất cả các tổ chức mà cộng sản Bắc Việt
đã đẻ ra, nhằm mục đích đánh lừa dư luận thế giới và gây rối cho chính quyền miền
Nam, một cách có hệ thống và tổ chức. Như thường lệ, chúng sáng tác ra một cái
tên khá màu mè có vẻ rất dân chủ và chính nghĩa, dùng các từ như dân chủ dân tộc
hòa bình, nặng mùi tuyên truyền quen thuộc, mà bất cứ người dân bình thường nào
cũng có thể dễ dàng nhận diện ra ngay đó là các tổ chức cộng sản. Chiến thuật của
chúng dùng những tổ chức cộng sản ngụy trang này để lừa bịp công luận thế giới,
rằng có nhiều tập hợp lực lượng, đoàn thể, cá nhân chống lại chính quyền MiềnNam,
chống đế quốc Mỹ. Chúng cũng không quên lôi kéo bất cứ tầng lớp dân chúng thiếu
suy nghĩ nào mà chúng có thể dụ dỗ.
Tại Trị
Thiên-Huế, Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình đã được Thiếu Tướng Việt
Cộng Trần văn Quang, Tư Lệnh chiến trường Trị Thiên-Huế và Lê Chưởng Chính ủy
chiến trường cho lệnh thành lập trước ngày giờ tấn công Huế. Thành phần gồm có:
1-Chủ Tịch:
Ông Lê Văn Hảo, giáo sư Nhân Chủng Học, Viện Đai Học Huế
2- Phó chủ Tịch:
Ông Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất miền Vạn Hạnh.
3- Tổng thư
Ký: Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên giáo sư Trường Quốc Học. Đương sự cùng với em
ruột là Hoàng Phủ Ngọc Phan thoát ly lên mật khu vào tháng 6/1966, với sự tiếp
tay của Trịnh Công Sơn, sau vụ tranh đấu của Thích Trí Quang tại Miền Trung.
4- Phụ trách
Học Sinh, Sinh Viên Giải Phóng: Nguyễn Đắc Xuân, nguyên sinh viên Đại Học Sư Phạm,
ban Việt Hán. Đương sự thoát ly lên mật khu vào tháng 7 năm 1966 sau vụ tranh đấu
vào tháng 6/1966 của Thích Trí Quang.
5- Chủ Tịch Ủy
Ban Nhân Dân Thừa Thiên Huế: bên cạnh chức chủ tịch Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc
Hòa Bình, Ông Lê Văn Hảo còn được Việt Cộng cho giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban
Nhân Dân Thừa Thiên Huế.
6- Phó Chủ Tịch
Ủy Ban Nhân Dân Thừa Thiên Huế: Bà Đào Thị Xuân Yến tức Tuần Chi, cũng là nhân
tình của ông Thích Đôn Hậu
7-Đội trưởng
Đội Tự Vệ Thành: Sinh viên Nguyễn Đắc Xuân giữ chức vụ Trưởng Đoàn An Ninh và bảo
vệ khu phố, gọi tắt là Đội Tự Vệ Thành.
Hoàng Phủ Ngọc
Phan, Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Dũng, Nguyễn Thiết,
Nguyễn Đóa v.v, đều ở trong đoàn An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố thuộc quyền chỉ huy
và điều động của Nguyễn Đắc Xuân.
Ngoài ra
Nguyễn Đắc Xuân còn đứng ra tổ chức đoàn Nghĩa Binh Cảnh Sát và giao cho Ông
Nguyễn Văn Cán, Quận Trưởng CSQG nguyên là Trưởng Ty CSQG Thị Xã Huế, làm trưởng
đoàn, và đoàn Nghĩa Binh Quân Nhân.
Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã được Hoàng Lanh và Trung Tá Hoàng Kim Loan Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế
bổ nhiệm chức Chủ Tịch Tòa án Nhân Dân tại trường tiểu học Gia Hội thuộc Quận
II thành phố Huế.
Còn nhớ rạng
sáng mồng hai Tết Mậu Thân, đúng 2 giờ 33 phút là giờ khởi đầu của 624 giờ đau
thương kinh hoàng của cuộc tàn sát man rợ của bầy ác thú Việt Cộng. Bọn ác thú
từ rừng núi phía tây tràn vào Huế. Chúng là Quân Đội Nhân Dân, là Quân Giải
Phóng, là những tên “trí thức”, giáo sư, sinh viên Miền Nam phản bội dân tộc
theo Việt Cộng. Chúng theo Thích Trí Quang trong phong trào tranh đấu Phật Giáo
năm 1966. Chúng thoát ly lên mật khu sau khi phong trào Phật Giáo tranh đấu bị
dẹp tan. Hai năm sau, theo lệnh Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt
Nam, chúng trở lại nơi đã sinh ra và nuôi chúng lớn lên, với búa liềm, với mã tấu,
với AK47, với B40, phá nát thành phố cổ kính đầy những di tích lịch sử quý báu,
thẳng tay chém giết lớp lớp dân lành vô tội. Có lẽ, để trả mối hận xưa. Bọn Việt
Cộng nằm vùng kể trên, cùng với cán binh cộng sản chính quy, đã say sưa tận diệt
đồng bào Huế. Và Huế trong 624 giờ đồng hồ, đã trãi qua từng giây, từng phút, từng
ngày kinh hoàng tang tóc điêu linh. Máu và nước mắt của dân Huế đã để lại lịch
sử với ba chữ: Tết Mậu Thân. Nói đến “Tết Mậu Thân” là nói ngay đến tội ác man
rợ của bọn cộng sản
Tổng cộng gần
10 ngàn quân, gồm 4700 quân chính quy từ Bắc Việt, số còn lại là du kích của
các Huyện, và đám cơ sở nằm vùng của ông Thích Đôn Hậu và Thích Trí Quang trong
vụ tranh dấu năm 1966.
Mười ngàn
quân này, về mặt hình thức, không phục vụ dưới cái cờ đỏ sao vàng, cũng chẳng
dưới bóng cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mà là dưới ngọn cờ của Lực Lượng
Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình do Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản vừa mới đẻ ra,
mà chủ tịch là Ông Lê Văn Hảo, giáo sư Nhân chủng Học viện Đại Học Huế, phó chủ
tịch Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện Phật Giáo Miền Vạn Hanh, giáo sư Hoàng Phủ Ngọc
Tường, tổng thư ký, sinh viên Nguyễn Đắc Xuân, phụ trách học sinh, sinh viên,
trí thức.
Chính những
nhân vật trên của Miền Nam đã phối hợp với cộng sản, gây nên đổ nát và giết
chóc dã man cho đồng bào Huế, trong 624 giờ kinh hoàng lịch sử này. Trời kêu
không thấu, đất gọi không nghe, cầu khẩn thần linh phù hộ, thần linh cũng ngoảnh
mặt. Huế ôm nhau trong ngỡ ngàng run rẫy, dìu nhau chạy trốn Việt Cộng, bước thấp
bước cao, với nỗi kinh hoàng tột độ. Huế ngày đó, mỗi thước đất là một thây người,
là mỗi vũng máu tươi chưa kịp đổi màu.
Huế ngập
trong thây người và biển máu. Từ bờ cỏ bụi cây, từ đường lớn đường nhỏ, từ
trong nhà ra đến đầu hè, từ sân trước ra sân sau, máu là máu.
Dưới ánh sáng
mờ mờ của 5 giờ sáng ngày mồng hai tết năm Mậu Thân, Huế tràn ngập hàng hàng lớp
lớp quỷ đỏ Miền Bắc và bọn nằm vùng chỉ điểm có gốc gác tại Huế. Bọn Việt Cộng
nằm vùng đã chẳng kể gì đến xương trắng máu đào của dân lành vô tội có cùng nơi
chôn nhau cắt rốn với chúng, chúng tận tụy hợp lòng hợp sức với lực lượng giết
người có tên là Quân Đội Nhân Dân, quân đội “Giải Phóng” MiềnNam. Cái hỗn hợp tội
ác trên đã hiện diện trong từng ngỏ ngách của thành phố, chuẩn bị chu đáo cho một
cuộc tàn sát đồng loại dã man y hệt thời Trung cổ.
Sáng mồng
hai Tết Mậu Thân, trời chưa sáng hẳn, một số lớn gia đình trong ba quận thị xã
Huế đã bị quân Việt Cộng cùng đám chỉ điểm xông vào từng nhà lục soát, tìm kiếm
những tên “Công An, Cảnh Sát, Ngụy Quân, Ngụy Quyền” đang ẩn trốn. Rồi thì dồn
dập và liên tục những loạt súng nỗ bắn thẳng vào “bọn tàn dư tội ác Mỹ Ngụy”,
những người đang cố gắng đào thoát khỏi nhà, tìm đường về lại đơn vị. Chúng bắn
và chém giết chẳng cần xét xử bất cứ ai đi làm trong các cơ quan hành chính
công quyền của chính phủ VNCH mà chúng nhìn thấy được
Sáu giờ
sáng, khi sương mù chưa tan, trời thì lạnh và thấp, Huế bật khóc trong phẫn uất,
đau đớn, khi nhìn về phía kỳ đài Phú văn Lâu: Quốc kỳ màu vàng 3 sọc đỏ không
còn nữa! Thay vào đó là một lá cờ gồm 3 mảnh: Hai mảnh hai bên màu xanh nhạt, mảnh
giữa màu đỏ có ngôi sao vàng. Dân chúng Huế thì cứ ngỡ là cờ của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam. Thật tình không phải vậy. Cờ MTGPMN chỉ có 2 mảnh, một mảnh màu
xanh nhạt, một mảnh màu đỏ giữa có ngôi sao vàng.. Lá cờ treo trên Kỳ Đài Ngọ
Môn là cờ của Lực Lượng Liên Minh Dân Chũ Dân tộc Hòa Bình. Nói cho rõ hơn, là
cờ của các ông Đôn Hậu, Lê văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, anh em Hoàng Phủ v.v.
Kinh hoàng
vì Việt Cộng đến, dân Huế bắt đầu chạy giặc từ 7 giờ sáng mồng hai tết. Nhà cửa
tài sản bỏ lại đã đành, nhưng ngay cả quần áo cũng không kịp mang theo, thức
ăn, nước uống cũng vậy. Mọi người chỉ mong mau mau thoát khỏi nhà càng sớm càng
tốt. Già trẻ, lớn bé, cha mẹ, con cái, hàng xóm láng giềng hoảng hốt dắt dìu rủ
nhau tìm đường thoát khỏi bàn tayViệt Cộng. Thấy vậy, điên lên, bọn Việt Cộng
và đám nằm vùng như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ, Nguyễn thị Đoan Trinh nổ súng
hàng loạt vào đoàn người đang hoảng loạn tìm phương trốn chạy. Thây người thi
nhau ngã ngục, máu đào tuôn rơi lênh láng, nhuộm đỏ cờ đỏ sao vàng, chính xác
như câu bọn cộng sản đã chọn làm tuyên ngôn của chúng: “cờ in máu chiến thắng
mang hồn nước”. Nước đây là nước tự xâm lăng của bọn cộng sản và bọn nằm vùng
không có tính người. Nước Việt Nam con cháu Hùng Vương không thể có bọn cộng sản
chỉ biết giết đồng bào cùng dòng máu để đoạt quyền lực, và chỉ biết thờ kính
ngoại bang như Staline và Mao Trạch Đông như thế.
Tại các vùng
Bến Ngự, Nam Giao, Từ Đàm, dân chúng kéo nhau chạy trốn lên vùng nhà máy nước Vạn
Niên, gần đồi thông Quãng Tế, sát cạnh chùa Từ Hiếu. Nhiều đoàn người chỉ đi được
nửa đường thì bị bọn Việt Cộng pháo kích chận lại, cùng đường, đành phải quay về
..
- Tại làng
Phú Cam, lực lượng địch đã vây kín, dân chúng liền kéo nhau vào trú ẩn tại nhà
thờ chánh tòa .
- Riêng tại
Quận III Thị xã Huế, từng đoàn người từ vùng cầu Kho Rèn, dọc đường Phan Đình
Phùng, vùng An Cựu và xóm đạo dòng Chúa Cứu Thế, kéo nhau chạy trốn vào nhà thờ
dòng Chúa Cứu Thế, trường trung học Thiên Hựu.
- Dân cư
vùng cầu số 7, vùng Hàng Me, khu vực Đập Đá, khu trường trung học Nguyễn Tri
Phương kéo chạy vào trú tại trường trung học Kiễu Mẫu nằm sát cạnh Bộ Chỉ Huy Cảnh
Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế và BCH/Tiểu Khu.
- Tại Quận
II thị xã Huế, một số ít dân chúng chạy trốn vào chùa Diệu Đế, chùa Ông, chùa
Áo Vàng, trường trung học Gia Hội. Đại đa số dân chúng còn lại trốn tại nhà.
- Tại Quận I
thị xã Huế, dân chúng đều tìm đường chạy trốn về trú ẩn vùng Cầu Kho, Mang Cá
nơi có Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh của Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng tìm kiếm sự
che chở của quân đội .
Trời đất dường
như đã khóc cho những ngày tang tóc khốn cùng của Huế. Không như năm trước, năm
Mậu Thân 1968 trời lạnh thật lạnh, và mưa phùn đã bắt đầu từ ngày mồng hai tết,
kéo dài 26 ngày, trong suốt thời gian chiến cuộc tại Huế. Bầu trời u ám, mây
xám đặc phủ kín thành phố. Huế trong cơn mưa lạnh giá buốt của đất trời, và
trong nỗi sợ hãi run người của dân Huế, hốt hoảng chạy trốn tử thần cộng sản.
Súng nổ rền
từ khuya đến suốt ngày mồng hai Tết, và vẫn tiếp tục nổ. Lâu lâu trên bầu trời
xám xuất hiện một chiếc máy bay quan sát L-19, thoảng hoặc, một chiếc trực
thăng bay thật cao lạc lõng giữa bầu trời cố đô Huế thì lập tức, hằng loạt súng
của Việt Cộng từ mọi nơi trong thành phố bắn lên. Hằng trăm, hằng ngàn loạt đạn
nổ rền trời, càng làm tăng thêm nỗi tuyệt vọng của người dân Huế.
Trong khi lực
lượng quân sự của Việt Cộng đang tấn công vào những vị trí quan trọng trong
thành phố, thì bộ phận chính trị an ninh của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Quân Khu Trị
Thiên-Huế phối hợp với ban An ninh Tỉnh Ủy, Thị Ủy Thừa Thiên-Huế, cùng đám Việt
Cộng nằm vùng bắt đầu công tác tắm máu Cố Đô.
Toàn bộ lực
luợng an ninh do hai cán bộ cấp Khu chỉ huy là Tống Hoàng Nguyên, và phụ tá là
Đại tá Công An Nguyên Đình Bảy, tức Bảy Lanh .
Về chính trị,
thành ủy viên Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh phụ trách thành lập chính quyền Cách
Mạng tại Huế, phát động quần chúng thực hiện cuộc “tổng nỗi dậy”.
Cả hai nhóm
an ninh và chính trị nầy hoạt động song hành và kết hợp với lực lượng cơ sở nội
thành, gồm thành phần “trí thức”, sinh viên, những kẻ đã từng tham gia trong
phong trào tranh đấu dấy loạn của các ông Trí Quang, Đôn Hậu vào năm 1966.
Thành phần nầy tạo thành một lực luợng hùng hậu và sắt máu nhất. Bọn chúng đã
tàn sát dân Huế, đặc biệt là say sưa truy lùng thành phần Mỹ Ngụy để bắn giết đập
đầu họ không một chút nương tay.
Ngay từ rạng
sáng ngày mồng hai Tết, lực lượng an ninh Khu Ủy Tri Thiên và tỉnh thị ủy Thừa
Thiên-Huề đã bắt một số người mà chúng có được danh sách từ đám nằm vùng, đem
giam tại Tòa Đại Biểu chính phủ VNCH tại đường Lê Lợi thuộc Quận III thị Xã Huế.
Sáng ngày mồng
ba Tết tức ngày 3 tháng 2 năm 1968 dương lịch, Tống Hoàng Nguyên, Bảy Lanh,
Hoàng Kim Loan, nhận lệnh trực tiếp từ Lê Chưởng, chính ủy mặt trận Huế, bắt đầu
thi hành nghị quyết của bộ chính trị là “tổng nỗi dậy, thiết lập chính quyền
cách mạng”. Chúng thành lập mặt trận thứ 2, lấy tên là Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc
Hòa Bình (Mặt trận thứ nhất là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam), lùng diệt, truy
quét thành phần ác ôn, tàn binh “Ngụy”, Công an Cảnh sát “Ngụy”, thành phần tay
sai làm cho “tình báo CIA”, tức là toàn bộ thành phần mà chúng chưa biết chính
xác là nắm chức vụ lớn bé gì trong trong bộ máy hành chánh của chính quyền
VNCH. Tất cả đã được gọn gàng cho làm chuyên viên tình báo CIA! Mọi người cần
phải có tội. Tội làm CIA là tội dễ nhất và chắc chắn phải có! Và như thế, quá đủ
để bị cách mạng trừng trị.
Đây là những
chi tiết được biết sau này, theo lời khai của Thành ủy viên Hoàng Kim Loan, khi
bị Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế bắt vào mùa hè đỏ lửa tháng 5/1972.
Phân công của
các cán bộViệt Cộng:
Thành lập
chính quyền cách mạng cấp quận, tỉnh và chuẩn bị “tổng nổi dậy”. Người lãnh đạo
và phụ trách hai công tác này là Thành ủy viên Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh.
Sáng ngày mồng
hai Tết, sau buổi mít tinh tại Quận I và Quận II với đám cơ sở nằm vùng, Hoàng
Kim Loan và Hoàng Lanh để cử hai cơ sở nằm vùng của bọn chúng nắm giữ chức vụ Ủy
ban Nhân dân Cách mạng Quận I và II:
1- Nguyễn Hữu
Vấn, giáo sư trường Quốc Gia Âm nhạc và Kịch nghệ làm chủ tịch Ủy Ban Nhân dân
Cách mạng Quận I
2- Nguyễn
Thiết chủ tịch UBCM quận II.
Nguyễn Thiết
vượt tuyến vào Nam nắm 1957, sau đó học luật. Thành viên trong ban chấp hành Tổng
hội Sinh viên Đại học Huế. Y là cán bộ cộng sản nằm vùng trong Tổng Hội Sinh
viên Đại Học Huế từ lâu.
3- Tại Quận
III.
Đại Tá Công
An Nguyễn Đình Bảy, tự Bảy Lanh, kiêm nhiệm chức vụ chủ Tịch ủy ban Nhân dân
Cách mạng Quận III.
4- Chính quyền
Ủy Ban Nhân dân Cách Mạng tỉnh:
- Chủ tịch Ủy
Ban Nhân dân Thừa Thiên –Huế: Giáo sư Nhân chủng học, thuộc viên Đại Học Huế,
Lê văn Hảo.
Lê văn Hảo
là một trong những thành phần tranh đấu tích cực của Thích Trí Quang vào năm
1966, là cơ sở trí vận, dưới sự điều khiển của thành ủy viên Hoàng Kim Loan.
- Phó chủ tịch
là bà Đào thị Yến tức Tuần Chi, nguyên hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng
Khánh Huế, cũng là cơ sở trí vận dưới quyền điều khiển của Hoàng Kim Loan.
- Đồng phó
chủ tịch là thường vụ Thành ủy Hoàng Phương Thảo.
Liên Minh
Các Lực Lượng Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình tại Huế:
- Chủ tịch :
Giáo sư Lê Văn Hảo.
- Phó chủ tịch:
ông Thích Đôn Hậu.
Thích Đôn Hậu
là cơ sở tôn giáo vận của thành ủy viên Hoàng Kim Loan.
Thích Đôn Hậu
trù trì chùa Linh Mụ, là Chánh Đại Diện Phật giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh.
- Tổng thư
ký: Giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tuờng
- Phụ trách
học Sinh Sinh Viên, các thành phần trí thức: Nguyễn Đắc Xuân.
Theo đài
phát thanh Hà Nội, bản tin phát đi vào ngày mồng 3 Tết, tức là ngày 1tháng 2
năm 1968, thì đây là một lực lượng kết hợp “nhân sĩ, trí thức”, học sinh, sinh
viên và Phật Giáo yêu nước vừa mới thành lập tại Huế, nhằm đứng lên chống đế quốc
Mỹ và đám tay sai bọn ngụy quân ngụy quyền, lùng diệt, truy quét bọn ác ôn tàn
binh Mỹ Ngụy, tay sai CIA.
Ngoài ra,
thi hành chỉ thị của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam và Lê Chưởng Chính Ủy
mặt trận Huế, Tống Hoàng Nguyên
Trưởng ban
An Ninh Quân Khu Trị Thiên, và Đại Tá Công An Nguyễn Đình Bảy, trưởng Ban An
Ninh Thưa Thiên-Huế đã ra lệnh cho Nguyễn Đắc Xuân thành lập 3 lực lượng để phối
hợp hành động với ban An Ninh Khu và Tỉnh, Thị là:
1- Lực Lượng
Nghĩa Binh Cảnh Sát.
2- Lực lượng
Nghĩa Binh Quân Nhân
3- Các Đội Tự
Vệ thành.
- Lực Lượng
Nghĩa Binh Cảnh Sát.
Nguyễn Đắc
Xuân giao lực lượng này cho Ông Nguyễn văn Cán, nguyên Ty CSQG thị xã Huế chỉ
huy. Cũng cần phải nói rõ thêm, Nguyên Văn Cán ngạch Quận Trưởng Cảnh Sát VNCH,
cũng là tay chân thân cận của Thích Trí Quang. Trong suốt thời gian tranh đấu của
Thích Trí Quang năm 1966, Quận Cán được bổ nhiệm trưởng Ty CSQG thị xã Huế.
Quận trưởng
CSQG nguyễn văn Cán cũng là cơ sở Việt Cộng nội thành. Trung Tá điệp viên Cộng
Sản Hoàng Kim Loan là cán bộ điều khiển của Quận Cán. Ngoài ra theo lời khai của
Hoàng Kim Loan, chính y và thành ủy viên Hoàng Lanh cũng đã nhiều lần trú ngụ tại
nhà Quận Cán.
Lực lượng
Nghĩa Binh Cảnh Sát chỉ là hữu danh vô thực trong suốt thời gian Việt Cộng chiếm
Huế, chẳng quy tụ được nhân viên Cảnh sát nào .
- Lực Lượng
Nghĩa Binh Quân Nhân
Nguyễn Đắc
Xuân giao cho Đại Úy Nguyễn Văn Lợi, sĩ quan QLVNCH. Lực Lượng Nghĩa Binh Quân
Nhân này ngoài Đại Úy Lợi ra, có được khoảng 10 tên Lao công đào binh gia nhập.
Chúng tôi
không có một tin tức nhỏ nào ghi nhận hoạt động của hai lực lương này trong thời
gian đó.
- Đội tự vệ
Thành (Thành phố)
Trực tiếp chỉ
huy là Nguyễn Đắc Xuân, còn đoàn viên là những thành phần tranh đấu trong vụ
tranh đấu 1966 của ông Thích Trí Quang. Một số trong bọn chúng thoát ly lên mật
khu vào tháng 6, 7/1966, khi phong trào tranh đấu của Thích Trí Quang thất bại.
Một số bị bắt ở tù ra, tái hoạt động trở lại, số khác là cở sở nằm vùng trong mọi
thành phần dân chúng tại Huế như: giáo sư, học sinh, sinh viên, tiểu thương,
ngay cả thành phần thấp kém tội phạm khác trong xã hội v.v…
Đội Tự Vệ
Thành của Nguyễn Đắc Xuân là lực lượng nguy hiểm nhất. Bọn chúng hành xử như
đám Hồng Vệ Binh của Mao Trạch Đông. Chúng phụ trách chỉ điểm, bắt bớ và hành
quyết dân quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa .
Hầu hết những
người bị bắt, bị hành hình, bị bắn, bị chôn sống trong thành phố suốt 26 ngày đều
do Nguyễn Đắc Xuân và lực lượng dưới quyền chỉ huy của y thực hiện.
Tóm lại, Lực
lượng Nghĩa Binh Cảnh Sát, Lực Lượng Nghĩa Binh Quân Nhân, Lực Lượng Liên Minh
Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình mà Hồ chí Minh và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam
trình làng cho quốc nội và quốc tế trong tết Mậu Thân tại Huế có 2 mục đích rõ
rệt:
1- Dùng các
lực lượng này để lôi cuốn quần chúng Huế tham gia vào cuộc “tổng nỗi dậy”. Hình
thức giống như năm 1966, khi bọn chúng kết hợp với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện
Siêu gây ra vụ biến động Miền Trung. Còn nhớ bọn chúng và Nguyễn Đắc Xuân đã
thành lập Chiến Đoàn Quân Nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức, lực lượng Cảnh Sát Phật
Tử, lực lượng Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử v.v…Tóm lại, Hồ Chí Minh và đảng cộng
sản vẫn sử dụng con người và các chiêu thức cũ, bình cũng cũ, mà rượu cũng cũ,
chỉ có quyết định mới, hành động mới, đúng như tinh thần chuyên chế cách mạng cộng
sản, đó là màn trực tiếp giết, chôn sống dân Huế.
2- Với người
dân Miền Nam thì Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam không thể lừa bịp được,
nhưng với dư luận nước ngoài thì, chỉ với một vài danh xưng bịp bợm và một số
nhỏ các tên tay sai đồ tể nằm vùng trước đây, với báo chí thiên tả mà chúng mua
chuộc để thổi phồng lên, chúng nghĩ , chúng có thể gạt được dư luận quốc tế rằng
có cuộc tổng nỗi dậy của toàn bộ người dân tại Huế. Chúng rêu rao rằng, dân
chúng đã tự động thành lập các lực lượng chống chính phủ, đã có sự tham gia đồng
bộ và đông đảo của mọi thành phần quần chúng, bao gồm trí thức, sinh viên, ngay
cả đến Quân Đội, Cảnh Sát Quốc Gia, tất cả đều đồng lòng đứng lên chống Chính
Phủ trung ương Saigòn, chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Nhưng Hồ Chí
Minh và đảng Cộng Sản đã ước tính và đánh giá sai lầm sự thu hút của chủ nghĩa
cộng sản cũng như cái gọi là Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình đối với
người dân Miền Nam nói chung, và dân chúng Huế nói riêng, nên đã bị thảm bại nặng
nề sau 26 ngày chiếm đóng, tàn sát và phá hủy Huế .
Dân chúng Miền
Nam thấy rõ, quốc tế thấy rõ, Huế chẳng có cuộc tổng nỗi dậy nào của dân chúng
Huế trong Tết Mậu Thân 1968, mà chỉ hoàn toàn là sự xâm lăng của lực lượng
“Quân Đội Nhân Dân”, quân Giải Phóng, từ Miền Bắc. “Quân đội nhân dân” “quân đội
giải phóng” đến đâu thì dân chúng Huế kinh hoàng bỏ chạy đến đó, bất chấp tài sản
bị bỏ lại, bất chấp sinh mạng bị đe dọa bởi súng đạn, bởi dao găm mã tấu của bọn
giặc phương Bắc và đám đồ tể man rợ nằm vùng địa phương.
Tức giận vì
dân Huế thà chết không nghe theo cộng sản, không thể phát động cuộc tổng nỗi dậy,
Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định dùng “Bạo lực
Cách mạng” hay “Bạo lực đỏ” trừng trị dân chúng Huế.
Trách nhiện
thi hành Bạo lực Cách mạng được giao cho Ban An ninh Quân Khu Trị Thiên, ban An
ninh Tỉnh Thị Ủy Thừa Thiên-Huế.. Hai cơ quan an ninh nầy phối hợp chặt chẽ với
các Đội Tự Vệ Khu Phố do Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy. Đoàn viên chủ chốt của các đội
Tự Vệ gồm có:
1- Các cơ sở
nằm vùng từ lâu trong quần chúng thuộc các Quận I, II, III trong thành phố Huế.
2- Các thành
phần trong Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo năm 1966 của ông Thích Trí Quang đã
thoát ly lên mật khu nay trở lại thành phố.
3- Những cơ
sở bí mật nội thành như:
- Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Giáo Sư Quốc Học
- Hoàng Phủ
Ngọc Phan, Sinh viên Y Khoa Đại học Huế.
- Nguyễn
Đóa, cựu giám thị trường Quốc Học
- Nguyễn Thị
Đoan Trinh (con gái của Nguyên Đóa) Sinh viên Duợc Khoa Đại Học Sài Gòn.
- Tôn Thất
Dương Tiềm, Giáo sư Trường Trung Học Bồ Đề (con rễ của Nguyễn Đóa)
- Nguyễn
Thúc Tuân, nhân viên nhà thuốc tây Tràng Tiền, huynh trưởng Hướng Đạo
- Lê Hữu
Dũng, sinh viên đại học Sàigon, con trai của Lê Hữu Tý cơ sở kinh tài thuộc
Thành Ủy Huế.
- Nguyễn
Tròn, bồi bàn tiệm ăn Quốc Tế tại đường Phan bội Châu, Huế.
- Nguyễn Bé,
thợ nề tại Quân II thị xã Huế.
- Tên Gù tại
tiệm bán thuốc lá Cẩm Lệ, Quận II thị xã Huế.
- Tên Trần
Văn Linh, tức tên thầy bói Diệu Linh, thuộc Quân II thị xã Huế.
- Chủ tiệm
thuốc Bắc Thiên Tường và hai người con trai là cán bộ Xây Dựng Nông Thôn.
Và còn quá
nhiều, mà trí nhớ tôi không đủ sức nhớ hết. Xin anh em lực lượng Cảnh Sát Quốc
Gia Thừa Thiên/ Huế cùng với tôi bổ túc thêm danh sách này.
Các Đội Tự Vệ
Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân được rãi đều khắp 3 quận, đặc biệt là Quận I, và Quận
II thị xã Huế. Đây là lực lượng sắt máu và tàn bạo nhất. Bọn chúng chính là thủ
phạm của những vụ chỉ điềm, bắt bớ, sát hại hằng trăm, hàng ngàn đồng bào vô tội
ở Huế.
Những nhân vật
chủ chốt trong việc thi hành lệnh “Bạo Lực Cách Mạng hay Bạo Lực Đỏ” gồm:
1- Lê Chưởng,
Chính Ủy mặt Trận Huế
2- Đại Tá Lê
Tư Minh, Tư Lệnh mặt trận Huế.
3-Tống Hoàng
Nguyên: Trưởng Ban An Ninh Quân Khu Trị Thiên
4- Đại Tá
Công an VC Nguyễn Đình Bảy, tự Bảy Lanh, trưởng ban an ninh tỉnh thị ủy Thừa
Thiên –Huế.
5- Trung Tá
điệp Viên Hoàng Kim Loan, thành ủy viên Thành Ủy Huế.
6- Hoàng
Lanh, thành ủy viên Thành Ủy Huế.
7- Hoàng Phủ
Ngọc Tường, tổng thư ký lực lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình.
8- Nguyễn Đắc
Xuân, phụ trách học sinh, sinh viên, và các thành phần “trí thức” của lực lượng
Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình.
9- Nguyễn
Thiết Chủ tịch Quận II.
10- Nguyễn Hữu
Vấn, chủ tịch Quân I.
Kế hoạch được
chia làm 3 giai đoạn hết sức tinh vi thủ đoạn:
Giai đọan I:
Đợt trình diện lần thứ I
Đại lực lượng
nầy chia thành nhiều toán nhỏ, rãi đều trong 3 quận thành phố Huế. Bọn chúng đi
lục soát từng nhà, từng gia đình, kêu gọi tàn binh, Ngụy quân, Ngụy quyền, Cảnh
sát, Công An Ngụy ra trình diện và giao nạp vũ khí để được hưởng khoan hồng.
Ngoài ra,
trong khi lục soát từng gia đình, bọn chúng đã bắt một số người mà chúng đã có
danh sách từ trước.
Trong đợt
trình diện lần thứ I, có một số ít công chức, quân nhân, Cảnh Sát Quốc Gia trốn
tại nhà đã ra trình diện. Họ được bọn chúng cấp giấy đã trình diện và có quyền
đi lại trong khu vực. Từng người một nhận giấy chứng nhận ra về, chẳng gặp trở
ngại khó khăn nào cả.
Giai đoạn
II: Đợt trình diện lần thứ II
Lời kêu gọi
trình diện và giao nạp vũ khí vẫn tiếp tục. Những người còn trốn chưa ra trình
diện, thấy những kẻ đã trình diện đợt I yên bình vô sự trở về nhà, lại còn được
cấp giấy tự do đi lại, nên họ khá yên tâm theo bước những người trước ra trình
diện. Những người trình diện đợt II này cũng được bọn chúng cấp giấy như lần đầu,
và cũng đã được bọn đồ tể cho tự do yên ổn trở về nhà.
Giai Đọan
III: Đợt trình diên lần thứ III
Lời kêu gọi
trình diện vẫn tiếp tục ra rả.
Những người
trước còn nghi ngờ lẫn trốn, chưa ra trình diện hai đợt trước, nay thấy hai đợt
trình diện vừa rồi tất cả đều được an toàn và còn được cấp giấy đi lại trong
vùng, vì vậy họ không còn ngần ngại gì nữa, quyết định ra trình diện.
Cũng như hai
đợt trước, cũng được cấp giấy và thoải mái ra về…
Thế nhưng, tất
cả 3 đợt đã nằm trên thớt, tên đã viết trong sổ tử thần. Chỉ vài ngày sau đó, lực
lương an ninh “Hồng Vệ Binh”, cơ sở nằm vùng đi lục xét từng nhà và yêu cầu những
ai đã đi trình diện trong ba đợt vừa rồi phải trình diện lại tại các địa điểm
trong thành phố mà chúng đã ấn định để học tập. Tin tưởng vào uy tín của cách mạng
như các lần trước, tất cả những người đã trình diện trong 3 đợt nói trên, đều
ngoan ngoãn vâng lệnh cách mạng, kéo nhau đi học tập.
Nhưng rồi mỏi
mòn vợ con trông đợi, cha mẹ mong chờ. Đêm qua đêm, ngày qua ngày, tháng qua
tháng, những người tuân lịnh bọn đồ tể nằm vùng, tuân lịnh đảng cộng sản, đi học
tập đường lối khoan hồng của đảng, đã vĩnh viễn chẳng bao giờ trở lại.
Tất cả đã bị
giết một cách man rợ. Tất cả đã bị trói thành từng xâu, bị đánh vào đầu, kẻ ngất
xỉu, người còn tỉnh táo, đều bị xô đạp xuống hầm chôn sống. Bọn Việt Cộng không
đủ đạn để bắn cho hết từng ấy ngàn người, chúng phải giữ đạn để chống trả quân
đội VNCH, một mặt phải tàn sát bọn dân chúng chạy theo Mỹ Ngụy, nên để tiện việc,
cộng sản và Việt Cộng nằm vùng đã dùng vật cứng quật vào đầu vào người nạn
nhân, rồi xô xuống hố, bất kể là hầm sâu, hay hố cạn. Những hố chôn tập thể này
nằm ở một vài nơi trong thành phố Huế và một số lớn tại các quận Hương Trà, Phú
Vang, Phú Thứ, Hương Thủy, Nam Hòa v.v…
Tất cả nạn
nhân Mậu Thân họ đã không may mắn được chết như Trịnh công Sơn đã viết trong một
bài hát phản chiến: “ không hận thù nằm chết như mơ”, mà họ đã chết trong tư thế
hai tay bị trói bằng đủ các loại dây, dây điện thoại, dây kẽm gai, bị nghẹt thở
và chết trong nỗi hãi hùng uất hận tột độ. Tôi chợt nhớ đến 2 bài hát Trịnh
Công Sơn viết về Mậu Thân, mà từ ngày nó ra đời sau tết Mậu Thân đến bây giờ,
tôi vẫn băn khoăn không tài nào hiểu nổi tại sao nội dung của nó lại có nhiều
điều mâu thuẫn như vậy, hay là tôi không đủ thâm thúy để hiểu? Đó là 2 bài “Hát
trên những xác người” và “Bài ca dành cho những xác người”.
Trong 2 bài
hát này, Trịnh Công Sơn không đá động gì đến thủ phạm đã gây ra cảnh tàn ác
này, cũng như niềm đau của nó đối với thân nhân ở lại, và hậu quả của nó đối với
đất nước, đối với lịch sử. Từ nhỏ, chúng ta đều được dạy câu “một con ngựa đau
cả tàu chê cỏ”, thì Trịnh Công Sơn lại thấy vui hiện tại và những hứa hẹn trong
tương lai qua 2 bài hát về Mậu Thân như sau:
“Mẹ vỗ tay
reo mừng xác con”
“ Mẹ vỗ tay
reo mừng chiến tranh”,
“Chị vỗ tay
hoan hô hòa bình”.
Mẹ reo mừng
xác con? Thật vậy sao?!
Là phó chỉ
huy trưởng Cảnh Sát Đặc Biệt, có mặt trong cuộc chiến và sau đó chỉ huy thực hiện
công tác điều tra tội ác giết người của cộng sản lúc bấy giờ, tôi chỉ toàn thấy
những người mẹ trẻ, già, gào thét ngất lịm bên xác chồng con, thân nhân, trong
không gian u ám chết chóc kinh hoàng của Mậu Thân. Trịnh Công Sơn, ông ta đã chứng
kiến cả trời cả đất, cả người xứ Huế sụt sùi trong bi thảm như sau:
“Chiều đi
lên đồi cao, hát trên những xác người, tôi đã thấy, trên con đường, người ta bồng
bế nhau chạy trốn…Chiều đi qua bãi dâu, hát trên những xác người, tôi đã thấy
những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em”. Rồi nữa,:
“Xác người nằm
trôi sông, phơi trên ruộng đồng, trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh
co… Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh này, bên xác người già yếu, có xác
còn ngây thơ. Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này, trong những vùng lửa cháy,
bên những vồng ngô khoai. Xác người nằm bên nhau, treo trên gầm cầu, trong góc
nhà đổ nát, dưới những hào thông sâu. Xác người còn xương khô, trong khắp bụi bờ,
sau những hè phố vắng, trên dốc đường mấp mô…”
Trịnh Công
Sơn đã ghi nhận cảnh tượng Mậu Thân tại Huế một cách chính xác, nhưng cảm xúc của
cá nhân ông trước tai họa này lại là điều tôi mãi băn khoăn thắc mắc. Những chết
chóc gây ra bởi cộng sản tại Huế là tiền đề cho mùa xuân? để nuôi thơm và thêm
hơi cho đất? cho mạ tươi reo vui? Theo ông, cái chết của đồng bào Huế ngày đó
là những hy sinh cho mai hậu? cho đường đi tới? cho tương lai? Tương lai nào
đây? Tương lai sống với cộng sản chũ nghĩa, thế giới đại đồng? Hả ông Trịnh
Công Sơn?
Không thể chấp
nhận rằng cái chết của những người dân vô tội bởi bàn tay cộng sản trong tết Mậu
Thân là những hy sinh để cho đất nước có được tương lai tươi sáng, như nội dung
bài hát của ông. Điều này cũng chẳng khác nào bọn cộng sản vẫn thường nói rằng,
những cái chết của những thanh niên Miền Bắc theo lệnh Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
Sản vào chiếm Miền Nam là những hy sinh cho đất nước. Thực chất, đó là những
cái chết oan khiên, bị lừa bịp, nhằm đem lại quyền lực cho bọn mưu đồ, tội ác,
và bán nước. Cái chết của những thanh niên bị buộc vượt Trường Sơn là những cái
chết đã mang lại thảm họa cho dân tộc, đó là hôm nay, Việt Nam phải chìm đắm
trong họa cộng sản và nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng.
Công hay tội?
Hay sự hy sinh vô nghĩa? Hay thậm chí sự hy sinh để đem lại thảm họa? Có nhiều
điều lịch sử sẽ đánh giá lại, khi hôn quân bạo chúa hôm nay không còn nữa, và tội
ác sẽ mãi mãi là tội ác, không cách chi bưng bít được
Trịnh Công
Sơn viết:
“Mùa xuân
ơi, xác nuôi thơm cho đất ruộng cày, Việt Nam ơi, xác thêm hơi cho đất ngày
mai, đường đi tới, dù chông gai đã có người. Ngày mai đây, xác lên cây trên khắp
ruộng này, ngày mai đây, xác reo vui những khóm mạ tươi, đồng lúa mới, người ra
đi, dựng tương lai, với tay đầy…”
Tôi suy nghĩ
mãi ngần ấy năm, vẫn không sao hiểu được. Hàng ngàn cái chết thê thảm như thế lại
có làm nền tảng cho niềm vui và tương lai cho đất nước? Làm sao có thể cắt
nghĩa cho sự tương quan giữa cái chết thê thảm của tổng cộng 6527 nạn nhân và sự
hoang tàn của Huế là tiền để để họ Trịnh phấn khởi mai sau ?
Ai có thể luận
giải dùm?
Trong cái mớ
tư tưởng lập lờ ám muội đó, tôi không rõ ông ta muốn nói ai, phía nào là phía “
vỗ tay cho thêm thù hận”?,phía nào là phía “ vỗ tay xa dần ăn năn”? phải chăng,
với ngôn ngữ mập mờ này, ông muốn cùng phe với đám cộng sản Bắc Việt và cộng sản
nằm vùng, bạn của ông, như Nguyễn Đắc Xuân, anh em Hoàng Phủ v.v, đổ tội cho
VNCH chăng? Bởi vì, chính cộng sản và đám nằm vùng ở Huế đã tỉnh bơ cáo buộc vụ
tàn sát dã man tồi tệ này cho quân đội VNCH, cho bom đạn của Mỹ Ngụy. Tôi có lời
khuyên với bọn cộng sản chính thống và bọn Việt Cộng đầy tớ nằm vùng ở Huế rằng,
nếu có điêu ngoa, thì hãy điêu ngoa như thế này mới là sư tổ: “Các quân nhân
VNCH đã đập đầu chôn sống đồng bào Huế!”. Có như thế mới tạm đúng với hồ sơ
pháp y, mới khớp với hình ảnh mà báo chí quốc tế và báo chí Miền Nam tự do đã
ghi nhận thật tại hiện trường, khi cơ quan CSQG Thừa Thiên khai quật các hố
chôn tập thể, Không ai khác hơn là đám bạn Việt Cộng nằm vùng của Trịnh Công
Sơn: anh em Hoàng Phủ, Ngô Kha, Lê Khắc Cầm là một trong những thủ phạm chính
và trực tiếp nhúng tay vào máu đồng bào Huế, nhưng điều đau lòng hơn nữa là sau
biến cố thê thảm này, thì Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục giao du và nối giáo cho cộng
sản . Trịnh Công Sơn đã thóa mạ đời sống tại Miền Nam là nghẹt thở và phi
nghĩa, ao ước có ngày thấy được chủ nghĩa cộng sản hoàn hảo trên quê hương, qua
lá thư Trịnh gởi cho Ngô Kha, giao cho Nguyễn Khắc Cầm, đăng lén trên báo “Đứng
Dậy” của cái gọi là “thành phần thứ ba”. Trịnh Công Sơn đã đau đớn thương tiếc
tên Việt Cộng nằm vùng bị mất tích Ngô Kha, nhưng số phận của hơn 6 ngàn nạn
nhân Mậu Thân thì không. Có chăng chỉ là điều Trịnh Công Sơn nói ngược: “mẹ vỗ
tay reo mừng xác con….”.
Tóm lại, câu
hát “người vỗ tay cho thêm thù hận, người vỗ tay xa dần ăn năn”, có lẽ, ông muốn
dành cho đối thủ của ông, những người cầm súng chiến đấu bảo vệ dân lành, cố gắng
bảo vệ đất nước khỏi thảm họa cộng sản, trong hàng ngủ màu cờ sắc áo của VNCH,
chứ tôi không thể nghĩ rằng ông dành cho các đồng chí của ông
Cũng trong
thời gian nầy, thì tại vùng Bến Ngự, Từ Đàm, Nam Giao, đại đa số dân chúng chạy
ra khỏỉ nhà, đều bị Việt Cộng bắn chận đẩy lui, đành trốn tại nhà. Lực lượng an
ninh của Tống Hoàng Nguyên, Bảy Lanh và đám cơ sở nằm vùng lục xét từng nhà một.
Chúng bắt và dẫn đi một số người. Sau này, khi chúng tôi làm công tác điều tra,
lấy lời khai, dân chúng đã nhận diện cho ty CSQG Thừa Thiên/Huế những tên nằm
vùng thật nguy hiểm như tên: Nguyễn Tú một võ sư môn phái Thiếu Lâm, nhà ở sát
lăng vua Tự Đức, gần đồi Vọng Cảnh.
Tên thứ hai
là Cửu Diên và con trai của y là một sĩ quan thiếu úy QLVNCH đào ngũ theo VC
trước Tết Mậu Thân. Cả hai cha con tên nầy đều ở trong lực luợng của Bảy Lanh.
Trong số những
người bị hai tên Tú và Diên bắt dẫn đi, có hai ông là Tôn Thất Hậu, Chủ tiệm chụp
hình Tự Do tại gần chùa Từ Đàm, và Ông Nguyễn văn Nhẫn chủ tiệm hớt tóc cũng ở
gần đó. Hai ông Tôn Thất Hậu, và Nguyễn văn Nhẫn là bạn rất thân của Cửu Diên
và Nguyễn Tú, vậy mà sau Mậu Thân, thân nhân của hai ông đã tìm thấy xác của
hai ông, được pháp y xác định là bị chôn sống, tại vùng chùa Từ Hiếu.
- Cũng tại
vùng Từ Đàm, Bến Ngự, hai người cháu nội của Cụ Phan Bội Châu là Đại úy Quân Cảnh
Tư Pháp Phan Thiện Cầu, và Phan Thiện Tuờng, cũng bị bọn chúng chôn sống. Oái
ăm thay trong khi đó anh ruột của Đại úy Phan thiện Cầu và Phan Thiện Tường là
Đại Tá Việt Cộng Phan Thiện Cơ đang là Tư Lệnh mặt trân ở Tây Nguyên. Năm 1973
đại tá Phan thiện Cơ là thành viên trong ủy ban kiễm soát đình chiến tại Tân
Sơn Nhất, Sài Gòn.
Đại Tá Việt
Cộng Phan Thiện Cơ, ông có chút ray rứt nào không, khi các đồng chí của ông bắt
hai em ông đem đi chôn sống? Hay đó cũng chỉ là những thường tình trong phong tục
tập quán văn hóa Đảng? Ông noi gương của đồng chí Trường Chinh? Dưới ánh sáng
soi đường của Đảng, thì cha mẹ còn chưa kể, xá gì anh em, phải không ông?
- Cũng tại
vùng Từ Đàm, Ông Võ Thanh Minh một trong những huynh trưởng Hướng Đạo kỳ cựu,
người mà vào năm 1954 đã dựng lều bên hồ Geneve, ngồi thổi sáo phản đối hiệp định
chia đôi đất nước cũng bị Việt Cộng bắt dẫn đi chôn sống.
- Tại vùng gần
chùa Tường Vân, Ông Lê Hữu Bôi chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, là sinh
viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ra ăn Tết ở Huế, cũng bị Việt Cộng bắt đi
chôn sống vì nghi ông Bôi làm cho CIA.
- Tại vùng Cầu
Lòn, Thầy Lê văn Thi, nguyên giáo sư Quốc Học, sau đó du học Mỹ, đỗ PhD về
nguyên tử lực, về nước phục vụ tại lò nguyên tử Đà Lạt, ra Huế ăn Tết, bị Việt
Cộng bắt đi chôn sống vì tội là chuyên viên nguyên tử! Khi bọn chúng bắt thầy
Thi, phụ thân của thầy lo sợ cho con tìm cách can ngăn, cũng bị bọn chúng bắt
luôn. Sau đó gia đình đã tìm thấy xác thầy và ông cụ bị chôn sống gần xã Thủy
Xuân.
Tóm lại, tại
vùng Bến Ngự, Từ Đàm, Trường Cửi, Nam Giao, Thủy Xuân, Lịch Đợi, Cầu Lòn, số nạn
nhân bị chôn sống khoảng hơn 200 người
- Tại nhà thờ
Phủ Cam, sau một thời gian vây kín làng Phủ Cam, cuối cùng bọn VC tấn công và
xông thẳng vào nhà thờ, bắt đi khoảng 300 thanh niên, dẫn lên giam giữ tại Chùa
Từ Đàm. Mãi đến ngày 19 tháng 9 năm 1969 lực lượng hành quân của QLVNCH mới
phát giác ra được 428 xác chết tại khe Đá Mài và vùng lân cận. Sau khi xác nhận,
chứng thật có 300 xác của 300 thanh niên Phủ Cam đã bị VC bắt và dẫn đi.
- Tại nhà thờ
Dòng Chúa Cứu Thế, gần khu An Cựu thuộc Quận III thị xã Huế, có khoảng trên 500
đồng bào đang lánh nạn tại đó. Các đơn vị an ninh của đại tá Công An Bảy Lanh,
các cở sở nằm vùng như cha con ông Thiên Tường, đoàn viên tự vệ khu phố của
Nguyễn Đắc Xuân, tràn vào khu nhà thờ thanh lọc đồng bào. Chúng bắt và dẫn đi
khoảng 300 người, trong đó có Thượng Nghị sĩ Trần Điền. Ba trăm người bị bắt
này đã không bao giờ trở về với gia đình. Tất cả đã bị chôn sống tại vùng Lăng
Xã Bàu, Lăng Xá Cồn thuộc quận Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, trong số đó có Thượng
Nghị Sĩ Trần Điền.
- Trường
trung học Thiên Hựu là nơi Việt Cộng đặt bộ chỉ huy nhẹ của Mặt trận cánh Nam
do Đại Tá VC Thân Trọng Một chỉ huy. Nơi đây cũng là chỗ Đại Tá Công An Việt Cộng
dùng làm nơi giam giữ những nhân vật cao cấp về hành chánh, quân sự của chính
phủ VNCH mà bọn chúng bắt được. Điển hình là Ông Bảo Lộc, Phó Tỉnh Trưởng Tỉnh
Thừa Thiên bị giam giữ tại đây trước khi đưa ra Bắc.
Tại Quận II
trong những ngày đầu của “bạo lực cách mạng”, khởi đi từ ngày mồng ba Tết, nhằm
ngày 2 tháng 1 năm 1968, một số viên chức Quân, Cán , Chính của chính phủ VNCH
đã bị các Đội Tự Vệ khu phố của Nguyễn Đắc Xuân và tên thợ nề Nguyễn Bé Chủ tịch
khu phố của chính quyền cách mạng mới thành lập, lùng bắt tại nhà. Họ bị bọn
chúng hành hạ đánh đập và cuối cùng bị xử bắn. Danh sách quá dài, nếu viết ra
cũng vài trăm người, chỉ xin nêu một vài trường hợp điển hình như:
- Thiếu tá Từ
Tôn Kháng, Tỉnh đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn.
- Ông Trần
văn Cư, Phó giám Đốc Nha CSQG Vùng I
- Ông Lê văn
Phú Quận Trưởng Quận II.
- Ông Trần
văn Nớp, nguyên trưởng ban Nhân viên Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên-Huế.
- Chồng bà
chủ quán bún bò Mụ Rớt
- 13 nhân
viên Cảnh Sát bị bắt tại nhà thuộc khu vực Quận II, tất cả đều bị xử bắn.
Bà Lê Thị
Trâm ở đường Mạc Đỉnh Chi bị người tớ gái là đoàn viên trong đội tự vệ của Nguyễn
Đắc Xuân bắn ngay tại nhà vì tư thù.
Cũng cần nhắc
lại ba vụ giết người tàn bạo và tán tận lương tâm nhất do Nguyễn Đắc Xuân, Tôn
Thất Dương Tiềm, Hoàng văn Giàu thực hiện tại quận I, vụ Tòa án Nhân Dân tại trường
Gia Hội thuộc Quận II do Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế chủ tịch phiên tòa, và bốn
bác sĩ người Đức Giáo sư Trường Đại học Y Khoa Huế bị sinh viên Y khoa Hoàng Phủ
Ngọc Phan bắt và sau đó bị bọn chúng chôn sống gần chùa Tường Vân .
1- Nguyễn Đắc
Xuân xử bắn Trần Mậu Tý.
Rạng sáng
ngày mồng hai Tết, tại khu vực cửa Đông Ba thuộc Quận I thị xã Huế, đội An Ninh
và tự Vệ của Nguyễn Đắc Xuân đã dẫn 6 nạn nhân ra đứng sắp hàng ngang úp mặt
vào tường tại thượng thành ngay cửa Đông Ba. Nhiều nhân chúng đã kể lại cho ty
Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên/ Huế rằng họ nhận diện được 2 nạn nhân trong 6 người
nầy là:
- Ông chồng
bà Nội thương gia, chủ tiệm xe đạp tại gần cuối đường Phan Bội Châu.
- Sinh viên
Trần Mậu Tý.
Các nhân
chúng cũng đã nhận diện được ngoài tiểu đội VC có mặt tại hiện trường, còn có
Nguyễn Đắc Xuân, giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, giáo sư Hoàng Văn Giàu.
Chính Nguyễn
Đắc Xuân đã đích thân xử bắn Trần Mậu Tý, và giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm ra lệnh
cho Tiểu đội VC xử bắn 5 nạn nhân kia.
Vậy Trần Mậu
Tý là ai mà Nguyễn Đắc Xuân đã đích thân xử bắn?
Trần Mậu Tý
chính là nhân viên tình báo của ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên/ Huế hoạt động
trong lòng địch. Anh cũng là đảng viên đảng Đại Việt.
Trong suốt
thời gian cuộc tranh đấu 1966, Trần Mậu Tý còn là sinh viên Đại học Huế. Khi
Nguyễn Đắc Xuân theo lệnh Trí Quang và Trung Tá VC Hoàng Kim Loan thành lập 3 đại
Đội Sinh Viên Quyết Tử, thì Trần Mậu Tý là một trong 3 đại đội Trưởng đại đội
Quyết Tử. Trần Mậu Tý và Nguyễn Đắc Xuân là đôi bạn thân. Tuy là người quốc gia
chân chính, nhưng Trần Mậu Tý rất nặng tình bạn. Trần Mậu Tý đã giúp Nguyễn đắc
Xuân thoát hiểm, khỏi bị chúng tôi vây bắt khi Nguyễn Đắc Xuân đang trốn tại
chùa Tường Vân đợi giao liên VC đưa lên mật Khu vào tháng 7/1966.
Trần Mậu Tý
bất cẩn đã để lộ là nhân viên tình báo và là đảng viên đảng Đại Việt, nên khi đột
nhập vào thành phố, không như người bạn nặng tình nặng nghĩa phía quốc gia,
Nguyễn Đắc Xuân quyết tìm bắt ngay cho được Trần Mậu Tý và thẳng tay xả súng Ak
47 vào người Trần Mậu Tý. Trần Mậu Tý đã nhận lãnh cái chết thê thảm từ chính
người bạn thân, người mà Tý vì tình cảm, đã giúp trốn thoát, nay trở về giết
Tý. Câu nói “cứu vật, vật trả ơn, cứu nhơn, nhơn trả oán” quả không sai khi áp
dụng cho bọn cộng sản.
Một nén
hương lòng cho Trần Mậu Tý, một nhân viên tình báo của ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa
Thiên/Huế, đã bỏ mình vì tận tụy với chính nghĩa VNCH, với đồng bào. Xin được
vinh danh anh, cho dù là đã quá trễ. Bốn mươi mốt năm rồi Tý!
2- Giáo Sư
Hoàng Phủ Ngọc Tường Chủ Tịch Tòa Án Nhân dân tại truờng Gia Hội Quận II thị xã
Huế
Trong những
ngày đầu chiếm Huế, Tống Hoàng Nguyên, trưởng Ban An Ninh Khu ủy Trị Thiên,
cùng hai thành ủy viên Thành ủy Huế là Hoàng Kim Loan và Hoàng Lanh thiết lập
Tòa Án Nhân Dân đầu tiên tại trường học Gia Hội, thuộc Quận II thị xã Huế. Ông
Quan Tòa của tòa án nhân dân là giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hiện diện trong
buổi đấu tố có Nguyễn Đắc Xuân, trưởng đoàn An Ninh Bảo Vệ Khu Phố, Hoàng Phủ
Ngọc Phan, sinh viên y khoa, Nguyễn Thiết chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Quận II,
Nguyễn Bé, chủ tịch khu phố. Ngồi đằng sau là Hoàng Lanh và Hoàng Kim Loan,
cùng tham dự và quan sát phiên tòa
Nạn nhân thuộc
thành phần Công Chức, Quân Nhân, Cảnh Sát, trốn tại nhà, bị bắt. Ông tòa Hoàng
Phủ Ngọc Tường xếp họ vào loại ác ôn.
Một số khác
là cô nhi quả phụ, vợ con của anh em quân nhân, cảnh sát, Địa Phương Quân,
Nghĩa Quân, cán bộ Xây dựng Nông Thôn đã tử trận. Tất cả những người nghèo khổ
nầy, đi làm tạp dịch như dọn dẹp phòng ngủ, giặt quần áo v.v…cho lính Mỹ tại
căn cứ Dạ Lê, Phú Bài hoặc ở cơ quan MAC-V kiếm sống, nuôi con. Số người này được
ông tòa Tường xếp vào lọai làm việc cho tình báo Mỹ CIA.
Với những tội
danh nêu trên, tất cả phải bị nhân dân anh hùng Thừa Thiên-Huế và Chính quyền
Cách mạng trừng phạt đích đáng để làm gương. Đó là bản án tử hình!
Kết quả có
204 nạn nhân lãnh bản án tử hình. Tất cả bị chôn sống ngay tại chỗ, trong khuôn
viên trường Gia Hội.
Tháng 5/1972
khi ty CSQG Thừa Thiên bắt được Trung Tá VC Hoàng Kim Loan, đích thân tôi và một
số sĩ quan cảnh sát khác đã thẩm vấn y, và điều tra rất kỷ về Tòa Án Nhân Dân tại
trường Gia Hội Quân II thị Xã Huế, thì Trung Tá VC Hoàng Kim Loan nói như sau:
“Tống Hoàng
Nguyên , Hoàng Lanh và tôi hội ý với nhau. Lúc đầu có ý định đưa Nguyễn Đắc
Xuân làm chủ tịch phiên tòa, nhưng sau đó chúng tôi chọn Hoàng Phủ Ngọc Tường,
bởi lẽ, vào thời điểm đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đang giữ chức Tổng Thư Ký Lực Lượng
Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Đây là một lực lượng kết hợp các thành phần
trí thức, tôn giáo, những lực lượng và những cá nhân có uy tín tại Huế đứng lên
chống Thiệu Kỳ, chống Mỹ. Vậy tòa án Nhân Dân giao cho Tổng thư ký của lực lượng
này, đại diện dân chúng Huế ngồi xử các tên ác ôn, các tên tay sai của Thiệu-Kỳ
và Mỹ, là thích hợp và thuận lòng dân.”
3- Hoàng Phủ
Ngọc Phan bắt và sát hại bốn giáo sư Y Khoa người Đức, thầy của Phan, và bắn chết
3 người bạn sinh viên y khoa.
Theo chương
trình trợ giúp của chính Phủ Cộng Hòa Liên Bang Đức với trường Đại Học Y Khoa
Huế, bốn vị bác sĩ người Đức có tên là:
- Bác Sĩ
Raimund Discher.
- Bác Sĩ
Hort Gunther Kranick và vợ
- Bác sĩ
Slois Alterkoster.
Họ đến Huế
giảng dạy tại trường Đại Học Y Khoa, đồng thời còn làm việc tại bệnh viện Trung
Ương Huế. Họ là ân nhân của hằng ngàn bênh nhân địa phương. Vậy mà những ngày đầu
chiếm thành phố, nhiều nhân chứng đã khai với ty cảnh sát Thừa Thiên/Huế rằng,
họ thấy rõ Hoàng Phủ Ngọc Phan đi cùng toán An Ninh Thành đến vây bắt 4 vị thầy
của mình, và sau đó tham dự vào cuộc chôn sống bốn bác sĩ này tại vùng gần chùa
Tường Vân.
Ngoài ra,
khi chiếm và lục soát đập phá một số phòng ốc và dụng cụ của trường Đại Học Y
Khoa, Hoàng Phủ Ngọc Phan đã bắt gặp một người bạn học của y đang lẫn trốn với
người em gái trong đó, Phan đem người bạn này ra bắn ngay truớc sự chứng kiến
kinh hoàng của người em gái. Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn sinh viên này vì tình nghi
anh ta làm cho tình báo CIA. Sau đó Hoàng phủ Ngọc Phan bắt cô gái dẫn về nhà của
cô ta để tìm kiếm thêm hai người anh của cô ta ở đường Hàm Nghi thuộc quận III
thị xã Huế.
Khi Hoàng Phủ
Ngọc Phan và toán VC An Ninh Thành ập vào nhà, hai người anh của cô ta đang trốn
trên gác. Những loạt đạn AK 47 của đám An ninh Việt Cộng và của Hoàng Phủ Ngọc
Phan đã đốn ngã hai thân xác từ trên gác rơi xuống nền nhà. Mọi người trong gia
đình kinh hoàng gào thét. Ông Cụ Nội của cô ta, uất hận chữi rủa Hoàng Phủ Ngọc
Phan, bị Phan bắn một lọat AK vào người, ông cụ ngã xuống chết tươi tại chỗ. Cô
gái đó nay là một thiếu phụ và cách đây gần một năm đã kể lại với tôi câu chuyện
đau thương nầy bằng một giọng nói đầy đau buồn:
“ Ông biết
không, chứng kiến cảnh ba người anh ruột và ông nội bị bắn chết trước mắt mình,
tôi xin lỗi ông mà nói như thế nầy: “Khi đó tôi quá sợ đã đi tiểu và đi tiêu
trong quân hồi nào mà không hay”.
“Mẹ tôi đã
điên loạn, và mất trí gần một năm sau đó, tôi cũng vậy”.Thiếu phụ đó đã viết bản
trường thuật đầy đử sự việc trên cho tôi, và bà ta bằng lòng đứng ra tố giác và
làm nhân chứng vụ này, một khi mà chuyện tội ác Mậu Thân được đưa ra trước Tòa
Án Hình Sự Quốc Tế.
Vì lý do an
ninh của bà ta và gia đình, tôi không thể tiết lộ danh tánh và nơi cụ ngụ của
bà ta, chỉ có thể nói rằng, bà ta hiện đang định cư tại Hoa kỳ và sẵn sàng phối
hợp với chúng ta đứng ra truy tố tên sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Phan ra Tòa án
Hình Sự Quốc Tế về tội diệt chủng.
Tóm lại, Hồ
Chí Minh, Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam và những kẻ nội thù, những tên Việt
Cộng nằm vùng, là những tên đồ tễ, những kẻ giết hại dân Huế không gớm tay
trong những ngày đầu xuân Mậu Thân 1968 tại Huế.
Huế 624 giờ
kinh hoàng, Huế, địa ngục trần gian có thật!
Huế chỉ
trong 624 giờ đã có 5327 thường dân vô tội bị Việt Cộng sát hại và 1200 người bị
bọn chúng bắt đi mất tích. Đây là một cuộc tàn sát của đảng cộng sản đối với
người dân Miền Nam, dã man tàn bạo chưa từng có trong lịch sử Việt.
Trong số
5327 người bị sát hại, có một số là viên chức quân, cán, chính, các vị tu sĩ và
một số nhân viên ngọai quốc, được liệt kê như sau:
1- Ông Trần
Đình Thương, Phó thị Trưởng thị xã Huế bị bắn ngay trước tư gia.
2- Thượng
Nghị Sĩ Trần Điền bị bắt tại dòng Chúa Cứu Thế, sau này tìm ra thi hài tại Lăng
Xá Bàu.
3- Ông Bửu Lộc
bị bắt và dẫn ra Bắc
4- Thiếu tá
Từ Tôn Kháng, Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn bị bắn chết tại tư
gia.
5- Nguyễn
văn Cư, Phó Giám Đốc CSQG/Vùng I bị bắn chết tại tư gia.
6- Lê văn
Phú, Quận Truởng Quân II bị bắn chết tai tư gia.
7- Trân văn
Nớp, trưởng ban Nhân Viên BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế, bị bắn chết gần tư gia.
8- Ông Nguyễn
Văn Đãi, Phụ tá Đại Biểu Chính phủ, bị bắt đưa ra Bắc.
9- Ông Nguyễn
Khoa Hoàng, chánh án Tòa Thượng Thẩm Huế, cùng người con trai, bị bắn chết tại
tư gia.
10- Thiếu tá
Bửu Thạnh, Ủy viên tòa án Quân Sự mặt trận, bị bắt và bị bắn chết.
11- Chuyên
viên nguyên tử lực giáo Sư Lê văn Thi và phụ thân bị bắt và bị chôn sống gần xã
Thủy Xuân.
12- Bốn vị
giáo sư đai học Y Khoa người Đức Tình nguyện giảng dạy tại trường Đại Học Y
khoa Huế.. Ngoài ra bốn vị này làm còn việc tại Bệnh viện Trung Ương Huế, cứu sống
rất nhiều bênh nhân. Tất cả đều bị bắt và bị chôn sống:
- Bác Sĩ
Raimund Discher
- Bác Sĩ
Hort Gunther Kranickvà bà vợ
- Bác Sĩ
Slois Alterkoster
13- Linh Mục
Dom Roman Guillaurn bị bắn chết ngay tại dòng tu Thiên An.
14- Linh mục
Urban và Gay thuộc Dòng tu Thiên An cũng bị bọn chúng bắt đi, sau đó tìm được
xác của họ gần lăng Vua Đồng Khánh.
15- Linh mục
Bửu Đồng bị bắt và sau đó tìm được xác tại Phú Xuân.
Căn cứ theo
báo cáo cửa lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế, và cá
nhân tôi đã hiện diện tại tất cả các hiện trường, có khoảng 19 địa điểm có mồ
chôn tập thể ở một số quận tại tỉnh Thừa Thiên và 3 quận ở thành phố Huế, được
liệt kê như sau:
1- Quận I:
Mồ chôn tập
thể gần cửa Đông Ba.
2- QuậnII:
Trường học
Gia Hội, Bãi Dâu, chùa Áo Vàng tức Tăng Quang Tự.
3- Quận III:
Sau lưng Tiểu
Chủng Viện.
4- Quận
Hương Thủy:
Cồn Hến,
Lăng Xá Bàu, Xăng Xá Cồn, Nam giao, gần Chùa Tường Vân, cạnh lăng vua Tự Đức,
lăng vua Đồng Khánh, cạnh lăng Đông Cung Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh, Chùa Từ Hiếu,
Nhà máy nước Vạn Niên, đồi Quãng Tế, khu vực dòng tu Thiên An, Lăng Vua Khải Định,
Làng Châu Chữ.
5- Quận
Hương Trà:
Cầu An Ninh,
trường tiểu học An Ninh Hạ, chợ Thông, trường Văn Chí.
6- Quận Phú
Vang.
Vùng Tiên Nộn
7- Quận Phú
Thứ:
Vùng Đồng
Di, Tây Hồ.
8- Quận Nam
Hòa :
Vùng Định
Môn, Lăng Vua Gia Long, Khe Lụ, Khe Đá Mài.
Mỗi mồ chôn
tập thể, ít thì năm, mười thi hài, nhiều thì vài trăm thi hài.
Có thể nói
- Huế trước
Mậu Thân 1968:
Dân chúng sửa
soạn đón xuân trong niềm hân hoan của những ngày thành bình hưu chiến không tiếng
súng.
- Huế trong
những ngày Tết Mậu Thân 1968:
Dân chúng
đón xuân trong nỗi kinh hoàng bị Cộng Quân và Việt Cộng nằm vùng tấn công,
trong súng nỗ vang trời từ bốn phương tám hướng, trong máu và nước mắt, trong
thây người và thây người
- Huế sau 26
ngày Tết Mậu Thân 1968:
Dân chúng Huế
đón xuân trong hoang tàn, đổ nát, trong tang tóc đau thương, trong chờ đợi mòn
mõi người thân, những người đã bị VC bắt dẫn đi, mãi vẫn chưa thấy về.
Rồi ngày
tháng qua, họ chợt hiểu. Những người thân yêu của họ bị Việt Cộng bắt đi, sẽ
vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Họ biết rằng, tất cả đã bị giết bằng cách chôn
sống, bằng mã tấu, bằng vật cứng đập vào đầu. Thân xác những người này đã bị
vùi lấp dưới hầm sâu, hố cạn, đây đó trên đồi núi Thừa Thiên-Huế.
- Huế sau Mậu
Thân 1968:
Huế với hằng
ngàn cổ quan tài đơn sơ xếp thẳng hàng, với khăn tang áo chế đầy đường, đầy phố.
Huế phủ kín một màu tang. Một giải dài vô tận khăn tang trắng kéo dài từ thành
phố lên tận Ba Đồn, nơi an nghỉ tập thể của hằng ngàn dân lành vô tội.
Đã bốn mưoi
mốt năm trôi qua, đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn lặng thinh, giấu nhẹm, chối bỏ vụ
tàn sát diệt chủng này. Những tội đồ, những tay sát thủ, những quỹ dữ nhúng tay
vào máu dân lành vô tội tại Huế, Mậu Thân 1968 nhờ vào sự ém nhẹm của đồng bọn
đảng cầm quyền, vẫn được an nhiên tự tại trước lưới trời lồng lộng. Chúng, Nguyễn
Đắc Xuân, anh em Hoàng Phủ, Nguyễn thị Đoan Trinh, Nguyễn Đóa, thầy bói Diệu
Linh, v.v, vẫn gượng gạo cố chối tội sát nhân.
Vào ngày 1
tháng 2 năm 2008, tức là ngày 25 tháng Chạp năm Đinh Hợi, 5 ngày nữa là Tết Mậu
Tý, Trung Uơng đảng Cộng Sản Việt Nam mở một cuộc mít-tinh diễn hành rầm rộ kỷ
niệm 40 năm ”Chiến thắng Mậu Thân 1968” tại thành phố Sài Gòn. Nhiều cấp lãnh đạo
cũ và mới của Trung Ương đảng Cộng Sản đều có mặt ăn mừng giết được tổng cộng
6527 người và phá hủy di tích lịch sử cố đô.
Chúng làm điều
càn rỡ này, mục đích để khỏa lấp tội ác! Chúng khỏa lấp được không?
Trong lúc bọn
chúng làm lễ “40 năm chiến thắng Mậu Thân”, với cờ xí sặc sỡ, múa ca nhảy nhót
vang lừng, thì tại Huế, 5327 bàn thờ vong linh dân lành vô tội cũng âm thầm đơn
sơ hương khói. Thân nhân của những vong linh này đang nuốt nước mắt cho sự oan
khiên phẫn nộ thấu trời. Lễ nào cũng gọi là lễ, nhưng có những lễ trái với đạo
làm người, trái với luân thường đạo lý. Đó là lễ hội ăn mừng Mậu Thân của cộng
sản. Chúng ăn mừng phá hủy được cố đô của bọn phong kiến! Chúng ăn mừng giết được
tổng cộng 6537 người Việt Nam!
Câu hỏi được
đặt ra: Ai đã ra lệnh, ai thi hành, ai chịu trách nhiệm vụ tàn sát dân Huế
trong Mậu Thân năm 1968?
Bộ chính trị
đảng Công Sản Việt Nam vẫn phớt lờ không đá động đến biến cố lịch sử đầy máu
này, như họ đã từng không đếm xỉa gì đến các tội ác trước đây của họ như Cải
Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại Chống Đảng v.v.
Nhưng điều tệ
hại nhất là chúng lại còn ĂN MỪNG MẬU THÂN!!
Trời cao đất
rộng sao vẫn để bọn vô nghì này tồn tại?
- Cựu Đại Tá
Cộng Sản Bùi Tín, hiện đang sống tại Pháp, một đảng viên Cộng Sản lâu đời, đã
gián tiếp biện hộ cho Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam bằng cách đổi trắng
thay đen như sau:
“ Khi mở cuộc
tiến công vào Huế, bộ đội miền Bắc đã cơ bản chiếm được thành phố Huế, vào đêm
mồng 4 tháng 2, ngay lúc ấy đã có 5 ngàn Sĩ Quan, quân nhân đủ lọai ra trình diện.
Trong bản
quy định kỷ luật chiến trường có ghi:
Không được
đánh đập tù binh, chỉ có các cán bộ chỉ huy và chuyên môn mới được hỏi cung tù
binh…
Kiểm tra lại
thì không một ai, không một cấp nào ra lệnh thủ tiêu tù binh cả.”
Thưa ông Bùi
Tín, miệng lưỡi những tên Cộng Sản điếm đàng xưa nay đều như vậy! Xin ông đừng
đi vào vết xe đổ này. Thực tế làm gì có chuyện 5 ngàn sĩ quan, quân nhân VNCH đủ
loại ra trình diện các đồng chí của ông Bùi Tín trong đêm 4 tháng 2 năm 1968.
Ông Bùi Tín, một người cộng sản đã cảnh tỉnh, một người Việt Nam từng theo cộng
sản tương đối có tư cách, ông đã thấy rõ ràng đảng cộng sản là Cơ Sở Sản Xuất Tội
Ác, sao ông vẫn còn có thể bịa đặt để binh vực đến như thế?
Nếu 5 ngàn
quân nhân quân lực VNCH ra trình diện, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản để yên cho
họ? Ông nói chuyện thần thoại đấy sao? Thưa ông Bùi Tín?
Xin ông vui
lòng trả lời tôi, Liên Thành, cựu chỉ huy trưởng lực lượng CSQG Thừa Thiên/ Huế,
và tập thể như anh em chiến hữu của tôi, và nhất là đồng bào Huế, câu hỏi trên.
Thực tế là
5327 thường dân Huế vô tội, một số bị lùa bắt, một số vì tin lời dụ dỗ của bọn
chúng, ra trình diện trong thời gian 22 ngày chiếm đóng Huế, đã bị các đồng chí
của Ông Bùi Tín bắt giết. Họ không mặc quân phục, cũng chẳng cầm súng chiến đấu
tại mặt trận. Họ chẳng là hàng binh và cũng chẳng phải tù binh, họ chỉ là dân
thường, tại sao đảng cộng sản lại ra lệnh giết họ?
Con số 5327
thường dân bị giết là “tù” dân sự, một số bị bắn chết tại nhà, tại thành phố, số
lớn còn lại bị các đồng chí của ông Bùi Tín sát hại truớc khi thua trận tháo chạy.
Vậy mà ông Bùi Tín còn nói những người bị sát hại là do bom đạn của Mỹ và VNCH!
Nay, một số tên Việt Cộng Nằm Vùng như anh em Hoàng Phủ, Nguyễn Đắc Xuân cũng bắt
chước luận điệu quen thuộc của ông và đảng cộng sản để chối tội. Lời chối tội
này còn ấu trĩ và hài hước lắm, làm sao che mắt thế gian?
Xin Hỏi ông
Bùi Tín, bom đạn nào của Mỹ của VNCH làm cho 5327 nạn nhân bị chết? khi mà tất
cả khi khai quật tử thi, các bác sĩ pháp y đã nhận định một số bị chết vì ngột
thở vì bị chôn sống, một số khác chết vì bị vật cứng đập vào đầu bể sọ? Chúng
tôi, những nhân viên công lực và chuyên viên của chính phủ VNCH, chúng tôi được
huấn luyện và đào tạo để làm nhiệm vụ dưới ánh sáng mặt trời, dưới ánh sáng của
công lý, luật pháp, sự thật và dưới ống kính của báo chí quốc nội quốc tế,
không phải như các ông và cựu đồng chí các ông, đó là thực thi bạo lực cách mạng
dưới ánh đuốc soi đường của Mác Lê, của những tên đồ tể thế giới: Stalin, Mao
Trạch Đông, Hồ Chí Minh v.v mà thành tích giết trên 100 triệu người trên thế giới
là bằng chứng không thể chối cãi. Cho nên, lời đổ tội để chạy tội này chỉ làm
tăng sự khinh thường của người dân Việt Nam và của anh em quân nhân, cảnh sát
quốc gia VNCH chúng tôi với đối với bọn cộng sản và bọn đầy tớ nằm vùng của
chúng mà thôi.
Ông cố xuyên
tạc sự thật để chạy tội sát nhân, diệt chủng cho Hồ Chí Minh, cho đảng Cộng Sản
Việt Nam, liệu ông có làm được điều này với lịch sử? Hay là hành động đó chỉ
làm giảm uy tín cả nhân của ông?
Xin tặng ông
và bất cứ những ai cố tình bênh vực tội ác của bọn cộng sản Việt Namvài câu thơ
của Tố Hữu:
Giết giết nữa
bàn tay không phút nghĩ
Cho ruộng đồng
lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền
lâu cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ
Tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt!
- Nguyễn Đắc
Xuân tên đại đồ tể sắt máu, giết người không gớm tay cũng đã chối tội, “ Ngay
khi trân đánh bắt đầu, tôi ở tuyến đầu của Bộ Chỉ huy Cánh Bắc. Vài ngày sau
lui về phía sau lo cho thương binh!”.
Như vậy cuộc
tàn sát dân lành vô tôi tại Huế trong suốt 22 ngày Nguyễn Đắc Xuân không nhúng
tay vào sao? Có kẻ nào đó đã giả dạng Nguyễn Đắc Xuân? một Nguyễn Đắc Xuân sắt
máu, hận thù, vai mang AK47, tay cầm súng lục K54, rút súng bắn thường dân, ngụy
quân, ngụy quyền, công an, cảnh sát ngụy không chút nương tay. Không phải là
Nguyễn Đắc Xuân, mà là kẻ nào đó đã giả dạng? Kẻ đó hẳn cũng đã giả dạng Nguyễn
Đắc Xuân bắn chết Trần Mậu Tý, người bạn chí thân của Nguyễn Đắc Xuân, đã từng
nặng tình giải thoát cho y?
Và cũng kẻ
nào đó đã giả dạng Nguyễn Đắc Xuân sáng ngày mồng hai Tết đi kêu gọi đồng bào
Huế trong Quận I và Quân II hãy treo cờ Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa
Bình của Ông Thích Đôn Hậu lên, nếu không có thì lấy cờ Phật Giáo treo lên!
Kẻ âm mưu vu
oan giá họa cho Phật Giáo cũng không phải là Nguyễn Đắc Xuân! Ai đó, chứ không
phải Nguyễn Đắc Xuân???
Sau gần 41
năm, tuổi đời mỗi ngày mỗi nhiều, qua bao thăng trầm thay đỗi của lịch sử, sự
thật đã rõ ràng, thì Nguyễn Đắc Xuân vẫn vậy. Vẫn giọng điệu sắt máu, vẫn lưu
manh điếm đàng hạ cấp. Một thay đổi độc nhất của Nguyễn Đắc Xuân là tự phong và
hãnh diện cho mình là “Nhà Huế Học”!
Nguyễn Đắc
Xuân không còn hãnh diện nghề “Việt Cộng Nằm Vùng” nữa sao? Mà lại chuyển thành
nghề “Nhà Huế Học”? cái học vị này nghe khá buồn cười, ngô nghê, và hợm hĩnh. Tất
cả những gì Nguyễn Đắc Xuân viết về Huế, về Triều Đại nhà Nguyễn đều do một số
tài liệu mà sau 1975 ông ta đã dùng quyền hạn của tên sát nhân nằm vùng Mậu
Thân Huế, cướp giựt tại một vài nơi trong Đại nội, trong thư viện đem ra sao
chép lại, rồi tự phong là “Nhà Huế học”! Và nhà “Huế Học” Nguyễn Đắc Xuân cũng
không bao giờ đề cập đến tết Mậu Thân 68 và vụ thảm sát 5327 đồng bào Huế vô tội!
Như vậy, có thể tự gọi là nhà “Huế Học” không? Viết về Huế mà không viết về Mậu
Thân thì danh từ “Nhà Huế Học” nghe chừng như không ổn, có phải vậy không ông
Nguyễn Đắc Xuân?
LIÊN THÀNH
0 comments:
Post a Comment