CHÍNH KHÍ VIỆT

Wednesday, November 9, 2022

(BÀI 40) Phạm Quang Trình: Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng qua lời trối trăng của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu

 Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng qua lời trối

trăng của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu 



Phạm Quang Trình
Qua bài “Những lời trối trăng của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu” tháng 07 năm 2011, người viết đã không đề cập nhiều đến Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Nay nhân dịp Giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu lần thứ 50 (1963-2013), người viết xin được bổ túc ít nhiều những thiếu sót đó.
Trước hết, xin ghi lại nguyên văn Lời Trối Trăng của ông Cố vấn như sau: 
Anh Em Nhớ Đến Tôi….
Mấy ngày trước đây – sau khi bọn quá khích phản loạn oanh tạc Dinh Độc Lập, - có một số anh em ngoại quốc cũng như trong nước đến thăm và chúc mầng cho tôi. Tôi có trả lời rằng: “Cái việc sống, việc chết của chúng tôi là ở trong tay Đấng Chí Tôn. Người để tôi sống hay là tôi chết, thì tôi cũng xin anh em nhớ sáu điều mà tôi đã đóng góp vào chế độ này.
Trong sáu điều đó:
Điều thứ nhất là: Lý Thuyết Nhân Vị
         thứ hai là: Hiến Pháp (đưa lý thuyết Nhân Vị vào trong Hiến Pháp
                          bằng chủ trương Nhân Vị Cộng Đồng, Đồng Tiến Xã Hội).
         thứ ba là: Chánh sách Phát triển cộng đồng.
         thứ bốn là: Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa
         thứ năm là: lối Biệt Kích, Biệt Cách
         thứ sáu là: Ấp Chiến Lược
Dầu tôi sống hay là tôi chết, anh em nhớ đến tôi, thì nhớ tiếp tục sáu điều đó. Tôi tưởng những điều vừa kể là những điểm phù hợp (với hiện trạng Việt Nam) - những giải pháp quân dân chính- để giải quyết vấn đề chậm tiến.”
                                        Lời ông Ngô Đình Nhu
(trích bản ghi âm cuộc nói chuyện ngày 17.03.1962 trong Tập San Chính Nghĩa số 1 ngày 03 tháng 01 năm 1983 do ông Đỗ La Lam chủ trương)
Qua lời trối trăng nói trên, ông Ngô Đình Nhu không nhắc đến Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng do ông sáng lập và là Tổng Bí Thư, mà chỉ nói đến Lý Thuyết Nhân Vị, phải chăng ông đã bỏ quên Đảng Cần Lao? Theo thiển ý không hẳn như vậy. Tại sao? Trước khi có những suy luận về Lời Trối Trăng của ông Cố Vấn, người viết xin lược thuật lại một số sự kiện xẩy ra sau ngày 1-11-1963.
Sự thất bại nặng nề của nhóm tướng lãnh trong cuộc đảo chánh 1-11-1963
Năm 1963 có thể nói là thời điểm cao của Đệ Nhất Cộng Hòa. Lý thuyết Nhân vị đã được đưa vào Hiến Pháp 26-10-1956 rồi và đang được thực hiện qua quốc sách Ấp Chiến Lược với chủ trương Nhân Vị - Cộng Đồng - Đồng Tiến. Tất cả các chương trình của Chính phủ đều được thực thi trên cơ sở ấy. Các bài diễn văn hoặc Thông Điệp của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ít nhiều đều đề cập đến chủ thuyết Nhân Vị - một chủ thuyết đấu tranh nhằm bảo vệ nhân phẩm và quyền tự do của con người. Nhưng biến cố 1-11-1963 đã xẩy ra khi bọn tướng lãnh đâm thuê chém mướn cho CIA dùng Quân Đội lật đổ chế độ Cộng Hòa và giết hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu thì việc thực thi lý thuyết Nhân vị trên hình thức đã bị đình chỉ. Từ đây, để che giấu bộ mặt lem luốc bỉ ổi làm tay sai cho CIA, bọn đâm thuê chém mướn và lũ côn đồ đội lốt Tôn giáo đã cố tình vẽ lại hình ảnh Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng như một thứ công cụ ác ôn của chế độ và quên đi biết bao công trình mà Đảng viên Cần Lao đã đóng góp xây dựng cho nền Cộng Hòa Việt Nam. Cũng từ đây, bọn đâm thuê chém mướn cho CIA và lũ con đồ đội lốt Tôn giáo ra sức truy lùng các Đảng viên Cân Lao và những nhân vật liên hệ mật thiết đến chế độ cũ để bắt giữ, tống tiền, đồng thời phá hủy công trình chống Cộng do Quốc Sách Ấp Chiến Lược đem lại đang trên đà tiến bộ. Nhưng cũng thật ô nhục cho chúng, khi cái gọi là cuộc “Cách Mạng 1-11-1963” chưa được đầy 3 tháng thì tình hình Việt Nam trờ nên tồi tệ chưa từng thấy nên CIA đã phải xóa bài làm lại qua cái gọi là cuộc Chỉnh Lý của Nguyễn Khánh ngày 30-01-1964 đuổi cả bọn tay sai về vườn chăn gà cho vợ.
Thật vậy, khi nắm được chính quyền ngày 2-11-1963 rồi, tập đoàn đâm thuê chém mướn với các tên Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, Mai Hữu Xuân (trong đó có Đôn, Đính, Khiêm đều là thứ Cần Lao gộc) không biết làm gì cả. Hội Đồng Nhân Sĩ với trên sáu chục nhân vật, trong đó bao gồm cả mấy ông trong nhóm Caravelle trước đây ồn ào thì nay có cơ hội vẫn chỉ họp bàn cũng chẳng đưa ra được một giải pháp nào. Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ bị dư luận quần chúng gọi đích danh là “Chính phủ rùa” vì chậm chạp và bất lực! Nói tóm lại, thành phần mới này chỉ có tài phá hoại mà không có khả năng xây dựng.  Những sự kiện sau đây đã cho thấy tài phá hoại ác ôn của họ:
- Giết hại một cách dã man Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu khi hai vị đã công khai ra trình diện. Nếu 2 nhân vật là ngưởi có tội thì cũng phải đưa ra tòa án xét xử đàng hoàng, chớ sao lại phải hạ sát một cánh lén lút dã man. Đã vậy, bọn tay sai còn gian dối tuyên bố rằng hai ông đã tự sát khiến báo New York Time của Mỹ đã đặt ra ngay câu hỏi: “Bị trói vặt cánh khuỷu mà tự sát được sao?”
- Truy lùng các nhân vật và những Đảng Viên Cần Lao liên hệ đến chế độ để bắt giữ và tống tiền. Điều này thì quá rõ ràng. Hậu hết các nhân vật cũ đều bị bắt và bị tống tiền. Điển hình nhất là trường hợp ông Huỳnh Văn Lang, nguyên Giám Đốc Viện Hối Đoái, bị nghi ngờ là giữ tiền cho Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng, may mà bà vợ ông lo chạy chọt mấy ông tướng nên sau cũng được thả về.
- Nhận tiền để thả tù Việt Cộng gồm những thành phần tình báo nguy hiểm mà Đoàn Công Tác Đặc Biệt Mìền Trung đã bắt giữ, khai thác từ 1954 đến 1963, trong đó có những tên gián điệp nguy hiểm như Trần Quốc Hương tức Mười Hương và Đại tá Lê Câu. Nổi tiếng tham nhũng để thả tù Việt Cộng là 2 tên tướng Mai Hữu Xuân và Đỗ Mậu. Sau này còn có Hà Thúc Ký thuộc Đảng Đại Việt, Bộ Trưởng Nội Vụ thời chính phủ Nguyễn Khánh (vì áp lực của nhóm đội lốt Tôn giáo hay tham nhũng (?) cũng đã ký giấy thả rất nhiều tù Việt Cộng loại nguy hiểm mà không xem xét gì cả.
- Dương Văn Minh tuyên bố công khai hủy bỏ Quốc Sách Áp Chiến Lược. Nội trong ngày 2-11-1963 có tới 800 Ấp Chiến Lược bị phá huỷ. Sau lời tuyên bố của Dương Văn Minh thì con số Ấp Chiến Lược bị phá hủy đã tăng lên trên 3000 trong tổng số 8000 ấp. Sự phá hủy với con số lớn lao đó đã làm cho hệ thống an ninh nông thôn trở nên nguy ngập và là kẽ hở cho Việt Cộng xâm nhập. Thật chưa có cái hại nào như cái hại này! Chính vì thấy nguy cơ xâm nhập phá hoại của Việt Cộng nên TT Nguyễn Ngọc Thơ và Cố Vấn Mỹ đã vội và tuyên bố giữ lại Quốc Sách Ấp Chiến Lược. Thực tế, cho dù có tuyên bố giữ lại Quốc Sách Ấp Chiến Lược, nhưng với bộ mặt lãnh đạo mới sau ngày 1-11-1963 hoàn toàn bất lực, chỉ lo vơ vét và ăn chơi thì làm sao có thể vãn hồi được tình hình an ninh như trước. Lúc đó, phải nói thật rằng hàng ngũ Cán bộ Quốc gia không ai còn đủ niềm tin và can đảm dấn thân chống Cộng tích cực như trước vì sợ bị chụp cho cái mũ “Cần Lao ác ôn”. Suốt hai năm từ 1963 đến 1965, đảo chính và chỉnh lý xẩy ra liên miên như cơm bữa. Các nhân vật lãnh đạo và bọn tướng lãnh đâm thuê chém mướn rớt như sung rụng. Cán bộ hạ tầng không biết nghe ai mà hành động. Kết quả chỉ làm lợi Việt Cộng và tập đoàn phản chiến ngoại bang. Bởi thế mà tình hình an ninh không bao giờ vãn hồi lại được như trước, ngay cả khi Nội Các Chiến Tranh của Nguyễn Cao Kỳ với Bộ Xây Dựng Nông Thôn được Mỹ yểm trợ tối đa qua cơ quan USAID. Trong lịch sử Quân Đội Việt Nam VNCH, thật chưa có một ông tướng nào tham, hèn, ngu như Dương Văn Minh!  Bởi thế mới có câu đối về ông tướng này như sau:
         Đất nước yên vui, cam phận chó săn làm đảo chánh (1-11-1963)
         Non sông nghiêng ngửa, hoá thân ngựa chiến lại đầu hàng (30-04-1975)
Những tên tướng khác sau Dương Văn Minh như Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính… số phận cũng không khá gì sau cuộc Chỉnh Lý 1/1964 của Nguyễn Khánh. Tất cả đều bị cho về vườn. Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính sau này ứng cử vô Thượng Viện cũng chỉ được một nhiệm kỳ rồi sau đó bị loại. Trần Văn Đôn chạy theo nhóm Phật Giáo Ấn Quang của Thích Trí Quang, được giới thiệu ra Quảng Ngãi ứng cử Dân Biểu Pháp nhiệm 2 (1971-1975). Đắc cử vào Hạ Nghị Viên rồi, Trần Văn Đôn lại trở mặt chạy theo phe Dân biểu thân chính được bố thí cho chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng, quay lại đá cho Thích Trí Quang một vố đau điếng. Thật đúng là một tên điếm đàng không hơn không kém do thực dân Pháp nhào nặn.
Khi Nguyễn Khánh được CIA đưa lên thì ông tướng hề này cũng không biết phải làm việc gì hơn ngoài việc cũng lại theo đuôi bọn đâm thuê chém mướn lo củng cố địa vị và vơ vét tiền bạc. Nguyễn Khánh đã không ngần ngại ra lệnh cho cái gọi là Tòa Án Cách Mạng lên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn mà không cho chống án nhằm thỏa mãn mối thâm thù của tên thầy Chùa đầy tham vọng Thích Trí Quang và Cabot Lodge đối với gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa sau khi cho người đến làm tiền ông Ngô Đình Cẩn bị từ chối. Được thể, lũ côn đồ đội lốt Tôn giáo đả làm loạn khắp nơi nhất là tại miền Trung, biến miền Nam thành nơi bỏ ngỏ làm mồi ngon cho Việt Cộng.
Nhóm dân sự ra sao?
Trước hết phải kể đến nhóm Caravelle gồm 18 nhân vật đã gửi Tuyên Ngôn cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 26-04-1960. Nhóm có tên là Nhóm Tự Do Tiến Bộ nhưng vì hội họp ở khách sạn sang trọng Caravelle Sài Gòn nên được dư luận đặt cho cái tên là Nhóm Caravelle. Bản Tuyên Ngôn của nhóm dài ba trang đề cập đến tình hình chung về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế xã hội của Miền Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đọc kỹ nội dung, ai cũng có thể nhận ra tuyên ngôn được viết rất là phiến diện, hàm hồ, không có dẫn chứng cụ thể, rõ ràng. Chính ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã mời cả 18 nhân vật vào Dinh Gia Long họp bàn để lấy ý kiến. Ông Cố vấn yêu cầu nhóm Caravelle viết cụ thể chương trình và đề nghị cải tổ những gì, nhưng các ông về rồi chẳng làm gì cả. Kinh nghiệm cho biết các ông chỉ muốn kiếm ghế. Thực tế, sau ngày 1-11-1963, các ông Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Trần Văn Văn, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Trần Văn Hương, Trần Văn Đỗ, Nguyễn Lưu Viên, vân vân đã có cơ hội tham chính mà chẳng làm nên trò trống gì. Ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng, ông Phan Huy Quát và ông Trần Văn Hương đều làm Thủ Tướng, Trần Văn Đỗ làm Tổng Trưởng Ngoại Giao, Nguyễn Lưu Viên và Trần Văn Tuyên làm Phó Thủ Tướng, vân vân. Ông nào cũng chỉ ngồi được vài ba tháng là phải từ chức vì bất lực, ngoại trừ BS. Nguyễn Lưu Viên được dư luận chính giới cho cái nick là “Viên tròn”, thời nào cũng uốn mình theo để kiếm ghế suốt từ Chính phủ này đến Chính phủ khác.  
Động lực nào đã thúc đẩy nhómCaravelle đưa Tuyên Ngôn? Thưa chính là do sự bất đồng về đường lối chống Cộng giữa TT Ngô Đình Diệm và Mỹ nên Mỹ đã móc nối, xúi giục nhóm Caravelle viết bản kiến nghị gọi là để xin cải tổ nhưng thực chất là chống đối, đòi chia quyền, chia ghế theo cái nhìn của Mỹ. Theo tài liệu dẫn chứng trong bài viết của Lê Bình (trang 137, 138, 139…) trong Đặc San 2012 của Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại với chủ đề “Khí phách nhà lãnh đạo quốc gia” thì hai điều rõ ràng nhất về sụ liên lạc giữa Tòa Đại Sứ Mỹ với nhóm Caravelle là:
(01) Trước khi ông Trần Văn Văn công bố Bản Tuyên Ngôn của nhóm Caravelle ngày 26.4.1960, ông Văn đã tiếp xúc với Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sàigòn ngày 16.03.1960.
(02) Nội dung của Bản Tuyên Ngôn mà ông Trần Văn Văn công bố hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Tòa Đại Sứ Mỹ lúc đó, là lên án chế độ Diệm độc tài, đòi mở rộng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội và mở rộng thành phần nội các.
Những đòi hỏi này trong hoàn cảnh chiến tranh chống Cộng Sản vào thời đó khó mà chấp nhận được. Vì sao?
Duncanson, một nhà bình luận người Anh cũng đã phải viết: “ Nếu bản kiến nghị này được đưa ra trong điều kiện chính trị ổn định của một Miền Nam không bị CS Hà Nội đe dọa tiêu diệt, thì đó là một yêu sách đáng cứu xét nghiêm chỉnh. Điều đáng tiếc nhất là khi Cộng quân đã tấn công đến cấp trung đoàn và các vụ sát hại các viên chức chính phủ hầu như xẩy ra hằng ngày, thì đó là một yêu sách nếu không muốn bảo là ngớ ngẩn, thì ít ra cũng bắt nguồn từ sự thiếu khôn ngoan”. (Bài viết trích lại của TS. Phạm Văn Lưu, Hiến Pháp 26.10.1956 và Thực Tại Chính Trị Miền Nam trong Đặc San 2006 của Hội Ái Hữu NVQG Hải Ngoại).
 Xin nói rõ hơn về các nhân vật nổi cộm này:
- Trước hết là ông Phan Khắc Sửu được đề cử làm Quốc Trưởng VNCH 26-10-1964 do Thượng Hội Đồng Quốc Gia bầu ra. Ở cương vị lãnh đạo, đây là cơ hội ngàn năm một thuở, ông Phan Khắc Sửu nếu có thực tài đã làm nên đại sự. Thực tế, ông hoàn toàn bất lực vì đã không ổn định được tình hình, nhất là sau khi có chuyện bất đồng với Thủ Tướng Phan Huy Quát về việc ông Quát đòi ông Sửu cất chức ông Nguyễn Hòa Hiệp, Bộ Trưởng Nội Vụ, nhưng ông Sửu không chịu, kết quả là 2 ông đều phải từ chức. Nhân thể xin nhắc lại, chính TT Ngô Đình Diệm từng mời Ô. Phan Khác Sữu làm Bộ Trưởng Canh Nông trong Nội các hồi mới về chấp chính 1954, nhưng sau đó vì sợ phe nhóm Bình Xuyên đe dọa nên ông Sửu xin rút lui.
- Ông Trần Văn Hương cũng được mời làm Thủ Tướng sau cuộc Chỉnh Lý của ĐT Nguyễn Khánh 30-01-1964 khi Khánh dẹp bỏ Nội Các của TT Nguyễn Ngọc Thơ 25-02-1964. Mới đầu, ai cũng nghĩ ông là “Ông già gân” vậy mà đám côn đồ đội lốt tôn giáo biểu tình ồn ào, ông không đủ khả năng đối phó nên buộc phải từ chức. Sau này, ông cam phận làm Ứng cử viên Phó Tổng Thống cho Liên Danh Nguyễn Văn Thiệu thì coi như sự nghiệp chính trị của ông đã kết thúc. Kỹ sư Võ Long Triều, nguyên Bộ Trưởng Thanh Niên trong nội các Nguyễn Cao Kỳ đã có nhận xét khá chính xác về ông Trần Văn Hương qua Hồi Ký Võ Long Triều năm 2010. Nhớ lại hồi năm 1954, Ông Trần Văn Hương được TT Ngô Đình Diệm đề cử làm Đô Trưởng Sài Gòn. Ông biểu diễn màn đi làm việc bằng xe đạp. Lúc đó nhiều người lầm tưởng ông là nhà Cách mạng thứ thiệt, nào ngờ khi nhóm Bình Xuyên nổi loạn chống Chính Phủ Ngô Đình Diệm đã hăm dọa ám sát ông, thế là ông cũng theo gương Phan Khắc Sửu co vòi lại và xin từ chức!
- Ông BS. Phan Huy Quát được đề cử làm Thủ Tướng kế nhiệm ông Trần Văn Hương sau khi Thượng Hội Đồng Quốc Gia (THĐQG) được thành lập. Thượng HĐQG đã bầu ông Phan Khắc Sửu làm Qưốc Trưởng. Ông Phan Khắc Sửu chỉ định BS. Phan Huy Quát làm Thủ Tướng và thành lập Nội Các. Nội các của BS. Phan Huy được thành lập vào tháng 2 năm 1965 gồm nhiều nhân vật thuộc nhóm Caravelle, nhưng chỉ được vài tháng ông Quát phải từ chức vì bất đồng với ông Phan Khắc Sửu như đã nói trên. Ông Phan Huy Quát từng tham chính thời Bảo Đại, nhưng khả năng kém cỏi, thiếu uy tín, ăn nói rù rờ, không dứt khoát. Cứ coi cái trò tuyên truyền mỵ dân rẻ tiền của ông thì đủ rõ. Khi làm Thủ Tướng, hằng ngày ông cho mời một vài người giả cả đến gặp ở Phủ Thủ Tướng. Ông hỏi thăm vài ba câu về đời sống của họ. Họ than nghèo, và xin ông giúp đỡ. Ông liền móc bóp cho 3 ngàn thế rồi cho Đài Phát Thanh loan truyền ầm ĩ, nghe thật là vô duyên, ấu trĩ!
- Ông Trần Văn Tuyên là người được tiếng là khôn ngoan đứng đắn, từng làm Phó Thủ Tướng trong Chính phủ Phan Huy Quát. Ông Phan Huy Quát làm Thủ Tướng chưa đầy 3 tháng thì Nội Các sụp đổ nên ông Trần Văn Tuyên cũng đổ theo. Năm 1971, ông Trần Văn Tuyên ra ứng cử và đắc cử Dân Biểu Hạ Nghị Viện, làm Trưởng Khối Dân Tộc Xã Hội mệnh danh là Khối Đối Lập, nhưng thực chất nhóm này chứa chấp cả những tên Dân Biểu thân Cộng như Hồ Ngọc Nhuận, Phan Xuân Huy, Kiều Mộng Thu, Ngô Công Đức mà ông không hay biết (!?). Có lần TT Nguyễn Văn Thiệu thử mời LS. Trần Văn Tuyên vô Dinh Độc Lập “thăm dò” đề cử làm Thủ Tướng thay ĐT.Trần Thiện Khiêm. Ông Trần Văn Tuyên nói ông Thiệu để ông toàn quyền giải quyết vấn đề, vì ông nghĩ có khả năng nói Võ Nguyên Giáp là bạn học cũ phải nghe. Ông Thiệu nghi ngờ khả năng và uy tín của ông Trần Văn Tuyên nên đã không chấp nhận. Sau 30/04-1975, ông Trần Văn Tuyên bị Việt Cộng bắt đi cải tạo và chết thảm trong tù ở ngoài Miền Bắc, không thấy Võ Nguyên Giáp nói năng gì đến “ông bạn học” xưa! Hồ Ngọc Nhuận trong hồi ký “ĐỜI”, chương VI “Tù Cũ, Tù Mới”, trang 6 có nói đến LS Trần Văn Tuyên: “Hôm gặp nhau khi đi trình diện với Quân Quản ở trụ sở Hạ Viện, anh Tuyên còn lạc quan nói với tôi: “Chế độ mới không có luật sư, nhưng tôi hy vọng sẽ được làm bào chữa viên nhân dân” ... Pháp đình chế độ mới có “ bào chữa viên nhân dân ” thiệt, nhưng không có anh, cũng không có hàng ngũ luật sư, cũng không có “ nhân dân ”. Chỉ có cán bộ không hà.”
Bởi đó, có người đưa ra nhận xét: “Không ai khôn ngoan mà lại ngây thơ như ông Trần Văn Tuyên!”
- BS. Nguyễn Tiến Hỷ, thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng, được TT Nguyễn Văn Thiệu mời làm Quốc Vụ Khanh đặc trách Nội Vận năm 1971. Người viết có lần đến thăm ông ở Văn Phòng để trình bày về việc xây dựng và củng cố hàng ngũ Cán Bộ Quốc Gia. Ông tiếp chuyện cởi mở, vui vẻ, nhưng khi đề cập đến công tác nội vận thì ông quay ra đả kích dữ dội Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khiến người viết hết sức ngạc nhiên! Chỉ mấy tháng sau, ông Nguyễn Tiến Hỷ từ chức.
- Sau cùng phải nói đến nhân vật được tiếng to mồm và ồn ào nhất là BS. Phan Quang Đán. Ông Phan Quang Đán đã từng là Bộ Trưởng Thanh Niên (?) thời Bảo Đại. Qua thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Phan Quang Đán không được trọng dụng nên chủ trương viết báo và lập Đảng đối lập. Vì dính đến vụ phản loạn của phe nhóm Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Chánh Thi trong biến cố 11-11-1960, lên Đài Phát Thanh đả kích chính phủ, Phan Quang Đán bị bắt nhốt ngoài Côn đảo. Sau 1-11-1963, BS. Phan Quang Đán ứng cử và đắc cử Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến tháng 9-1966. Vì thuộc phe nhóm chống lại phía quân đội, Phan Quang Đán trở thành ứng cử viên Phó Tổng Thống trong Liên Danh Phan Khắc Sửu- Phan Quang Đán đối đầu với Liên danh Nguyễn Văn Thiệu- Nguyễn Cao Kỳ nhưng thất bại. Đến đây thì tưởng như cuộc đời chính trị của ông đã kết thúc, nhưng ông Đán đã cạy cục nhờ người nói với TT Nguyễn Văn Thiệu xin một chức vụ trong chính phủ, cũng bị từ chối. Sau cùng nhờ Mỹ áp lực, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban cho chức Quốc Vụ Khanh đặc trách  Khẩn Hoang Lập Ấp. Ở cương vị này, suốt hai năm trời làm ăn chẳng nên cơm cháo gì nên đã bị Quốc Hội cắt hết ngân sách chỉ còn vỏn vẹn 4 triệu cho Văn Phòng. Lại một lần nữa, Phan Quang Đán lại lạy lục Mỹ và TT Nguyễn Văn Thiệu cho kiêm nhiệm Tổng Trưởng Xã Hội thay BS. Trần Ngươn Phiêu đã ngồi quá lâu. Vài trò sau cùng này của Phan Quang Đán kéo dài được 4 tháng thì Miền Nam rơi vào Tay Cộng Sản.
Nhận xét về nhân vật Phan Quang Đán này, nhiều người cho rằng đó là một trong những Bộ Trưởng dở nhất trong các Bộ Trưởng thời Việt Nam Cộng Hòa. Thèm khát địa vị, nhưng thiếu khả năng và uy tín nên cờ đến tay không biết phất. Thật ra chẳng riêng gì ông Phan Quang Đán, mà hầu hết những nhân vật mệnh danh là chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm đều thuộc loại hám danh mà dở làm việc. Họ muốn làm đại quan mà không có khả năng làm đại sự. Họ chỉ muốn chia ghế để có địa vị và quyền lợi. Nhưng với TT Ngô Đình Diệm thì khác. Ông không chấp nhận chuyện chia ghế. Ông nào có khả năng thì chính phủ mời cộng tác. Điển hình như các nhân vật thuộc nhóm Caravelle, nhiều người đã được TT Ngô Đình Diệm mời tham chính ngay từ hồi năm 1954 như Phan Khắc Sủu, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Hương nhưng họ có làm nên cơm cháo gì đâu. Làm thì dở, thấy nguy thì bỏ chạy. Cho nên sau biến cố 1-11-1963, khi có cơ hội tham chánh, và kết quả cho thấy, tư cách và khả năng của họ chỉ là con số không to tướng.
Trường hợp Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
Có một nhân vật đã gây nhiều thắc mắc là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, trưởng nhóm Tự Lực Văn Đoàn, người từng đảm nhiệm vai trò Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên hiệp Hồ Chí Minh 1946, nhưng chỉ được ba tháng vì bất đồng chính kiến thì xin từ chức. Thời Quốc Gia Việt Nam (Quốc Trưởng Bảo Đại) và thời Đệ Nhất Cộng Hòa (TT Ngô Đình Diệm), ông Nguyễn Tường Tam hoạt động văn hóa, cho xuất bản các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn và chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay. Cũng dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn và của Nhất Linh đã được Bộ Quốc Gia Giáo Dục đưa vào chương trình Trung Học. Tưởng chưa có một vinh dự nào lớn lao đối với một nhà văn như Nhất Linh khi còn sinh thời và Tự Lực Văn Đoàn đã được chính quyền xử sự như thế. Điều đó chứng tỏ nền Đệ Nhất Cộng Hòa và riêng cá nhân TT Ngô Đình Diệm rất nể trọng Tự Lực Văn Đoàn và cá nhân nhà văn Nhất Linh. Thật sự thì không ai có thể phủ nhận công trình văn học của Tự Lực Văn Đoàn và nhà văn Nhất Linh. Cho nên, việc chính phủ Ngô Đình Diệm đưa các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vào chương trình Trung Học là đúng đắn, rất đáng hoan nghênh. Nhưng không hiểu tại sao Nhất Linh lại bị tố cáo có dính líu vào cuộc Binh Biến ngày 11-11-1960 của bè nhóm Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Chánh Thi để đưa ông đến chỗ uống thuốc độc tự tử ngày 7-7-1963 qua cái gọi là bản di chúc chính trị nguyên văn như sau:
“Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất vào tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình, cũng như Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, để cảnh cáo những người chà đạp  mọi thứ tự do.” Nhất Linh Nguyễn Tường Tam  7-7-63
Vì dính vào vụ 11-11 nên ông bị Toà Án Quân Sự Đặc Biệt gửi trát tòa gọi ra lấy khẩu cung. Qua khẩu cung thì ông chối không hoạt động chính trị và cũng không dình líu gì đến vụ phản loạn nói trên. Qua tài liệu -Trong Bóng Tối Lịch Sử- xuất bản năm 2008- của Cựu Luật sư Lê Nguyên Phu nguyên Đại Tá Ủy Viên Chính Phủ trong Toà Án Quân Sự Đặc Biệt từ trang 188-191, nhân vật Nhất Linh được ghi lại nguyên văn như sau:
“Nhóm Hoàng Cơ Thụy là nhóm dân sự duy nhất biết trước vụ Binh Biến. Còn những người khác như Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Bùi Lượng, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thaàh Phương, Nguyễn Tường Tam cùng đám thuộc hạ em út gồm Trương Bảo Sơn, Nguywễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương v.v… đều là những người lúc nghe tiếng sung nổ mới chạy đến hiện trường, hoan hô đả đảo cho rậm đám. Đây là những người không được mời ăn cỗ, nhưng nghe có đình đám chạy đến để ăn có. Nhóm Caravelle không dự vào vụ Binh Biến này, không có mặt tại chỗ, và không hề bị truy tố ra Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt trong vụ này, thế mà sau, tên cầm cờ chạy hiệu Trần Tương viết sách khoa trương láo khoét đã lôi họ vào nội vụ để có chút thơm lây.
Trong số những thực khách không mời mà đến ăn có, tôi chỉ nhắc đến hai trường hợp của Phan Quang Đán và Nguyễn Tường Tam.
Trước tiên là trường hợp Phan Quang Đán, Nguyễn Chánh Thi cảm thấy lẻ loi trong nhóm Vương Văn Đông, nên khi thấy Phan Quang Đán xuất hiện trước Dinh Độc Lập, vội vàng kéo Phan Quang Đán về phe y, cho làm phát ngôn của Thi để cân bằng thế lực với nhóm Vương Văn Đông có Hoàng Cơ Thụy trợ thủ. Phan Quang Đán lên Đài Phát Thanh chửi rủa nhục mạ chính quyền một cách thô lỗ, nhưng lúc bị bắt ra tòa thì mềm nhũn như con chi chi, thái độ ươn hèn khiếp nhược.
Còn trường hợp của Nguyễn Tường Tam lại khác hẳn. Nguyễn Tường Tam có tư cách hơn. Sở dĩ tôi nhắc đến Nguyễn Tường Tam là muốn nói rõ cho hậu thế biết cái chết của ông và nguyên nhân đã đưa ông đến cái chết ấy.
Nguyễn Tường Tam sau khi bị điều tra sơ khởi tại Nha Cảnh sát, Nha An Ninh Quân Đội và thẩm vấn sau cùng tại Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt, đã được Đại Tá Lê Văn Khoa ủy viên chính phủ phóng thích ngay, không bị giam giữ một ngày nào. Trong biên bản do chính Đại Tá Lê Văn Khoa thẩm vấn, Nguyễn Tường Tam khai thực sự không biết gì về nội vụ, không có tổ chức căng biểu ngữ, rải truyền đơn chống chính phủ trước Dinh Độc Lập. Nhưng sự việc này hoàn toàn do đám em út của ông (Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương v.v…) tự động làm ra ông ngăn không nổi. Ông thỉnh cầu Đại Tá Lê Văn Khoa đừng đem đối chất với nhóm thuộc hạ. Sự thỉnh cầu này đưọc ghi rõ ở cuối biên bản thẩm vấn. Đại Tá Lê Văn Khoa chấp nhận lời thỉnh cầu, nên trong hồ sơ không có biên bản đối chất, mặc dầu các thuộc hạ của ông khai ngược lại là đã hành động theo lệnh của ông. Các thuộc hạ của Nguyễn Tường Tam đều bị Đại Tá Lê Văn Khoa tống giam, chỉ một mình Nguyễn Tường Tam được tại ngoại hầu tra. Do dó các thuộc hạ của ông đều tỏ ra bất bình và oán hận, cho rằng chính ông đã đổ hết tội lên đầu của họ. Từ trong khám Chí Hòa, Trương Bảo Sơn viết thư ra cho bà vợ  mới chắp nối là bà Nguyễn Thị Vinh chỉ trích Nguyễn Tường Tam đủ điều, nào là phản bội anh em, nào là thiếu tư cách lãnh tụ v.v… Lá thư được giám đốc khám đường Chí Hòa đệ trình Tòa Đặc Biệt và đưọc lưu giữ lại trong hồ sơ. Lúc bấy giờ hồ sơ đã được Đại tá Lê Văn Khoa kết thúc và đã có án lệnh ra tòa từ lâu, trước khi tôi đến thay thế Đại Tá Lê Văn Khoa. Tôi lưu giữ lá thư trong hồ sơ mà không cho chuyển đi chỉ vì thiện ý. Tôi không muốn vì lá thư nầy mà gia đình các bị can bên ngoài phải trách cứ lẫn nhau, gây thêm sự xáo trộn trong cuộc sống. Nguyễn Tường Tam vẫn được sống tự do tại gia dình.
Vụ án đã có án lệnh đưa ra tòa, nên tôi quyết định không để kéo dài thêm nữa và cho đăng đường xét xử vào phiên tòa ngày 5-7-1963. Theo thủ tục pháp lý, một can phạm bị truy tố về một tội đại hình, nếu được tự do tạm như trường hợp của Nguyễn Tường Tam, phải bị câu lưu lại 3 ngày trước phiên tòa xử. Nhưng đối với Nguyễn Tường Tam, tôi không cho thi hành thủ tục này. Tôi viết thư mời Nguyễn Tường Tam (chứ không ra trát đòi) đến gặp tôi tại Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt. Nguyễn Tường Tam đến không sai hẹn, và được tôi tiếp đón nồng hậu. Chúng tôi đã đối diện trò chuyện suốt ba giờ đồng hồ, nghĩa là trọn suốt buổi sáng, tại phòng khách riêng của tôi, không có người thứ ba tham dự, và đề tài đàm thoại, khởi đầu bằng chuyện văn chương, thế tình. Tôi đề cập trước tiên, từ những tác phẩm nổi danh của ông trong Tự Lực Văn Đoàn đến tờ Phong Hóa, Ngày Nay do ông chủ trương trước năm 1945 tại Hà Nội và đồng thời cho ông biết tôi rất hâm mộ tài hoa và sự nghiệp văn chương của ông. Mục đích của tôi là để ông yên tâm. Sau cùng tôi mới nói qua về lý do mời ông đén văn phòng tôi. Tôi cho ông biết vụ Binh Biến 11-11-1960 sắp được đăng đường xét xử và yêu cầu ông ngày đó nhớ đi hầu tòa. Đối với ông, tôi không cho tống dạt trát đòi hầu tòa, cũng như không câu lưu thân thể (theo tiếng Pháp là prise de corps) trước ngày xử án. Tôi hứa sẽ tận tình giúp đỡ ông để sau phiên xử ông vẫn được thong thả và tự do trở về nhà. Thật là một sự dễ dãi chưa từng có trong phạm vi thủ tục pháp lý. Trước sự cởi mở của tôi, ông trầm  ngâm giây lát, tỏ ý cảm kích, và sau cùng hỏi tôi: “Ông ủy viên có thể giúp tôi thêm một chút nữa được không? Tôi xin ông ủy viên giúp tôi tránh khỏi phải đối chất với bọn đàn em thuộc hạ của tôi.”
Tôi hiểu rõ ý muốn của ông, và lần này tôi cũng trầm ngâm như ông trước khi trả lời: “Điều ông yêu cầu thực sự ngoài quyền hạn của tôi, bởi vì hồ sơ đã được đăng đường, trước tòa chỉ có ông chánh thẩm là người duy nhất điều khiển phiên xử và có quyền quyết định tối hậu mọi thủ tục pháp lý. Tôi vì ông sẽ không xin đối chất, nhưng nếu luật sư biện hộ cho thuộc hạ của ông yêu cầu đối chất, tôi sợ ông chánh thẩm khó lòng từ chối. Vì vậy mà tôi không thể hứa chắc về điểm này. Tôi phải tôn trọng ông chánh thẩm trước tòa”.
Câu nói của tôi là một câu nói thành thật chí tình.
 Nhưng nghe xong Nguyễn Tường Tam trở nên ray rứt, băn khoăn vô hạn. Ông cuí đầu suy nghĩ. Và trong câu chuyện tiếp theo, ông luôn luôn trở lại vấn đề đối chất và nhiều lần nhắc nhở tôi cố gắng giúp đỡ ông. Đó là lý do vì sao câu chuyện đàm thoại giữa chúng tôi đã kéo dài ba giờ đồng hồ, suốt một buổi sáng. Lúc tiễn ông ra cửa, tôi thấy ông đi thất thểu, nhưng tôi không nghĩ rằng vì vấn đề đối chất nầy mà ông phải tự tử sau đó. Lúc được tin ông đã qua đời, suy nghĩ kỹ lại, tôi mơí nhận rõ điều ông yêu cầu là một điều tối quan trọng đối với ông. Ông không muốn đối diện với bọn đàn em và đối chất với họ trước Tòa, vì đó là một điều sỉ nhục, mất thể diện trọng đại. Trước Tòa, nếu ông tiếp tục giữ lập trường không liên quan vào nội vụ, trong khi bọn đàn em của ông lại nhất quyết cho ông là người cầm đầu, thì cái danh vị lãnh tụ của ông sẽ tiêu tan, và nhân phẩm của ông cũng bị tổn hại rất nhiều. Cho nên chỉ còn một lối thoát duy hất là để tránh sự đối chất là tự tử. Lối thoát này đã giúp ông bảo tồn danh dự và tư cách lãnh tụ, nâng cao nhân phẩm cá nhân và có thể đưa ông vào lịch sử.
Chết là hết! Chết là vạn sự hư không! Nếu cái chết của Nguyễn Tường Tam đến đây chấm dứt, thì có thể nói đó là  một cái chết rất đẹp đẽ, đáng tôn vinh như một điểm son rực rỡ trong cuộc đời chính trị của ông!
Nhưng tiếc thay, điểm son rực rỡ ấy đã bị ông xóa nhòa, bôi đên bằng một mảnh giấy nhỏ được ông để lại khi lâm chung. Trên mảnh giấy ấy ông cho biết ông tự tử vì không muốn bị xét xử trước tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm và xin để lịch sử xét ông về sau. Những dòng chữ này không biết có đánh lạc hướng được lý do tự tử của ông hay không, nhưng chắc chắn đã hạ thấp phẩm giá của ông rất nhiều. Cho đến giờ phút lâm chung ông vẫn còn chưa đạt, vì chưa bỏ được tham vọng lợi danh của mình, chưa giác ngộ  được hành vi tốt hay xấu của mình đối với anh em đồng chí, mà vẫn còn huynh hoang tiếp tục dối trá người đời.  Ông nói không muốn để tòa án chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử ông, nhưng thực sự khi ông ra khai cung tại Phòng Dự Thẩm Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt thì ông đã bị tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử rồi, vì trong cơ chế pháp lý, Dự thẩm được xem như là một cấp xử án riêng biệt (une jurisdiction à part), có quyền định tội danh của can phạm, cải tội danh, ra án lệnh miễn tố hay truy tố ra tòa khi tội danh đã được xác định.
Vụ tự tử của Nguyễn Tường Tam về sau có nhiều người khai thác, dựa vào đó để làm nấc thang danh vọng, kể cả những người từng oán hận ông như Trương Bảo Sơn. Sau vụ đảo chánh 1-11-1963, họ được trả tự do, vội vàng tổ chức lễ truy điệu Nguyễn Tường Tam rất trong thể tại Vườn Tao Đàn, để rồi sau đó mỗi người được chính quyền quân phiệt tưởng thưởng một số tiền lớn có thể mua nhà cửa, phố xá, mở tiệm buôn, tiệm thuốc tây v.v… Có người còn được gia nhập chính quyền, học ăn học nói ở Thượng Hạ Nghị Viện. Tôi muốn hỏi những đàn em của Nguyễn Tường Tam họ có bao giờ nghĩ rằng Nguyễn Tường Tam chết cũng vì những lời bài xích xa gần của họ.”
Qua những dòng trên đây cho thấy Nhất Linh thật sự có tham dự vào âm mưu đảo chánh 11-11-1963 nhằm lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính con út ông là Nguyễn Tường Thiết trong hồi ký Nhất Linh Cha Tôi do Văn Mới xuất bản năm 2006 trang 29-30 đã xác nhận điều đó: “Thế rồi ông quyết định giã từ tất cả. Đà Lạt, Fim Nôm, dòng Đa Mê và cả trăm giỏ lan mà ông đã chăm sóc từ hai năm qua, để về luôn Sài Gòn, chấm dứt cái thời kỳ mà ông Lê Hữu Mục đã viết trong đoạn kết cuốn sách của ông là “một Nhất Linh nằm trùm chăn ở trên Đà Lạt”. Đối với tôi, thật bụng tôi chỉ mong ông được nằm trùm chăn lâu hơn vì đây chính là thời gian hạnh phúc nhất trong đời ông mà tôi được biết. Nhất Linh “xuống núi” lăn vào cuộc đời làm báo, tham gia đảo chính, thất bại, đi trốn, bị đưa ra tòa, đưa đến cái tự vẫn của ông mấy năm sau, mở đầu một thời kỳ cuối cùng của đời ông với nhiều não nề, nhiều chán chường hơn”.
Đã tham gia đảo chính nhưng tại sao Nhất Linh lại phủ nhận tất cả hành động của mình trước Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt? Đọc đoạn viết của LS Lê Nguyên Phu trên đây cũng như đọc mục “Niềm Vui Chết Yểu” từ trang 31-51 trong Nhất Linh Cha Tôi của Nguyễn Tường Thiết cho thấy tâm trạng lo âu sợ sệt của Nguyễn Tường Tam. Tại sao lại sợ và tại sao phải chọn cái chết? Mỗi người có thể suy luận theo nhận định riêng của mình.
Ông Nguyễn Văn Lục trong cuốn “Một Thời Để Nhớ” do Diễn Đàn Giáo Dân xuất bản năm 2011 nơi các trang 187-188 cho rằng Nhất Linh chọn cái chết vì bịnh tâm thần. Xin trích một đoạn sách của ông Nguyễn Văn Lục: “Trong số những nhân vật bị bắt, có nhân vật quan trọng như một thứ biểu tượng thống lãnh và uy tín hàng đầu. Đó là ông Nhất Linh. Trước đây không lâu, tôi có viết một bài nhan đề “Trường hợp Nhất Linh, một cái chết định trước”. Trong đó tôi cho rằng Nhất Linh mắc bệnh tâm thần, bị ám ảnh thường trực ý muốn tự tử. Và cơ hội đã đến trong dịp bị gọi ra tòa về vụ đảo chánh hụt 11-11-1960. Có rất nhiều ý kiến phản bác. Nay cơ hội cho tôi có dịp khẳng định lại một lần nữa để nhận ra suy diễn của tôi không phải là vô bằng cớ mà có căn cơ đứng đắn, có cơ sở lý luận và có chứng liệu thực tìễn.” Ông Nguyễn Văn Lục còn nêu ra những nhận xét của những người thân thiết với nhà văn Nhất Linh như Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, Thế Uyên đều xác nhận Nhất Linh mắc bệnh tâm thần hay suy nhược thần kinh. Bài viết và tác phẩm của ông Nguyễn Văn Lục đã làm dư luận xôn xao trong đó, Nguyễn Tường Thiết là con út của Nhất Linh đã viết ba bài phản bác kịch liệt trên các Diễn Đàn Internet để bênh vực cho cha.
Nguyễn Tường Tam viết rằng đời ông để Lịch sử xét xử. Cái chết của ông đã ngót nửa thế kỷ. Chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa cũng đã bị lật đổ ngót nửa thế kỷ. Bao nhiêu tài liệu đã được giải mật, phơi bầy, chẳng còn gì dấu kín. Những lời của LS Lê Nguyên Phu và của Nguyễn Tường Thiết viết ra về Nhất Linh đã sáng tỏ về con người của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: “Nhất Linh xuống núi, lăn vào chính trị, tham gia đảo chính hụt, thất bại, sợ sệt, trốn tránh, bị điều tra và ở thế cùng, chọn cái chết”, chứng tỏ Nhất Linh không phải là người có bản lĩnh chính trị, không có viến kiến chính trị. Nhất Linh thành công về văn học và thất bại ê chề về chính trị.
Người viết tự hỏi: nếu quả thực nhà văn Nhất Linh không dính gì vụ Binh Biến 11-11-1960 thì tại sao lại phải trốn tránh, và tại sao lại nài nỉ xin Ủy viên chính phủ Lê Nguyên Phu tránh cho chuyện đối chất với thuộc hạ đàn em? Còn nếu Nhất Linh đã có gan tham gia Binh Biến thì tại sao không có gan đứng trước Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt mạnh dạn phản bác mọi cáo buộc, công khai lên án sự chà đạp tự do của chính quyền Ngô Đình Diệm? Nếu Nhất Linh có can đảm làm như thế thì liệu chính quyền Ngô Đình Diệm có dám kết án nặng nề hay phải nhượng bộ ông? Nếu Nhất Linh có viễn kiến chính trị, nhìn thấy sự thay đổi sẽ xẩy ra trong tương lai gần trong tinh hình xáo trộn tháng 7/1963, thì có lẽ Nhất Linh đã không tự tử. Biết đâu rằng sự gan dạ và mạnh dạn ra Tòa Án sẽ là một bản Cáo Trạng lớn lao hơn với chế độ và là một thành tích lẫy lừng của Nhất Linh để sau khi biến cố 1-11-1963 xẩy ra sẽ đưa Nhất Linh lên hàng lãnh đạo quốc gia, vượt xa những Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm? Thật tiếc cho ông đã bỏ lỡ mất cơ hội ngàn năm một thuở.
Theo thiển ý, muốn đấu tranh kết quả, ít nhất phải giữ mạng sống của mình đã. Bị bắt ra Tòa đâu có phải là điều sỉ nhục. Trong lịch sử đấu tranh, có hàng ngàn, hằng vạn, hàng triệu người bị đưa ra Tòa có sao đâu. Chỉ có gian dối hay có điều gì khuất tất sợ sự thật mới trốn tránh. Nhất Linh đã không làm thế? Nhất Linh muốn đời ông để lịch sử xét xử thì nay sự thật lịch sử đã được phơi bầy rồi đó kể cả sự thật về Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Lịch sử cho thấy mọi biến cố chính trị liên hệ đến Việt Nam Cộng Hoà đều có bàn tay của ngoại bang. Bàn tay ấy giống như một con bạch tuộc với trăm ngàn cái vòi đã len lỏi, thọc sâu vào mọi cơ cấu từ thượng tầng đến hạ tầng quốc gia để đạo diễn mọi biến cố rất tinh vi mà người đưong thời ít ai biết được. Cái chết của Nhất Linh không chắc đã đem lại ích lợi gì cho đất nước, nhưng rõ ràng là giúp thêm cho chiến dịch tuyên truyền lưu manh của ngoại bang đang muốn khai thác nhằm lật đổ chế độ Cộng Hòa Việt Nam với TT Ngô Đình Diệm, một người mà thù phải sợ, bạn phải nề.
Trường hợp Giáo sư Vũ Văn Mẫu: kẻ khôn làm đầy tớ thằng ngu hai lần!
Khi Mỹ âm mưu lật đổ TT Ngô Đình Diệm  và nền Đệ Nhất Cộng Hòa bằng việc mua chuộc một số tướng lãnh đóng vai trò chủ chốt thì mặt khác, Mỹ cũng liên hệ và mua chuộc những nhân vật dân sự bằng những hứa hẹn quyền lợi và chức tước. Những nhận vật đó gồm: Ông bà Đại sứ Trần Văn Chương ở Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Phủ Tống Thống Nguyễn Đình Thuần, Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống Võ Văn Hải và đặc biệt là Bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu. Người viết muốn nhấn mạnh đến nhân vật Vũ Văn Mẫu ở đây.
Giáo sư Vũ Văn Mẫu có bằng Thạc sĩ Tư Pháp, được chính phủ Ngô Đình Diệm cho làm Khoa Trưởng Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, sau cất nhắc lên làm Bộ Trưởng Ngoại Giao từ 1955 đến 1963. Trên cương vị Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhờ nội bộ ổn định và nhất là bằng vào uy tín của chính quyền  Đệ Nhất Cộng Hòa và cá nhân TT Ngô Đình Diệm, Giáo sư Vũ Văn Mẫu nghiễm nhiên trở thành một trong những khuôn mặt sáng giá của chế độ. Trong thời gian làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Giáo sư Vũ Văn Mẫu vẫn được tiếp tục giảng dạy tại Đại Học Luật Khoa các lớp ban Cử Nhân và ban Cao Học. Đặc biệt, các sách giáo khoa (Cours) do Giáo sư biên soạn như Dân Luật Khái Luận, Dân Luật Lược Khảo, vân vân đã được các sinh viên đón mua cách nồng nhiệt, và đó cũng là món huê lợi không phải là nhỏ. Chức vụ, quyền hành và lợi lộc tưởng chưa mấy nhân vật nào được ưu đãi hơn. Theo Giáo sư Vũ Quốc Thúc, TT Ngô Đình Diệm tỏ ra rất nể trọng GS Vũ Văn Mẫu và GS Vũ Quốc Thúc. Cả hai ông đều được TT Ngô Đình Diệm trân trọng kêu bằng “Ngài”. Vậy mà sau khi được Mỹ móc nối và hứa hẹn, GS. Vũ Văn Mẫu đã trở mặt, quay đúng 180 độ ngay sau biến cố Phật Giáo cũng do CIA Mỹ đạo diễn, cạo đầu, xin từ chức và xin đi hành hương Ấn Độ. Việc làm của GS Vũ Văn Mẫu dĩ nhiên như đổ thêm dầu vào lửa sau vụ “bị thiêu sống” của TT Thích Quảng Đức làm cho tình hình bang giao Việt - Mỹ đang căng thẳng, trở nên gay cấn hơn, tạo thêm lý do để Mỹ xúi giục bọn tướng lãnh phản bội chuẩn bị ra tay. Tưởng rằng sau đảo chánh 1-11 thành công, GS. Vũ Văn Mẫu sẽ nắm vai trò quan trọng như chức vụ Thủ Tướng, nào ngờ được bố thí cho chức Đại Sứ tại Anh Quốc. Nhưng chưa đấy 4 tháng thì cuộc Chỉnh Lý của Nguyễn Khánh xầy ra khiến Giáo sư mất luôn chức Đại sứ để trở về Trương Luật dạy học kiếm ăn.
Sau một thời gian thậm thụt đi theo phe Phật Giáo Ấn Quang không ăn cái giải vì đám  sư này quyết liệt tẩy chay mọi hoạt động của Chính quyền VNCH thì sự nghiệp chính trị của GS Vũ Văn Mẫu kể như kết thúc. Nhưng đột nhiên, đám sư sãi Phật Giáo Ấn Quang nghĩ lại nếu cứ tiếp tục tẩy chay chính quyền thì tự cô lập mình và phe Phật Giáo Việt Nam Quốc Tự của TT Thích Tâm Châu được chính quyền công nhận sẽ thắng thế. Phật Giáo Ân Quang liền tung ra Liên Danh Hoa Sen ứng cử vào Thượng Nghị Viên 1973 do GS. Vũ Văn Mẫu đứng Thụ Uỷ cùng một số nhân vật như Bác sĩ Nguyễn Duy Tài, Tôn Thất Niệm, Tôn Ắi Liêng, Trần Quang Thuận, vân vân đồng thời ủng hộ Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng Thống. Nhưng khi thắng cử vào Thượng Nghị Viện rồi, Liên danh Hoa Sen cũng vẫn chỉ là thiểu số không nắm được một chức vị nào cả. Đã vậy, Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài trong Liên danh Hoa Sen lại trở cờ chạy theo phe thân chính quyền, được chức Chủ Tịch Ủy ban Ngoại Giao Thượng Viện.  Suối gần 2 năm trời ở Thượng Viện, Liên danh Hoa sen và NS Vũ Văn Mẫu chẳng làm nên trò trống gì. Qua năm 1975, tình hình mỗi ngày thêm biến đổi, ông được phe Ấn Quang cử làm Chủ Tịch Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc mà Văn phòng đặt tại Khối Dân Tộc Xã Hội Hạ Nghị Viện. Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu theo chỉ đạo của Ấn Quang đang nhắm đóng vai trò đại diện “Thành thành phần thứ ba” trong Chính Phủ ba thành phần. Nhưng vì thiển cận không nhìn xa trông rộng, không thấy được nước cờ Hoa Kỳ và đối phương đang đi nên cuối cùng trở thành công cụ hốt rác cho Mỹ. Ngày 28-04-1975, vừa mới nhậm chức, thì cùng với Dương Văn Minh, ông nhân danh là Thủ Tướng Chính Phủ tuyên bố: “Yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ” không phải để có “Chính Phủ Hòa Hợp Hòa Giải” mà là đầu hàng cách nhục nhã Cộng Sản ngày 30-04-1975.
Nhiều nhân vật cho biết, vào những giờ phút cuối, khi Dương Văn Minh bị áp lực của Việt Cộng sắp sửa tuyên bố đầu hàng, “Thủ Tướng một ngày” Vũ Văn Mẫu đã tỏ ra hoảng sợ cũng muốn tìm đường chạy trốn nhưng quá muộn, đành phải cúi đầu theo Dương Văn Minh vào Dinh Độc Lập đón tiếp bọn ăn cướp!  Bị kẹt lại Việt Nam, Vũ Văn Mẫu cũng như Dương Văn Minh, nhờ “công lao hãn mã đầu hàng vô điều kiện” nên Cộng Sản tha cho khỏi phải đi “học tập cải tạo” trong các trại tù như bao Quân Dân Cán Chính VNCH khác, mà chỉ bị học tập tại chỗ.  Mấy năm sau, khi tìmh hình ổn định, Việt Cộng cho ông qua Pháp định cư.
Năm 1988, ông viết Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn của Minh Không Vũ Văn Mẫu” để kể tội chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ đã đối xử rất tử tế với ông: cử làm Bộ Trưởng Ngoại Giao suốt từ 1955 dến 1963, một Bộ Trưởng ở lâu nhất trong chức vụ.
Đọc bài giới thiệu Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn” của GS. Vũ Văn Mẫu do Giao Điểm xuất bản năm 2003 trên Internet, người ta thấy ông chê bôi, chỉ trích chế độ Ngô Đình Diệm và các nhân vật trong gia đỉnh Tổng Thống Diệm một cách gay gắt không tiếc lời. Chưa hết, ông tấn công Dụ Số 10 do Bảo Đại đưa ra nhưng lại đổ tội cho TT Ngô Đình Diệm là thủ phạm vì nó mà gây nên Pháp nạn!
Người viết tự hỏi: Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, một nhân vật chính trị lớn, một nhà ngoại giao có tầm vóc, một Luật gia nổi tiếng, một Kẻ Sĩ thời đại tại sao lại có hành động như vậy?  Đáng lý ra với tư cách là một Luật gia nổi tiếng, một nhân vật lớn của chế độ (Bộ Trưởng Ngoại giao), một tín đồ Phật Giáo thuận thành với “Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi”, một kẻ sĩ thời đại “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ  bất năng khuất”, đã được chế độ ưu đãi trân trọng, thì nếu có những gì sai trái xẩy ra, phải có bổn phận lên tiếng can ngăn, cảnh giác, trình bày điều hơn lẽ thiệt để sửa đổi và để cứu nguy chết độ, chớ sao lại bỏ ngang chơi trò “cạo đầu”, đổ thêm dầu vào lửa, đâm sau lưng Lãnh Tụ? Là một nhân vật được Tổng Thống rất nể trọng, tại sao ông không có can đảm đặt thẳng vấn đề với Tổng Thống khi họp Hội Đồng Nội Các hay lúc gặp gỡ riêng liên hệ đến lãnh vực ngoại giao? Vậy mà ông ngậm tăm, không làm gì cả ! Có phải vì ông cũng là thứ người hèn nhát, chỉ biết gọi dạ bảo vâng? Nếu quả tình GS Vũ Văn Mẫu xứng đáng với những danh xưng đó, thì những ai chịu suy nghĩ cũng khó mà tìm được lời giải đáp. Vì cho đến giờ phút này, vẫn chưa có ai chứng mình được rằng Dụ Số 10 đã gây thiệt hại những gì cho Phật Giáo, ngoại trừ luận điệu xuyên tạc chế độ Ngô Đình Diệm là “gia đình trị” và “kỳ thị tôn giáo”. Nói cho cùng, Dụ số 10 chỉ là cái cớ để mấy nhà sư tranh đấu lợi dụng nhằm gây bất mãn cho mục tiêu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Còn trên thực tế, vì nhu cầu tổ chức của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, vua Bảo Đại ban hành Dụ số 10 để cơ quan hành chánh căn cứ vào đó mà làm việc với các tổ chức đoàn thể. Trên nguyên tắc, Phật Giáo là một tổ chức thì cũng phải ghi tên, đăng ký như các đoàn thể tổ chức khác. Nhưng cũng trên thực tế là Chính quyền của TT Ngô Đình Diệm không hề áp dụng Dụ số 10 với Phật Giáo. Chẳng những thế, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa còn tỏ ra trân trọng giúp đỡ tận tình Phật Giáo xây Chùa, cho sư tăng xuất ngoại du học, vân vân và có thể nói đó là thời Phật Giáo phát triển mạnh nhất.
Xin hỏi lại mấy ông sư tranh đấu: Ai cho tiền xây Chùa Xá Lợi? Ai cho đất để xây Chùa Vĩnh Nghiêm? Ai cho các vị sư nổi tiếng như Thích Quang Liên, Thích Thiên Ân, Thích Nhất Hạnh, vân vân du học ngoại quốc? Có phải là chính Phủ Ngô Đình Diệm hay ai khác?  Hỏi tức là trả lời. Vậy mà chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ vì Chủ quyền Quốc gia, chống đối lại việc Mỹ muốn đưa quân vào Việt Nam đã bị hàm oan và trở thành nạn nhân?
Luận điệu nói rằng chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo cũng sai. Tầm cỡ như TT Ngô Đình Diệm hay ông Cô vấn Ngô Đình Nhu đâu có ngu xuẩn hay dại dột làm những điều tệ hại như thế. Còn đối với Giáo Hội Công Giáo thì vì chưa được Tòa Thánh Vatican coi là trưởng thành, nên vẫn còn nằm dưới sự quản trị của Hội Thừa Sai Paris tức là MEP (Mission Étrangère de Paris) chớ chẳng phải ưu đãi gì. Vậy mà mấy ông đã “vọng ngữ” tức là nói láo rằng Chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, thật không thể tưởng tượng được mồm ép của mấy ông “sư hổ mang”! Các ông đả kích Chính quyền Ngô Đình Diệm về Dụ số 10 để rồi lại gửi văn thư 13-01-1964 xin phép Bộ Nội Vụ của Chính quyền quân phiệt ban hành Nghị định cho phép thành lập Giáo Hội, công nhận Hiến Chương  của mấy ông thì có khác gì “nhổ ra rồi lại nuốt vô”! Bởi thế, càng hô hào thống nhất lại càng chia rẽ! Thống nhất rồi mới tự chia ra hai phe: Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang! Vì có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên ngày nay mới có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh). Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Đó cũng là luật nhân quả của nhà Phật!  Pháp nạn ở đâu mà ra? Pháp nạn nằm trong lòng mấy ông đó! Nhưng Dụ Số 10 thì vẫn còn giá trị pháp lý và nó vẫn chưa hề bị hủy bỏ, ít ra là cho đến ngày 30-04-1975.
Trở lại trường hợp GS Vũ Văn Mẫu, quả thật làm Kẻ Sĩ không phải dễ. Có học vị cao, có chức tước lớn cũng chưa bảo đảm hành động tốt và có đạo lý làm người. Khi đã tối mắt vì quyền lợi và chức tước thì Đạo Lý cũng sẽ bị giục vô thùng rác, dù đó là thùng rác của lịch sử. Tất cả những hành động của GS Vũ Văn Mẩu kể từ khi cạo đầu đã lột trần bản chất con người ông. Càng về sau thì sự thật con người của ông càng lộ ra những cái mà người có lương tri, đạo lý phải lắc đầu: một tên hoạt đầu chính trị!
Nhân danh là một trí thức, một nhà ngoại giao lớn, một chính trị gia có hạng, một luật gia nổi tiếng, vậy mà ông Vũ Văn Mẫu đã nghe lời dụ dỗ của ngoại bang, cạo đầu chống đối chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, một chế độ hợp hiến, hợp pháp, hợp đạo lý để làm tay sai cho Dương Văn Minh, một tên tướng tham, hèn, ngu dâng nốt Miền Nam cho Cộng Sản.
Người ta nói: “Làm đầy tớ cho thằng khôn hơn làm thầy thằng ngu.” GS Vũ Văn Mẫu, thay vì làm thầy thằng khôn, lại dại dột đi làm đầy tớ cho thằng ngu, không phải một lần (1963) mà tới hai lần (1975) cho tên tướng tham, hèn, ngu Dương Văn Minh nên thân bại danh liệt là cái chắc.
Thời thế biến chuyển. Lòng người thay đổi. Chỉ vị lợi lộc và thiếu suy nghĩ, những kẻ võ biền như bọn tướng lãnh đâm thuê chém muớn xuất hiện. Những trí thức nửa mùa hoạt đầu như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh, và sau cùng như Vũ Văn Mẫu nổi lên a dua cũng không thiếu. Người ta nói: “Khôn ba năm dại một giờ”. Bọn chính khách hoạt đầu điếm đàng này thì “khôn ba năm, dại một đời”. Cái dại chẳng những làm hại chính bản thân nó mà làm hại cả một dân tộc!
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1-11-1963 thì Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tình trạng xáo trộn và khủng hoảng lãnh đạo chưa từng thấy. Cha con bọn đảo chánh từ thầy đến tớ toàn là một lũ ngu xuẩn, lo vơ vét, ăn chơi đàng điếm, không biết làm việc. Hệ thống an ninh bị bỏ ngỏ. Quốc sách Ấp Chiến Lược bị phá vỡ. Việt Công gia tăng xâm nhập phá hoại. Tình hình Miền Nam từ nông thôn đến thành thị trở nên nguy ngập. Mỹ phải cấp tốc đổ nửa triệu quân vào cứu vãn. Và như đã nói trên suốt hai năm trời sau đào chính (1963-1965), Miền Nam đã trở thành vũng lầy đầy những xáo trộn và bất ổn. Bây giờ thì Mỹ và bọn đâm thuê chém mướn mới biết nhân vật lãnh đạo quan trọng như thế nào? Cũng từng ấy nhân sự, cũng từng ấy cơ sở mà tại sao tình hình trước và sau ngày 1-11-1963 thay đổi một cách khác thường như vậy? Bây giờ thì người ta cũng mới biết tài năng, đức độ của TT. Ngô Đình Diệm và những cộng sự viên đắc lực trong việc điều hành guồng máy quốc gia qua hai tổ chức Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia là quan trọng.
Cầu cứu Đảng viên Cần Lao
Sau khi Nguyễn Khánh làm cuộc Chỉnh Lý 30-01-1964 rồi lên làm Thủ Tướng thì Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế nhóm họp Đại Hội hằng năm gửi thư mời Đại diện Việt Nam Cộng Hòa tham dự vì Quốc Hội thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa đã là hội viên thường trực của tổ chức này. Nguyễn Khánh đã cử một nhân vât mới nào đó (người viết không nhớ tên) qua Ba Lan phó hội nhưng bị từ chối. Nguyễn Khánh phải cho người vào khám Chí Hòa mời Cựu Dân Biểu Cần Lao Nguyện Phương Thiệp ra hướng dẩn phái đoàn VNCH qua phó hội vì DB Nguyễn Phương Thiệp đã từng là Trưởng Phái Đoàn Quốc Hội VNCH (trong phái đoàn thời đó có bà Ngô Đình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân) đã được bầu làm Chủ Tọa hai khóa họp thường niên. Tưởng cũng nên biết Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế là tổ chức quy tụ các Đại Biểu Quốc Hội thuộc các Quốc gia trên toàn thế giới (cả Tự do lẫn Cộng sản), trong đó Việt Nam Cộng Hòa được thậu nhân mà Cộng Sản Bắc Việt bị từ chối, lý do vì Quốc Hội Việt Cộng suốt từ 1946 đến 1960 không hề được bầu lại. 
Đó là mặt đối ngoại.
Về đối nội, thì sau khi Nguyễn Khánh bị Hội Đồng Quân Lực cho xuất ngoại làm “Đại Sứ Lưu Động” ở Hoa Kỳ (25-02-1965), thì các Đảng Viên Cần Lao và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia cũng được thả dần. Lý do rất đơn giản là các chính phủ mới cần người biết làm việc và lấy hậu thuẫn trong cuộc bầu cử Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Quốc Hội VNCH năm 1967 sau khi Hiến pháp Đệ Nhị Cộng Hòa đã được ban hành. Lúc đó TT Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (vai trò như Quốc Trưởng hay Tổng Thống) và Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ Tướng). Tuy Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu ở cương vị lãnh đạo cao hơn, nhưng quyền hành lại nằm trong tay Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Vì cả hai đều muốn ra làm Tổng Thống nên tranh chấp nhau kịch liệt. Ông Thiệu nắm được đa số thành viên trong Hội Đồng Quân Lực. Còn ông Kỳ nắm guồng máy Chính Phủ. Để nắm chắc phần thắng, cả hai đều đi tìm hậu thuẫn từ các đoàn thể quần chúng. (Vì ngoài việc vận động Hội Đồng Quân Lực, còn phải vận động các đoàn thể quần chúng.) Đảng Cần Lao tuy đã bị giải tán nhưng rất nhiều Đảng viên Cần Lao vẫn còn làm việc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp trong các cơ quan chính phủ, trong Quân đội hay ngoài dân sự. Cả hai ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đều cho người vận động các Đảng viên Cần Lao vì hai ông đều biết rằng số Đảng viên này có khả năng và uy tín.
Ông Thiệu nhắm những cựu Đảng viên Cần Lao còn trong Quân Đội.
Ông Thiệu đã chỉ thị cho Đại Tá Cục Trưởng Quân Cụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó và vị Đại Tá này đã nhờ một Đại Uý đang làm việc với một Sĩ quan cựu Đảng Viên Cần Lao trong một đơn vị thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị để mời vị Sĩ quan Đảng viên Cần Lao này dùng cơm gia đình tại tư thất, nhân thể chuyển lời của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu muốn vị này vận động các Đảng viên CLNVCMĐ ủng hộ ông trong kỳ bầu cử Tổng Thống. Theo tiết lộ của vị Sĩ quan Đảng Viên Cần Lao này thì trong một buổi lễ do Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị tổ chức, ông Thiệu đã đích thân đến bắt tay và nói nhỏ (vì ông Thiệu có quen biết và từng nhờ vả khi trước). Nhưng vị này đã khéo léo trả lời: “Thưa Trung Tướng, chúng tôi như những người con gái đã lấy chồng và chồng lại vừa mới chết mồ mả chưa xanh cỏ. Nếu chúng tôi ra tay công khai ủng hộ Trung Tướng thì e rằng dư luận phê phán và như vậy cũng không mang lại lợi ích gì cho Trung Tướng. Riêng cá nhân tôi, tôi hết lòng ủng hộ Trung Tướng”.
Phần ông Nguyễn Cao Kỳ, đang trên cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là Thủ Tướng, lại nhắm những nhân vật dân sự củng một số cựu Đảng viên trong Quân đội bị cho giải ngũ. Những cựu Đảng viên này nói với ông Kỳ rằng Đảng Cần Lao từ ngày 1-11-1963 đã bị chính phủ giải tán, đặt ra ngoài vòng pháp luật. Nay ông muốn chúng tôi giúp thì ông phải trả tự do cho những Đảng viên đang còn bị chính quyền cầm tù và phải cấp giấy phép cho tại lập Đảng với danh xưng mới. Kết quả ông Kỳ đồng ý cấp giấy phép và Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng tái hoạt động với tên mới là Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng.
Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng: hậu thân của Cần Lao
Việt Nam Nhân Xã Cách Mãng Đảng có trụ sở tại 86 Bà Huyện Thanh Quan, Sài Gòn. Ba nhân vật lãnh đạo gồm các ông:
- Giáo sư Trương Công Cừu, nguyên Bộ Trưởng Đặc Trách Văn Hóa Xã Hội (thời Đệ I CH) kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao sau khi GS Vũ Văn Mẫu xin từ chức.
- Dược Sư Ngô Khắc Tỉnh, Cựu Dân Biểu thời Đệ I VNCH, sau làm Bộ Trưởng Thông Tin và Bộ Trưởng Giáo Dục thời chính phủ Trần Thiện Khiêm (1970-1975)
- Luật sư Lê Trong Quát, Cựu Dân Biểu Đệ I VNCH.
VNNXCMĐ đã tổ chức được gần 40 Tỉnh, Thị Bộ trên toàn quốc, nhờ móc nối và sinh hoạt lại được với các thành viên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và Đảng viên Cần Lao.
Tại Quốc Hội:
 Ở Hạ Nghị Viện VNCH pháp nhiệm I (1967-1971) đã quy tụ được 14 Dân Biểu.
 Năm 1971, ông Ngô Trọng Hiếu ra ứng cử Dân biều Hạ Nghị Viện pháp nhiệm 2 (1971-1975) đơn vị Biên Hòa (Hố Nai) đã đắc cử với số phiếu thật lớn vì nhờ uy tín khi làm Bộ Trưởng Công Dân Vụ thời Đệ Nhất Cộng Hòa với TT Ngô Đình Diệm.
Tại Thượng Nghị Viện thỉ Liên danh Mặt Trời của Cựu TT. Huỳnh Văn Cao và Liên danh Bạch Tượng của ông Trần Văn Lắm đều có người là cựu Đảng viên Cần Lao Nhân Vị, nhưng người viết không nhớ rõ Nghị sĩ nào đã tham gia VNNXCMĐ.
Cựu Thiếu Tá Nguyễn Đức Xích, nguyên Tỉnh Trưởng Gia Định, là Tổng Thư Ký VNNXCMĐ (trước Nguyễn Kim Khánh, cựu Tỉnh Trưởng Phan Rang thời Đệ Nhất Cộng Hòa), ứng cử và đắc cử vô Viện Giám Sát. Sau 1975, Thiếu Tá Nguyễn Đức Xích bị Việt Cộng bắt vô trại tù Vườn Đào (Tiền Giang, Mỹ Tho), và bị bắn chết sau một cuộc tranh luận tay đôi và công khai với Việt Cộng.
Tại sao lại chọn tên là Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng?
Sự hình thành VNNXCMĐ không hẳn là do sự việc hai ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cậy nhờ anh em Đảng viên Cần Lao, mà còn một nguyên nhân khác, có tầm vóc chiến lược hơn. Số là sau biến cố 1-11-1963, một vài nhân vật thời Đệ Nhất Cộng Hòa nhận thấy khoảng trống chính trị lớn lao ở Miền Nam và sự thiếu sót một chủ thuyết chống Cộng, cho nên đã họp bàn và đi đến quyết định tái phục hoạt Đảng Cần Lao tại nhà ông Trần Quang Ngọc. Nhưng thay vì dùng danh xưng Cần Lao Nhân Vị Các Mạng Đảng như trước, họ đã quyết định đổi thành Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng. Với danh xưng mới này thì có hai chữ Nhân Xã được thay thế cho hai chữ Nhân Vị. Nhân Xã là Nhân Bản Xã Hội, nhưng thực chất hay nội dung cũng là Nhân Vị mà thôi.
Mới đầu, VNNXCMĐ có gây được sự chú ý của dư luận. Nhưng sau một thời gian, nhất là sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thành lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội đồng thời mời hai nhân vật Ngô Khắc Tỉnh và Lê Trọng Quát đảm trách Bộ Thông Tin thì sinh hoạt của VNNXCMĐ bắt đầu đi xuống mà nguyên nhân chính là thiếu lãnh đạo. Cũng mới đầu, bộ ba “Trương Công Cừu, Ngô Khắc Tỉnh và Lê Trọng Quát” làm việc có vẻ khắng khít, thì nay bỗng nhiên chia tay vì đòn ly gián của ông Thiệu. Thật ra, chẳng riêng gì Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng mà 5 Đảng kia trong Mặt Trận (Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng, Lực Lượng Đại Đoàn Kết, Việt Nam Dân Xã Đảng và Liên Minh Dân Tộc Cách Mạng Xã Hội) cũng vậy, nghĩa là đều ở trong tình trạng khủng hoảng lãnh đạo. Các lãnh tụ Đảng như Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Gia Hiến, Phan Bá Cầm, Hà Thúc Ký, Nguyễn Văn Hướng đều là những nhân vật có tiếng tăm, nhưng khả năng lãnh đạo và tổ chức lại yếu kém. Những chính Đảng này đã không đề ra được một chương trình hành động cụ thề đáp ứng tình hình. Mặt khác, tổ chức lỏng lẻo, kết nạp đảng viên bừa bãi, vụ số đông, sinh hoạt rời rạc nên không gây được ảnh hưởng gì. Thực lực lúc đó là Quân Đội, được mệnh danh là Đảng Kaki. Dư luận xem ra cũng không chú ý đến các chính Đảng và cũng không đặt niềm tin hay kỳ vọng gì vào các Đảng chính trị. Phần lớn các lãnh tụ Đảng chỉ mong có chức, có quyền, có ghế chớ không chủ trương làm cách mạng. Ngay từ đâu, Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng đã mắc vào tệ nạn phe phái, đầu óc địa phương. Nhân Xã là hậu thân của Cần Lao nhưng lại do nhóm Miền Trung lãnh đạo với bộ ba Trương Công Cừu, Ngô Khắc Tỉnh và Lê Trọng Quát, nên dư luận nội bộ mệnh danh là nhóm Phủ Cam. Nhóm này kỳ thị Đảng Viên Cần Lao khác như các ông Trần Chánh Thành, Cao Xuân Vỹ chẳng hạn và không mời họ tham gia. Bởi đó, sự phân hóa hay chia rẽ là chuyện đương nhiên phải xẩy ra.
Chánh Đảng Cộng Hòa Đại Chúng
Vì không được mời tham gia vào Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng nên hai ông Trần Chánh Thành, nguyện Bộ Trưởng Thông Tin thời Đệ Nhất Cộng Hòa và ông Cao Xuân Vỹ, nguyên Tổng Giám Đốc Thanh Niên đã cùng một số đồng chí đứng ra thành lập Chánh Đảng Cộng Hòa Đại Chúng (CĐCHĐC), trụ sở đặt tại Lầu 2 Thương Xá Tax, Đại Lộ Lê Lợi Sài Gòn, gần trụ sở Hạ Nghị Viện. Dư luận cho rằng CĐCHĐC được một nhóm có phương tiện tài chánh yểm trợ như bà Dược sĩ Nguyễn Thị Hai, chủ Hãng Thuôc Tây Trang Hai, nhưng nói chung hoạt động của CĐCHĐC cũng không có gì đặc biệt. Ông Trần Chánh Thành ở trong Liên Danh Bạch Tượng do ông Trần Văn Lắm đứng thụ ủy đắc cử Nghị sĩ Thượng Viện, sau được TT Nguyễn Văn Thiệu mời ra làm Bộ Trưởng Ngoại Giao trong nội các Trần Thiện Khiêm. Riêng ông Cao Xuân Vỹ năm 1971 ra ứng cử Dân Biểu Hạ Nghị Viện đơn vị Bình Tuy nhưng thất bại. Bà Nguyễn Thị Hai đắc cử Dân biểu Pháp nhiệm 2 và được bầu làm Đệ Nhị Phó Chủ Tịch Hạ Nghị Viên trong liên danh Nguyễn Bá Cẩn.
Báo Nhân Xã và Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo của Ô. Hoàng Xuân Việt
Ông Hoàng Xuân Việt là một học giả, một nhà văn chuyên về biên khảo với trên 60 tác phẩm thuộc loại sách Học Làm Người. Ông là Đảng viên Cần Lao giầu kiến thức và nhiệt huyết, làm việc trong Sở Nghiên Cứu với BS. Trần Kim Tuyến. Chủ trương lập Đảng của ông có lẽ sớm hơn so với các lãnh tụ Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng và Chánh Đảng Cộng Hòa Đại Chúng. Khoảng tháng 8 năm 1965, nghĩa là chưa đầy 2 năm sau cuộc đảo chánh 1-11-63, ông Hoàng Xuân Việt đã cho ra tờ Tuần Báo Nhân Xã địa chỉ 33 đường Hai Bà Trưng, Sài Gòn làm cơ quan tuyên truyền đồng thời đứng ra lập Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo. Người viết có lần đến thăm ông Hoàng Xuân Việt và ông Nguyễn Văn Triều (Chủ tịch Hội Đua Ngựa (?) ở địa chỉ 33 đường Hai bà Trưng, Sài Gòn  thì được ông Hoàng Xuân Việt cho biết đã chính thức thành lập Đảng. Người viết hỏi tên Đảng là gì? Ông Hoàng Xuân Việt trả lời bằng tiếng Pháp: “Democrate chrétien” tức là Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo. Người viết hỏi lại cái tên đó (Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo) liệu có thích hợp với tình hình Việt Nam hay không? Ông Hoàng Xuân Việt bảo rằng bên Đức cũng có Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo thì có sao đâu?
Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo của nhóm ông Hoàng Xuân Việt và Nguyễn Văn Triều không có tiếng tăm gì vì ít sinh hoạt, nhưng tờ tuần báo Nhân Xã là cơ quan ngôn luận của Đảng đã it nhiều nói lên tinh thần của Cần Lao Nhân Vị và chủ thuyết Nhân Vị. Cái tên Nhân Xã rõ ràng bao gồm cụm từ Nhân Bản Xã Hội.  Chính ông Hoàng Xuân Việt đã giải thích rõ cho người viết khi đến thăm ông ở địa chỉ 33 Hai Bà Trưng, Sài Gòn
Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội của TT Nguyễn Văn Thiệu
Sau khi đắc cử Tổng Thống nhiệm kỳ 1 (1967-1971) của Đệ Nhị Cộng Hoà, ông Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu củng cố quyền lực để chuẩn bị cho nhiệm kỳ sau. Phía Quân Đội coi như ông đã nắm vững và loại được phe phái của Nguyễn Cao Kỳ. Vì áp lực của Quân Đội và nhất là của Mỹ, ông Nguyễn Cao Kỳ đã phải chấp nhận làm Ứng cử viên Phó Tổng Thống cho ông Thiệu trong Liên danh với một số hứa hẹn nào đó của ông Nguyễn Văn Thiệu như chấp nhận Thủ Tướng phải là người của ông Kỳ đưa ra. Tạm thời, ông Thiệu đã nhượng bộ ít điều, cho LS. Nguyễn Văn Lộc là người của ông Kỳ đưa ra làm Thủ Tướng. Sau đó, ông Thiệu tìm cách loại dần anh hưởng của nhóm ông Kỳ. Thực tế, ông Thiệu cao cơ hơn, đã vin vào Hiến Pháp thẳng tay loại dần ảnh hưởng của ông Kỳ ra khỏi Chính Quyền.
Ngoài ra, nhằm thực hiện quy chế lưỡng đảng để lấy lòng Mỹ và tạo sự đoàn kết thống nhất, TT Nguyễn Văn Thiệu đã đứng ra thành lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội do ông lãnh đạo như là phe nắm chính quyền. Mặt khác, ông Thiệu lại kêu gọi các Đảng phái khác nếu không muốn hợp tác với Chính Phủ có thể đứng ra lập Liên Minh đối lập.
Kết quả phía chính quyền với Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội do TT Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch Chủ Tịch Đoàn quy tụ 6 Đảng sau đây:
  1. Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hồng Khanh)
  2. Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng (Trương Công Cừu)
  3. Việt Nam Dân Xã Đảng (Phan Bá Cầm)
  4. Đại Việt Cách Mạng (Hà Thúc Ký)
  5. Lực Lượng Đại Đoàn Kết (Nguyễn Gia Hiến)
  6. Liên Minh Dân Tộc Cách Mạng Xã Hội (Nguyễn Văn Hướng)
Phía đối lập cũng rục rịch vận động lập Liên minh. Người viết có đến trụ sở Chánh Đảng Cộng Hòa Đại Chúng thăm quý ông Trần Chánh Thành và Cao Xuân Vỹ, tình cờ gặp Giáo sư Vũ Quốc Thông đại diện cho Lực Lượng Dân Chủ Phật Giáo và một vài vị thuộc đảng phái khác nhưng không nhớ tên. Quý vị đã họp bàn về việc hình thành Liên minh Đối lập nhưng chưa đi đến kết quả nào.
Khi cho ra đời Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội, TT Nguyễn Văn Thiệu đã gây được sự chú ý của dư luận. Hoa Kỳ hoan nghênh nhiệt liệt. Còn Cộng Sản Bắc Việt thì liền tung ra chiến dịch đả kích thậm tệ trên các Đài phát thanh của chúng mấy tuần liền. Điều đó chứng tỏ CSBV rất sợ một thế Liên Minh chống Cộng chặt chẽ của Khối Người Việt Quốc Gia ở Miền Nam. Mặt Trận này sẽ là mũi xung khích đánh văng Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam một công cụ bù nhìn của Hà Nội. Vì dầu sao các Đảng phái chính trị ở Miền Nam vẫn là những tổ chức có quá trình đấu tranh quyêt liệt mà đồng bào Nam Bắc đều biết đến. Tiếc rằng, ông Nguyễn Văn Thiệu không biết khai thác chiêu bài lớn lao này. Vì TT Nguyễn Văn Thiệu lập Mặt Trận chỉ nhằm hậu thuẫn cho cá nhân ông mà không nghĩ đến sự đoàn kết quốc gia trong một mặt trận chống Cộng của toàn dân. Thực chất, các tổ chức chính trị này khi tham gia Mặt Trận lại chỉ mong kiếm ghế. Nhưng ông Thiệu chỉ mời một số nhân vât thân tín tham gia Nội Các như Dược sư Ngô Khắc Tỉnh là người bà con của ông làm Bộ Trưởng Thông Tin, và Luật Sư Lê Trọng Quát làm Thứ Trưởng Thông Tin. Ngoài ra những vị khác chỉ được mời đến họp để lấy ý kiến mà ông Thiệu không đề ra chương trình hành động chung cho Mặt Trận. Kết quả chỉ sau mấy tháng thì Mặt Trận tan rã, ai về nhà nấy. Ông Ngô Khắc Tỉnh lúc đó lại được ông Thiệu thuyên chuyển qua làm Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục nên LS Lê Trọng Quát mất chức Thứ Trưởng Thông Tin phải về vườn.
Như đã nói trên, Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng, sau khi ông Ngô Khắc Tỉnh tham chính từ Tổng Trưởng Thông Tin qua Tổng Trưởng Giáo Dục thời ông không còn ngó ngàng gì đến Đảng nữa. Ông Trương Công Cừu chán nản không làm việc. Tờ Thời Báo do ông Ngô Trọng Hiếu đứng Chủ bút và ông Kièu Văn Lân làm Quản nhiệm cũng tự đình bản. LS Lê Trọng Quát liền đứng ra thành lập Lực Lượng Nhân Dân Kiến Quốc do ông làm Chủ Tịch. Đảng Nhân Xã sau đó đưa ông Trương Vĩnh Lễ ra làm Chủ Tịch một thời gian cũng không làm nên cơm cháo gì. Năm 1971, Ông Trương Vĩnh Lễ lập liên danh ứng cử vào Thượng Viện nhưng thất bại. Ông liền bỏ cuộc. Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng lại biến thể thành Đảng Tự Do do LS Nguyễn Văn Huyền làm Chủ Tịch cho đến khi Miền Nam rơi vào tay Cộng sản ngày 30/04/1975 là chấm dứt.
Đảng Công Nông với nhân vật Trần Quốc Bửu
Ông Trần Quốc Bửu là một trong những người sát cánh với ông Ngô Đình Nhu trong việc thành lập Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Thật ra, mới đầu ông Ngô Đình Nhu và các Sáng lập viên lấy tên Đảng là Đảng Công Nông, sau vì tránh ngộ nhận với Đảng Lao Động của Việt Cộng nên quý ông đã đổi thành Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Riêng ông Trần Quốc Bửu chỉ sinh hoạt tích cực trong giai đoạn đầu khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm về chấp chính. Sau khi tình hình Miền Nam ổn định, ông Ngô Đình Nhu đã đích tổ chức Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam (TLĐLCVN) và trao cho ông Trần Quốc Bửu vai trò lãnh đạo công nhân toàn quốc. TLĐLCVN là một tổ chức nghiệp đoàn có bề thế và uy tín lớn lao nhờ có Tổng Liên Đoàn Công Kỹ Nghệ Hoa Kỳ yểm trợ. Cá nhân ông Trần Quốc Bửu còn được bầu vào chức vụ Phó Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Thế Giới có trụ sở tại Genève, Thụy Sĩ. Sau ngày 1-11-1963, nhóm tướng lãnh đảo chính cho người bắt bỏ tù ông Trần Quốc Bửu, nhưng Mỹ đã can thiệp buộc phải thả ông ra ngay. Từ đó, ông Trần Quốc Bửu tiếp tục lãnh đạo TLĐLCVN như trước. Vì thấy các đoàn thể chính trị sinh hoạt chẳng ra gì nên ông đứng ra tổ chức Đảng Công Nông (tên cũ của CLNVCMĐ) cũng do ông làm Chủ Tịch và Dân Biểu Nguyễn Bá Cẩn làm Tổng Thư Ký. Như vậy, có thể nói Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng hệ phái Trần Quốc Bửu đã công khai xuất hiện theo chiều hướng mới nhằm đáp ứng tình hình đấu tranh chính trị tại Miền Nam trong viễn tượng các bên tham chiến sẽ ký kết với nhau một Hiệp Định đang họp bàn tại Paris, Pháp Quốc. Vì có sẵn nhân sự, cán bộ và cơ sở trong TLĐLCVN nên việc thành lập Đảng Cộng Nông không là điều khó khăn đối với ông Trần Quốc Bửu. Ông chỉ cần sắp xếp nhân sự, bầu Ban Chấp Hành các cấp, và trương bảng hiệu là xong.
Nhận định về hậu thân của Cần Lao Nhân vị Cách Mạng Đảng
Trong phần I về Lời trối trăng của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu (7-07- 2011), người viết đã ghi lại một số sự kiện liên quan đến Đảng Cần Lao và có nhận định: “Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng đã đóng góp nhiều công sức cho việc thành lập nền Cộng Hòa Việt Nam cũng như công cuộc diệt trừ Cộng sản, từ lý thuyết đến hành động. Tất nhiên CLNVCMĐ cũng có khuyết điểm như bất cứ tổ chức chính trị nào khác. Điều đáng tiếc là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, Tổng Bí Thư Đảng vì quá đa đoan trong quốc sự có lẽ đã không còn thì giờ quan tâm nhiều đến Đảng. Cho nên, thực tế cho thấy tổ chức và sinh hoạt của Đảng chỉ khá mấy năm đầu, còn về sau thì quá rời rạc, nhất là sau khi ông Ngô Đình Nhu ra lệnh giải tán Liên Kỳ Bộ Nam-Băc thì kể như không còn hoạt động. Việc kết nạp Đảng viên thiếu thận trọng. Những nhân vật được coi là trụ cột của Đảng cũng thiếu Đảng tính, thiếu phẩm chất. Một số phần tử vào Đảng chỉ để kiếm chức vụ mà không lo làm cách mạng, cho nên khi tình thế thay đổi, trước những miếng mồi ngon do ngoại bang đem ra nhử đã vội vàng quay lưng phản Đảng, phản Lãnh tụ. Kết quả, như đã thấy, sau 1-11-1963, những kẻ phản bội đó đã không làm nên trò trống gì mà những Đảng viên trung thành thì không đủ tầm vóc và Đảng tính để tiếp tục con đường của Lãnh tụ đề ra”. Đúng như vậy, những tổ chức hậu thân của Đảng Cần Lao như Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng, Chánh Đảng Cộng Hòa Đại Chúng, Lực Lượng Nhân Dân Kiến Quốc, Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo, Đảng Cộng Nông với các nhân vật như Trương Công Cừu, Ngô Khắc Tỉnh, Lê Trọng Quát, Trần Chánh Thành, Cao Xuân Vỹ, Hoàng Xuân Việt, Trần Quốc Bửu, Trương Vĩnh Lễ, vân vân… không đủ tầm vóc, thiếu khả năng tổ chức, không có uy tín như một lãnh tụ cách mạng với sức hấp dẫn quần chúng nên không làm nên được việc gì đáng kể, ngoài việc coi đó như là nấc thang để kiếm quyền, kiếm chức. Tất cả đã thất bại về mặt tổ chức Đảng. Sau khi Ông Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Đảng Cần Lao như rắn mất đầu. Thân rắn còn lại dù có cố gắng hay ngo ngoe cũng chẳng làm nên cơm cháo gì. Riêng ông Trần Quốc Bửu thành công ít nhiều về mặt Nghiệp Đoàn, nhưng về mặt Đảng vụ cũng yếu kém. Ngay việc Tổng Liên Đoàn Lao Công do ông làm Chủ Tịch dã để cho tình báo Việt Cộng xâm nhập vào tận cấp Trung Ương do Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung khám phá ra đã cho thấy hệ thống an ninh nội bộ của TLĐLCVN quá lỏng léo và yếu kém chứng tỏ ông Trần Quốc Bửu đã quá chủ quan, khinh địch!
Người viết có dịp tiếp xúc với một số nhân vật được gọi là cốt cán của CLNVCMĐ, nhưng không thu thập được tài liệu đặc biệt nào của Đảng. Tài liệu quan trong như các văn kiện của Đảng cũng không có. Ngoài một vài lớp huấn luyện Cán bộ Đảng viên lúc ban đầu ở Hà Nội và Đà Lạt, chưa thấy có văn kiện hay sinh hoạt nào khác như Đại Hội Đảng và Quyết Nghị của Đảng… Tất cả hoàn toàn bí mật hay “không có sinh hoạt Đảng vụ”? Câu trả lời “không sinh hoạt” có lý hơn. Còn những bài viết hay tài liệu được tung ra sau ngày 1.11.1963 nhằm chống đối Đệ Nhất Cộng Hòa và CLNVCMĐ hoàn toàn là bịa đặt, nguỵ tạo như cuốn Đảng Cần Lao của Chu Bằng Lĩnh (một tên ghiền thuốc phiện như lời Cụ Hà Thượng Nhân khi còn sinh thời cho biết). Các tài liệu đánh phá đều do bọn ký giả bất lương viết theo đơn đặt hàng hay chỉ thị của kẻ thù và tập đoàn tay sai phá hoại. Mục đích của chúng tung ra chiêu bài “Cần Lao Ác Ôn” chính là để trả thù và che giấu âm mưu làm tay sai cho ngoại bang. Qua các diễn biến của tình hình Miền Nam từ 1963 đến nhiều năm sau này, cá nhân người viết có cảm tưởng Đảng Cần Lao chỉ là con ngáo ộp mà nhiều người dùng để hù dọa và cũng để gây bất mãn vì nhiều Cựu Đảng Viên Cần Lao vẫn được Đệ Nhị Cộng Hòa trọng dụng. Thật ra, sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, Miền Nam rơi vào khủng hoảng lãnh đạo trầm trọng. Đúng như nhận xét của Thống chế Tưởng Giới Thạch nhận xét: “Mỹ đã làm một việc hết sức sai lầm là đã hạ sát TT Ngô Đình Diệm. Việt Nam phải hằng 100 năm sau mới có một nhân vật như vậy”.(Bài viết của TS. Pham Văn Lưu: Quan điểm của ông Ngô Đình Nhu về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng). Điều đó cho thấy, Mỹ đã dở, mà bọn tướng tá tay sai lại còn tệ hại hơn.
Đảng Dân Chủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Trong các chính khách lúc bấy giờ ở Miền Nam, có lẽ ông Thiệu chẳng gờm ai ngoài ông Trần Quốc Bửu, người có uy tín, có khả năng tổ chức và lãnh đạo, lại được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Nhưng ông Trần Quốc Bửu là người khôn ngoan, biết tính toán. Ông không vội gì ra tay cạnh tranh với ông Thiệu. Ngược lại ông Thiệu, sau khi lập MTQGDCXH chẳng đi tới đâu, lại quyết định lập Đảng Dân Chủ nhằm tạo hậu thuẫn cho cá nhân ông. Ban Lãnh đạo Đảng Dân Chủ của ông Nguyễn Văn Thiệu gồm có:
-          Nguyễn Văn Thiệu , Tổng Thống VNCH, Chủ Tịch Đảng
-          Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Chính Phủ
-          Trần Trung Dung, Nghị Sĩ  ở Thượng Nghị Viện
-          Trần Minh Tùng, Tổng Trưởng Y Tế, Tổng Thư Ký
-          Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Hạ Nghị Viên
-          Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện
-          Đinh Xuân Minh, Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Hạ Nghị Viện
-          Nguyễn Văn Ngân, Phụ Tá Đặc Biệt Liên lạc Các Đoàn Thể
Khi lập Đảng Dân Chủ, ông Thiệu giao hết việc vận động và tổ chức cho Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân. Nguyễn Văn Ngân nguyên là tay chân thuộc hạ của Phụ Tá Đặc Biệt Nguyễn Cao Thăng. Khi ông Nguyễn Cao Thăng bị bịnh ung thư phải ra ngoại quốc chữa bịnh thì Nguyễn Văn Ngân được ông Thiệu cho làm nhiệm vụ liên lạc Quốc Hội như ông Thăng đã làm. Sau khi ông Nguyễn Cao Thăng qua đời thì ông Thiệu cử Nguyễn Văn Ngân làm Phụ Tá Đặc Biệt thay ông Nguyễn Cao Thăng. Nhờ vào vị thế này và vì nắm “hầu bao” chi tiền cho các Dân Biểu, Nghị Sĩ thân chính quyền, ông Nguyễn Văn Ngân đã tìm cách lùa các viên chức cán bộ xã ấp, công chức và các sĩ quan đảm nhiệm các chức vụ hành chánh như Tỉnh trưởng, Quận Trưởng vào Đảng Dân Chủ. Phe nhóm ông Ngân tổ chức chia ra hệ thống Đỏ và hế thống Xanh. Đỏ là Quân nhân như Tỉnh Trường, Quận Trường. Xanh là dân sự Viên chức Xã ấp. Có thể nói đây là một Đảng chính trị ô hợp nhất từ xưa đến nay. Ngay bộ phận lãnh đạo nói trên đã cho thấy một sự gượng ép, đồng sàng dị mộng, mà không có sự đồng tâm nhất trí. Dân Biểu Nguyễn Bá Cẩn lúc đó đang là Chủ Tịch Hạ Nghị Viện, và là Tổng Thư Ký Đảng Công Nông của ông Trần Quốc Bửu, đã được ông Thiệu kéo sang Đảng Dân Chủ cùng với một số Dân Biểu thân chính khác, thế là Đảng Công Nông của ông Trần Quốc Bửu bị “hỏng giò”. Nhưng sự việc đó cũng chẳng ăn thua gì lắm đối với khả năng và uy tín của ông Trần Quốc Bửu, khi một số đồng chí vì quyền lợi mà bỏ Đảng Công Nông ra đi theo Đảng Dân Chủ của ông Thiệu.
Cựu Đảng Viên Cần Lao lại được trọng dụng
Sau khi đảo chánh thành công và nắm được chính quyền, nhưng các chính phủ từ Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, không sao ổn định được tình hình vì thiểu khả năng và uy tín nếu không muốn nói là bất lực. Nội các nào cũng chỉ kéo dài được vài ba tháng là đổ. Phải đợi cho tới Quân Đội trở lại cầm quyền và khi Mỹ không còn ủng hộ phe nhóm Thích Trí Quang nữa thì tình hình mới tạm yên.
Trước đây, nhiều thanh phần chống đối TT Ngô Đình Diệm vì cho rằng chính phủ Ngô Đình Diệm chủ trương đàn áp đảng phái đối lập. Nhưng sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, thì họ mới nhận ra rằng nạn phe đảng từ các giáo phái và các đảng chính trị chỉ làm cho tình hình thêm tệ hại. Những nhân vật có tiếng thuộc các đảng Đại Việt hay Việt Nam Quốc Dân Đảng có cơ hội tham chính nhưng đã tỏ ra hoàn toàn bất lực. Lãnh tụ đã dở mà đảng viên lại thiếu phẩm chất. Đến khi có cơ hội tham chính thì chẳng biết xoay sở ra sao. Nói thì hay mà hành động lại kém cỏi. Cứ nhìn lại các nhân vật như Phan Huy Quát, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Tiến Hỷ, vân vân là những lãnh tụ Đảng thì đủ rõ. Lãnh tụ làm việc đã dở, thử hỏi các đảng viên của họ sẽ ra sao? Bởi đó, khi chính phủ Nguyễn Cao Kỳ ra đời, thì đã phải mời một số cựu đảng viên Cần Lao của chế độ Ngô Đình Diệm ra làm việc. Phải nói là các Đảng viên Cần Lao và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia là những người có khả năng và kinh nghiệm. Nhiều người trong số đó đã ra ứng cử các chức vụ đại diện như Dân Biểu, Nghị Sĩ, Nghị Viên và đã được dân chúng tín nhiệm bầu.
Cả hai ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đều dùng người của Cần Lao. Có điều mỗi ông có lối dùng khác nhau. Ông Kỳ tính bộc trực, không thâm hiểm như ông Thiệu. Trong khi ông Nguyễn Cao Kỳ cho Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng ra đời và dùng nhiều cựu Đảng viên Cần Lao thì ông Nguyễn Văn Thiệu lại rất dè dặt và tình kỹ. Vì ông Thiệu chỉ lo bảo vệ chiếc ghế Tổng Thống nên ông chỉ dùng giới hạn và ăn chắc như trường hợp DS. Nguyễn Cao Thăng, Cựu Dân Biểu Quốc Hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa, được ông Thiệu mời làm Phụ Tá Đặc Biệt để “nắm” Quốc Hội. Ngoài ra, nhân vật nào có tiếng và có khả năng là ông Thiệu cho an ninh bám sát, theo dõi ngày đêm. Cụ thể nhất là trường hợp BS Trần Kim Tuyến, nguyên Giám Độc Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội Phủ Tổng Thống thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Nhà bác sĩ Tuyến ở đường Công Lý luôn luôn bị an ninh lảng vảng bên ngoài theo dõi. Ông Tuyến đi đâu là an ninh cặp kè theo sau. Về đến nhà, an ninh lại ngôi canh chừng ngoài cổng!
Câu hỏi cần đặt ra là tại sao Nguyễn Văn Thiệu lại cho người bám sát, theo dõi BS. Trần Kim Tuyến? Thưa vì BS Tuyển là Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị trông coi về tình báo (nôm na gọi là mật vụ), quen biết và liên hệ với nhiều nhân vật trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Có thế nói Sở Nghiên Cứu là hệ thống thần kinh của chế độ. Sở Nghiên Cứu không phải là sáng kiến của TT Ngô Đình Diệm mà là của Mỹ. Chính Mỹ đề nghị TT Ngô Đình Diệm lập cơ quan mât vụ tức Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội tương tự như CIA của Mỹ và chính CIA huấn luyện Bác Sĩ Trần Kim Tuyến trở thanh trùm mật vụ và từng tài trợ ít nhiều cho Sở này. Chuyện tình báo hay mật vụ là chuyện bình thường của bất cứ Quốc Gia nào, dân chủ hay độc tài, kế cả Mỹ. Ở Hoa Kỳ, ngoài Cơ quan Điều tra Liên Bang tức FBI, còn có CIA tức Trung Ương Tình Báo và Sợ Mật Vụ. Bởi vì muốn giữ gìn an ninh và đề phòng sự xâm nhập của đối phương hay kẻ thù thì phải có cơ quan Tình báo hay Mật Vụ, dù danh xưng có khác nhau, nhưng thực chất và nội dung cũng tương tự như nhau. Cái đáng buồn là khi Mỹ muốn lật đổ chế độ Cộng Hòa Việt Nam với Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì họ tung ra nhiều đòn phép rất là độc hại không phải chỉ vào thời điểm đó mà di hại cho đến ngày nay. Xin nhắc lại ba đòn phép chính:
- Trước hết là gây ly gián giữa những nhân vật cao cấp và thân tín của TT Ngô Đình Diệm với Tổng Thống bằng những xúi giục, hứa hẹn chức quyền. Họ hứa với PTT Nguyễn Ngọc Thơ và Bộ Trưởng Nguyển Đình Thuần là TT Diệm ra đi thì Nguyễn Ngọc Thơ sẽ lên làm Tổng Thống, và Nguyễn Đình Thuần sẽ lên làm Thủ Tướng sau khi sửa Hiến Pháp. Họ còn liên hệ bí mật với nhiều nhân vật khác như GS. Vũ Văn Mẫu, Bộ Trưởng Ngoại Giao, ông Võ Văn Hải, Chánh Văn Phòng để xúi giục và hứa hẹn. Kết quả cho thấy nhiều nhân vật đã biết rõ âm mưu của Mỹ, được Mỹ hứa hẹn để bất động, không tiết lộ hay báo cáo cho với TT Ngô Đình Diệm. Họ hứa hẹn và tách rời Ông bà Đại sứ Trần Văn Chương (là bố mẹ vợ của Cố Vấn Nhu) với chính phủ Ngô Đình Diệm.
- Họ gặp riêng một số nhân vật và phe nhóm có khả năng, xúi giục lập nhóm đảo chánh mà thực chất là để “cầm chân” và ly gián với TT Ngô Đình Diệm. BS Trần Kim Tuyến, ông Huỳnh Văn Lang và Đại tá Phạm Ngọc Thảo là những nhân vật chủ trương làm đảo chánh, loại trừ ông Ngô Đình Nhu mà giữ lại TT Ngô Đình Diệm yên vị, và những nhân vật này sẽ giữ vai trò chủ chốt của chế độ như Thủ Tướng, Bộ Trưởng, vân vân… Nhưng CIA liên hệ với BS Trần Kim Tuyến rồi lại tiết lộ cái “âm mưu” của BS Tuyến cho ông Ngô Đình Nhu biết. Thế là TT Ngô Đình Diệm liền cất chức Giám Đốc Sở nghiên Cứu của BS Tuyến và cử ông làm Tổng Lãnh Sự tại Le Caire, thủ đô Ai-Cập. Chuyện xẩy ra là CIA không tin cậy vào những nhân vật này, họ chỉ muốn cầm chân và dùng nhóm Quân Đội dễ sai bảo hơn. Chính vì thế, Trần Thiện Khiêm là người thân với ông Huỳnh Văn Lang và Đại Tá Phạm Ngọc Thảo nhưng đã liên lạc chặt chẽ với CIA và nhất là Lou Coenin để thực hiện cuộc đảo chánh 1-11-1963. Đẩy được BS Trần Kim Tuyến ra khỏi Sàigòn là kể như họ đã nắm chắc phần thắng lợi 50 phần 100, vì hệ thống mật vụ đã bị bỏ ngỏ, không hoạt động gì được dưới quyền tân Giám Đốc Pham Thư Đường.
- Họ xúi giục và hỗ trợ nhóm Phật Giáo cực đoan ở Miền Trung và Thích Trí Quang để gây rối loạn cùng với cuộc “thiêu sống” của TT Thích Quảng Đức. Có thể nói dây là đòn phép, một thủ đoạn độc hại nhất, chẳng những góp phần làm xấu bộ mặt của chế độ Cộng Hòa Việt Nam mà còn gây ra hậu quả chia rẽ nghi kỵ nhau giữa các Tôn giáo từ 1963 cho đến ngày nay.
Dù Đệ Nhất Cộng Hòa đã bị lật đổ, nhưng người của chế độ vẫn còn. Khi làm Tổng Thống, ông Nguyễn Văn Thiệu có dùng một số nhân vật cũ, nhưng ông chỉ nhắm những ai có lợi cho cá nhân ông thì mới dùng. Vì ông Thiệu không có tư cách, tài năng, đức độ và yêu nước như TT Ngô Đình Diệm nên ông không dám dùng người tài mà chỉ dùng tay sai và gia nô để sai bảo. Ông lại càng sợ Mỹ sẽ đối xử với ông như TT Ngô Đình Diệm nên ông chỉ cần được lòng Mỹ, và nghi kỵ bất cứ người nào có tài, trong đó có BS. Trần Kim Tuyến.
Ngưởi thứ hai là ông Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung. Gọi là Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung nhưng hoạt động tỏa rộng khắp Miền Nam để truy tầm các ổ gián điệp Cộng sản. Dưới sự chi huy của ông Dương Văn Hiếu, Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã phá vỡ bao mạng lưới tình báo của Cộng Sản Bắc Việt cài vô trong Nam, truy lùng và bắt giữ được nhiều tên trùm gián điệp cỡ gộc như Trần Quốc Hương, Đại Tá Lê Câu, vân vân. Tiếc rằng sau đảo chánh, Mai Hữu Xuân, Đỗ Mậu và Hà Thúc Ký đã lần lượt thả chúng ra như thả cọp về rừng nên chúng có cơ hội gây dựng lại các cơ sở đã bi Đoàn Công Tác Đặc Biệt phá vỡ. Thật là mối nguy không sao lường được! Sau một thời gian bị cầm tù được thả ra, ông Dương Văn Hiếu lại được chính quyền của TT Nguyễn Văn Thiệu mời làm việc trở lại tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Ông Dương Văn Hiếu than phiền chưa khi nào làm việc mà chán ngán như thời gian này. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu mời làm việc nhưng chẳng giao việc gì cả. Họ chỉ có ý cầm chân ông Hiếu thôi! Thật đáng buồn cho nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Thật đáng buồn cho thân phận quê hương bị trao vào tay những kẻ vô tài bất xứng nên đã rơi vào tay Cộng Sản.  
Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Sau khi chính quyền của TT Ngô Đình Diệm bị lật đổ thì coi như Mỹ toàn quyền quyết định số phận của Việt Nam Cộng Hòa trước sự bất lực và yếu kém của bọn tướng lãnh phản phúc và các chính phủ sau ngày 1-11-1963. Mỹ tưởng rằng hạ bệ được Tổng Thống Ngô Đình Diệm rồi thì với phương tiện viện trợ dồi dào của Mỹ, tình hình miền Nam sẽ sáng sủa hơn. Nào ngờ Miền Nam lâm vào cuộc khủng hoảng lãnh đạo, không sao giải quyết được vì không có một nhân vật nào đủ tầm vóc như TT Ngô Đình Diệm để có thể ổn định tình hình. Bây giờ, người ta mới thấy rằng cuộc đảo chánh 1-11-1963 là một trò chính trị tệ hại nhất mà Hoa Kỳ đã thực hiện và mắc kẹt vào vũng lầy ở Việt Nam. Cũng từ ngày đó, người ta mới thấy tài năng, đức độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trổi vượt và không có ai để thay thế được. Người ta lấy làm tiếc ông Diệm cùng những công trình mà Đệ Nhất Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của ông đã thực hiện cho Miền Nam trong 9 năm cầm quyền. Nhớ để thương tiếc một nhân vật lãnh đạo vì độc lập và chủ quyền quốc gia đã phải hy sinh một cách tức tưởi dưới bàn tay thô bạo của bọn người phản phúc và đồng minh. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu không còn nữa. Ngày 1-11 đã trở thành ngày tang tóc, mở đầu cho những thất bại triền miên đưa miền vào ách thống trị của Cộng sản.
Ngay sau khi TT Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát, thời đã có nhiều nơi ầm thầm làm lễ cầu nguyện cho anh linh Tổng Thống và bào huynh. Rồi từ đó, hằng năm, cứ đến ngày 2-11-1963, rất nhiều nơi đã làm Lễ tưởng niệm và cầu nguyện cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Mới đầu thì ít ỏi vị sợ mang tiếng Cần Lao sẽ bị trả thù. Nhưng dân dần, khi bọn người phản phúc bị đá văng ra khỏi chính trường thì việc Cần Lao tái hoạt động và việc tổ chức Lễ Tưởng Niệm TT Ngô Đình Diệm đã ở mức quy mô, hầu như toàn quốc. Bây giờ người ta mới thấy âm mưu lật đổ chính quyền của TT Ngô Đình Diệm là do CIA chủ động. Ngày 1-11-1963, Lou Coenin đã ngồi ngay trong phòng làm việc của Đại Tướng Lê Văn Tỵ (lúc đo đang đi chữa bệnh tại Hoa Kỳ), gác hai chân lên bàn để chỉ đạo cuộc đảo chánh. Nhóm tướng lãnh thực hiện đảo chánh (Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Trần Thiện Khiêm, Mai Hữu Xuân, vân vân) chỉ là bọn tay sai đâm thuê chém mướn bằng một cái giá rẻ mạt 42 ngàn Dollars do Lou Coenin trực tiếp trao cho Trần Văn Đôn để chia nhau sau đảo chánh. Đó là giá máu được trao cho những tên Giu-đa tân thời!
Sự thật càng được phơi bầy thì bọn đâm thuê chém mướn lại càng cảm thấy nhục nhã!  Không một tên nào dám nhận ra lệnh giết hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Chính vì thế uy tín của TT Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa lại càng tăng, được tôn vinh và đề cao.
Trong hai năm sau Đảo chính, tình hình chính trị miền Nam thêm rối ren chưa từng thấy. Cuộc Chỉnh lý của Nguyễn Khánh càng không giải quyết được gì hơn, ngoài việc loại trừ nhau giữa bọn phản phúc. Tình hình cứ xáo trộn mãi cho đến khi nhóm tướng trẻ (Thiệu, Kỳ, Có) loại được Nguyễn Khánh cũng như nhóm dân sự ra đi để Quân Đội trở lại nắm chính quyền. Lúc đó (vào khoảng tháng 6-1965) bộ ba Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Hữu Có nắm toàn quyền với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Mỹ. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (đóng vai Quốc Trưởng). Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy ban Hành Pháp Trung Ương (tức Thủ Tướng) và Trung Tướng Nguyễn Hữu Có làm Phó Chủ Tịch UBHPTƯ (Phó Thủ Tướng) kiệm Bộ Trưởng Quốc Phòng và Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH. Tuy là Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng, kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, nhưng Văn phòng làm việc của Tướng Có lại đặt ở Bộ Tổng Tham Mưu. Vì sợ tình hình còn biến loạn nên Nguyễn Hữu Có đã chỉ thị cho đàn em phải dời hai phần mộ của TT Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu ra Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi, đặt gần ngay mộ của Cố Đại Tướng Lê Văn Tỵ (qua đời năm 1964).
Thật vậy, suốt hai năm (1963-1965), vì tình hình miền Nam xáo trộn liên miên nên nhiều ông Tướng tin rằng vì TT Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát và thi thể hai ông lại đem chôn ở trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu nên bị hai ông phá. Từ ngày Nội Các Chiến Tranh và Tướng Có cho lệnh dời thi hài hai vị ra Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi thì tình hình Miền Nam bắt đầu tạm ổn định.
Lễ giỗ cho TT Diệm lần đầu tiên được tổ chức công khai ngay tại Sài Gòn năm 1966 là do Cố Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, cựu Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ  và Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh, nguyên Chánh Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung của ông Ngô Đình Cần, lúc đó cũng làm việc với ông tại Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Khi được biết Bộ Tổng Tham Mưu đã cho đưa thi hài Tổng Thống Diệm và Cố vấn Nhu ra Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, vì họ tin rằng để  TT Diệm và CV Nhu trong khuôn viên Bộ TTM nên bị phá, các Tướng cứ lật nhau hoài. Cuối năm ấy hai ông đã thông báo địa điểm phần mộ Tổng Thống Diệm và Cố vấn Nhu ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cho một số hội đoàn của ít nhất 7, 8 xứ đạo lân cận Sài gòn, đồng thời xin lễ cầu hồn cho hai Vị tại nhà thờ Xóm Chiếu. Ngày 2/11 năm 1966 đã có một đoàn hàng chục xe Lam chở bà con đem bông, nhang, nến, đến thắp, đặt bông, đọc kinh cầu nguyện cho hai Vị tại Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi. Trong khi đó, tại nhà thờ Xóm chiếu do Linh mục Phạm Hoàng Thanh nhận thực hiện. Cha Thanh đã đặt một bàn mồ lớn giữa nhà thờ với đèn nến, bông hoa rất trang trọng. Trên 2 lối vào nhà thờ, cha căng 2 biểu ngữ lớn, nền tím chữ vàng "Lễ Cầu Hồn cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm". Có 2, 3 thông tín viện ngoại quốc đến chụp hình, quay phim.
Những năm kế tiếp, việc tổ chức Lễ Giỗ TT Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu được tổ chức liên tục hằng năm tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế số 38 đường Kỳ Đồng, sau đó là Nhà Thờ Đức Bà tức Vương Cung Thánh Đường tại Công Trường Hòa Bình, Sài Gòn ngay trước Bộ Nội Vụ và Tổng Nha Bưu Điện.
Năm 1971, Lễ Tưởng Niệm và Cầu Nguyện cho Cố TT Ngô Đình Diệm tại Vương Cung Thánh Đường tức Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn có thể được coi như là ngày long trọng và lớn lao nhất. Hàng ngàn đại diện Dân, Quân, Cán, Chính và đồng bào đã tề tựu đông đủ vào sáng ngày 2-11-1971. Ban tổ chức đã phân công cho chúng tôi, Cựu Trung Tá Trần Thanh Chiêu và người viết phụ trách vận động đồng bào vùng Thủ Đức, Hố Nai, Biên Hòa. Phái đoàn Thủ Đức, Hố Nai, Biên Hòa được hướng dẫn đến Công Trường Hòa Bình, nhưng thay vì đến thẳng mặt tiền Nhà Thờ Đức Bà, đã đáp xuống đầu đường Duy Tân rồi sắp hàng thật dài diễn hành chung quanh nhà thờ mà đi đầu là ban kèn Tây Cecilia thuộc Giáo xứ Chân Phúc Khang Thủ Đức với bức chân dung Tổng Thống Ngô Đình Diệm được rước đi trước. Khi đoàn diễn hành tiến bước thì ban kèn đồng đã liên tục cử hành bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống vang lên khắp đường phố. Dân chúng đứng chung quanh đã túa ra xem và sáp nhập vô đoàn diễn hành, hô to khẩu hiệu “Ngô Tổng Thống Muôn Nam!”. Các phóng viên ngoại quốc chạy đôn đáo chụp hình, quay phim làm bản tin gửi đi khắp nơi khiến dư luận phấn khởi và súc động.
Sau Thánh Lễ cầu nguyện, thay vì dùng xe di chuyển như các năm trước, Ban Tổ Chức đã quyết định tất cả sẽ cùng diễn hành (đi bộ) từ đại lộ Thống Nhất đến Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi để viếng mộ TT Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Thời gian di chuyển tuy có kéo dài thêm vì số người tham dự quá đông diễn hành trên quãng đưởng khá dài từ Nhà Thờ Đức Bà đến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nhưng tất cả đều diễn ra rất trật tự và tốt đẹp.
Anh em nhớ đến tôi thì làm…
Sau khi Chính Quyền của TT Ngô Đình Diệm bị lật đổ và sau khi chứng kiến những thất bại và bất lực của các Chính Phủ sau ngày 1-11-1963, người ta mới thấy việc làm của Mỹ và bọn đâm thuê chém mướn là sai lầm không sao sửa chữa được. Thật đúng như lời nhận định của Cụ Phạm Xuân Ninh tức nhà thơ Hà Thượng Nhân, nguyên Trung Tá Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội VNCH:
 “Tôi nghĩ sự thật vẫn là sự thật. Các ông tướng lấy tiền của Mỹ có thể giết được thể xác anh em họ Ngô, nhưng họ không thể giết được thanh danh, tinh thần và uy tín của họ Ngô. Khi các ông tướng xuống tay thì chính cũng là lúc họ tự sát. Họ chết khi còn đang sống.
Muốn nói gì thì nói, miền Nam từ 1948 đén 1975, chỉ duy nhất có chế độ Ngô Đình Diệm là xứng đáng. Chỉ dưới chế độ ông, quốc gia mới có kỷ cương, có thể thống.
Không thể đem so sánh chế độ ấy với bất cứ chế độ nào từ Nguyễn Văn Xuân đến Nguyễn Văn Thiệu. Giết anh em họ Ngô, các ông tướng đã vô tình giết cái chính nghĩa quốc gia mà họ vẫn hô hào phục vụ,
Dù sao người chết đã chết rồi. Chỉ còn một điều đáng ân hận anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm còn một chính sách, một kế hoạch cần phải thực hiện.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng các ông Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn mới lo củng cố được chính quyền. Họ chưa có thì giờ thực hiện được những điều mà tác giả Nguyễn Văn Minh đề cập đến trong cuốn sách này.”
(Trích Lời Đề Tựa cuốn sách “Dòng Họ Ngô Đình, Giấc Mơ Chưa Đạt” của cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh, nguyên Chánh Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung, nguyên Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hạ Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH).
Tưởng niệm TT Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu thật sự không phải chỉ để tiếc nuối chế độ Cộng Hòa đã đem lại an bình, hạnh phúc cho người dân trong suốt chin năm trời mà phải đi vào hành động cụ thể. Chín năm xây dựng không phải là dễ dàng, bởi vì từ khi về VN chấp chánh, chính phủ Ngô Đình Diệm đã trải qua muôn vàn khó khăn, từ việc ổn định tình hình, dẹp tan các Giáo phái, thống nhất lực lượng Quốc gia, định cư gần một triệu đồng bao di cư từ Bắc vào Nam, vân vân. Sau đó đến việc xây dựng và đặt nền móng căn bản cho chế độ Cộng Hòa, bầu cử Quốc Hội, cải tổ Hành Chánh, tổ chức Quân Đội ở tầm mức quy mô, xây dựng và phát triển các ngành, cùng các lãnh vực kinh tế, tài chánh, xã hội, văn hóa, giáo dục… Rồi khi Cộng Sản Bắc Việt cùng với quan thầy Cộng sản Quốc Tế gia tăng xâm nhập phá hoại thì chính phủ Ngô Đình Diệm đã đề ra Quốc Sách Ấp Chiến Lược để đối phó với giặc Cộng. Nhìn lại chặng đường ngắn ngủi 9 năm với bao công việc như thế, phải nói là một kỳ công có một không hai ở Đông Nam Á. Các chính phủ sau ngày 1-11-1963 chỉ là những kẻ thừa kế các di sản đó. Cái khó là đặt nền móng xây dựng chế độ Cộng Hòa và TT Ngô Đình Diệm đã hoàn tất một cách tuyệt hảo. Nếu như các chính phủ sau 1-11-1963 biết bảo trì và phát triển những thành quả của nền Đệ Nhất Cộng Hòa thì lợi ích biết bao. Tiếc rằng bọn đâm thuê chém mướn cho CIA chỉ lo ăn chơi, phá hoại nên Miền Nam trở thành miếng mồi ngon cho Cộng sản thôn tính và nuốt trọn trong ngày bi thảm 30 tháng 04 năm 1975.
Trở lại Lời Trối Trăng của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, thì hai điều đầu tiên là (1) “Lý thuyết Nhân Vị và (2) đưa lý thuyết Nhân Vị vào trong Hiến Pháp bằng chủ trương Nhân Vị Cộng Đồng, Đồng Tiến Xã Hội” thời dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã làm rồi và trên đà triển khai lý thuyết này qua Quốc sách Ấp Chiến Lược. Sau ngày 1-11-1963, trên hình thức lý thuyết Nhân vị bị bãi bỏ và Đảng Cần Lao bị ngưng hoạt đông. Nhưng trên thực tế thì nó vẫn được duy trì dưới một hình thức khác nếu mọi người hiểu cho rằng chủ thuyết Nhân Vị nhằm đấu tranh bảo vệ quyền tự do và phẩm giá của con người. Nói rộng ra thì lý thuyết nhân vị hoàn toàn hướng vể con người, là nhân bản, là nhân quyền. Nội dung Tuyên ngôn Nhân Quyền của Cách Mạng Pháp (1789), Tuyên Ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776) và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc 1948 cũng đã bao hàm chủ thuyết Nhân vị. Hãy đọc và so sánh hai bản Hiến Pháp 1956 và Hiến Pháp 1967 có khác nhau nhiều đâu. Từ bố cục đến nội dung hầu như Hiến Pháp 1967 đã rập khuôn và sửa đổi lại một số điều khoản. Phần nói về quyền lợi và bổn phận công dân thì hầu như là không thay đối. Đây chính là nội dung chủ thuyết Nhân Vị đó thôi. Nghĩ lại cũng tức cười. Mấy ông to mồm chống đối “chế độ độc tài” Ngô Đình Diệm, vậy mà khi đắc cử làm Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến 1966 thì đã sao chép lại Hiến Pháp 1956 rồi đem sửa đổi một số điều, có khác chi nhổ ra rồi lại nuốt vô! Nếu chịu khó đọc các bản Hiến Pháp của Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Liên Sô, Trung Cộng, Việt Cộng và Hiến pháp VNCH 1956 rồi đem so sánh và tự hỏi: Hiến Pháp VNCH 1967 giống bản Hiến Pháp nào nhất? Chắc chắn là giống Hiến Pháp 1956 thời TT Ngô Đình Diệm hơn bất cứ bản Hiến Pháp nào khác trên thế giới.
Xin trích ngay Lời Mở Đầu của hai bản Hiến Pháp 1956 và Hiến Pháp 1967 để quý độc giả so sánht:
Tin tưởng rằng lòng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của Tổ Quốc (Lời Mở Đầu Hiến Pháp 1967)
Tin tưởng  tương lai huy hoàng bt dit ca Quc gia và Dân tc Vit Nam mà lch s tranh đu oai hùng ca t tiên và ý chí qut cường ca toàn dân đm bo; (Li M Đu Hiến Pháp 1956) 
Rõ ràng là các nhà lập hiến 1967 đã sao chép và sửa lại Lời Mở Đầu của Hiến Pháp 1956.
Nhớ lại, Quốc Hội Lập Hiến 1966-1967 gồm toàn những người mới, một số là những nhân vật từng chống đối TT Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa, chê Hiến Pháp 1956 là không dân chủ. Cũng Quốc Hội này, có nhiều cái đầu to như Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Trần Văn Văn, vân vân, vậy mà chẳng làm nên trò trống gỉ cả.
Còn luận điệu cho rằng Hiến Pháp 1956 là hiến pháp độc tài thì xin hãy bình tĩnh mà suy xét.
Khi về chấp chánh năm 1954, TT Ngô Đình Diệm đã phải đương đầu với tình hình muôn vàn khó khăn ở Miền Nam. Nạn sứ quân mà điển hình là mỗi Giáo phái hung cứ một vùng đang khi nhu cầu cấn thống nhất lực lượng để đối phó với Cộng sản, thử hỏi TT Ngô Đình Diệm làm gì để thống nhất lưc lượng quốc gia?  Tất nhiên phải dẹp tan nạn Giáo phái. Với tình hình ấy, nhiều nhân vật cho rằng chính phủ Ngô Đình Diệm khó lòng tồn tại được 6 tháng. Vậy mà nhờ sự cương quyết và khôn khéo, chính phủ Ngô Đình Diệm đã vượt qua mọi thử thách để thống nhất lực lượng quốc gia và xây dựng Nền Cộng Hòa ở Miền Nam được 9 năm trời. Lúc khó khăn, chính phủ Ngô Đình Diệm kêu gọi các nhân vật, các chính đảng hợp tác thì thấy nguy cơ, chính đảng và các nhân vật toan bỏ chạy theo Thực dân Pháp. Rồi sau mấy năm đầu tạm ổn định nhờ Phong Trào Tố Cộng quét sạch các ổ “Việt Cộng năm vùng”, tình hình bỗng trở nên khó khăn khi tập đoàn CS Hà Nội và quan thầy Nga Hoa âm mưu thôn tình Miền Nam, thời các chính khách sa lông lại giở trò tranh đấu đòi chia ghế. Vậy làm sao có thể nhượng bộ những đòi hỏi phi lý ấy?
Sau 1-11-1963, tình hình trở nên hỗn loạn là do đâu? Phải chăng hệ thống an ninh đã bị phá vỡ tạo cơ hội cho Việt Cộng xâm nhập phá hoại? Phải chăng bọn đội lốt Tôn giáo đã lợi dụng sự tự do quá trớn để tiếp tục gây xáo trộn?
Thí dụ dưới đây sẽ cho thấy Hiến Pháp VNCH 1967 và TT Nguyễn Văn Thiệu đã thao túng Quốc Hội như thế nào?
Hiến Pháp VNCH 1967 quy định Quốc Hội gồm có hai viện: Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện. Các Dân Biểu trong Quốc Hội Lập Hiến đưọc bầu ngày 11-9-1966 (trong đó có các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn, Phan Quang Đán…) nghĩ rằng Quốc Hội lưỡng viện sẽ dân chủ hơn Quốc Hội Nhất Viện! Nhưng các ông đã tính sai và lầm to nếu biết rằng Hiến Pháp 1967 đã dành cho Hạ Nghị Viện nhiều quyền hơn Thượng Nghị Viện. Hãy coi lại điều 43 khoản 5, 6, và 7  Hiến Pháp 1967 về thủ tục làm luật ở Quốc Hội thì đủ rõ. Hành Pháp chỉ cần nắm được Hạ Viện là có thể chi phối Quốc Hội dể dàng. Thực tế, TT. Nguyễn Văn Thiệu qua Phụ Tá Nguyễn Cao Thăng đã “nắm” được Hạ Nghị Viện. Sau đó, khi ông Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử Tổng Thống nhiệm kỳ 2 (1971-1975), ông đã sai đàn em sửa Nội Quy áp dụng thể thức bầu Liên danh Văn Phòng Quốc Hội (cả Thượng Viện và Hạ Viện) trong chủ trương “lấy thịt đè người” thay vì áp dụng thể thức đơn danh như thời Quốc Hội pháp nhiệm 1 (1967-1971). Chính vì chủ trương độc tài của phe nhóm ông Thiệu mà Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền đã từ chức để phản đối và ra khỏi Quốc Hội.
Chế độ Cộng sản là nguyên nhân của đói nghèo, lạc hậu và bán nước
Sau khi tấn chiếm miền Nam, ngụy quyền CS Hà Nội đã biến Việt Nam thành một trong những nước đói nghèo và lạc hậu nhất thế giới. Nhân quyền bị tước bỏ, tài sản nhân dân bị cướp đoạt, Tôn giáo bị đàn áp. Hơn nửa triệu quân, cán, chính VNCH bị sung vào các trại học tập cải tạo. Nói tóm lại, cả nước là một nhà tù vĩ đại. Cho nên hàng triệu người đã bỏ nước ra đi tìm tự do bất kể những hiểm nguy đến tính mạng, trong đó nửa triệu người đã biến thành mồi cho tôm cá ở dưới lòng biển. Tệ hơn nữa, tập đoàn CS Hà Nội còn dâng đất, dâng biển cho Trung Cộng nhằm trả món nợ xâm lăng VNCH. Trong tài liệu Chính Đề Việt Nam, ông Cố vấn Ngô Đình Nhu từng viết:
“Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Sở dĩ ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các  nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thị họ vẫn còn chịu sư chi phối của chính sách xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô.
Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa.” (CĐVN tr. 302)
Lời tiên đoán của ông Ngô Đình Nhu từ nửa thế kỷ trước, nay đã ứng nghiệm. Đất nước hiện đang rơi vao vòng nô lệ ngoại bang và tập đoàn CSVN khó lòng thoát khỏi bàn tay không chế và tham vọng bá quyền của Bắc Kinh. Chính Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN là thủ phạm đã rước chủ nghĩa Mác Lê đầy ác ôn đó vào để con cháu chúng ta ngày nay đang phải lãnh nhận một hậu quả vô cùng khốc hại. Bởi tập đoàn Cộng Sản ác ôn đã không còn nhân tính nên dân chúng khắp hai miền cũng không còn được sống trong bầu khí tự do với phẩm giá của một kiếp người. Đảng Cộng sản tự hào là đấy tớ phục vụ nhân dân đã biến thành ông chủ với quyền năng vô hạn. Nhân dân bị chúng lừa bịp xưng tụng là ông chủ đã bị biến thành những tên đầy tớ phục vụ cho các ông chủ tư bản Đỏ! Thật đúng như Engels và Lênin đã khẳng định: “Nhà nước là công cụ của giai cấp này để đàn áp giai cấp khác. Nhà nước được lập nên không phải vì tự do. Nói cách khác, có nhà nước thì không có tự do. Mà có tự do thì không có nhà nước.” Cứ xem từ Đông Âu, Liên Sô, qua Cuba đến Việt Nam, dưới chế độ Cộng sản, có nơi nào dân chúng được tự do? Có nơi nào dân chúng được làm chủ? Bởi vì nơi nào Cộng sản ngự trị thì cuộc sống con người sẽ không còn là người đích thực nữa. Từ thế kỷ thứ 19, dưới chế độ phong kiến và thực dân, Tú Xương đã chứng kiến được xã hội loài người không còn được sống như con người, nên đã thốt lên lời thơ thật vô cùng thấm thía:
Bắt chước như ai, chúc mấy lời.
Chúc cho khắp hết cả tên đời:
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Nhưng Văn hóa miền Nam vẫn sống mạnh
Sau ngày 30-04-1975, Miền Nam đã bị nhuộm đỏ. Chế độ Cộng Hòa trên thực tế không còn nữa và Việt Nam hoàn toàn đặt dưới sự thống trị của Cộng sản. Nhưng cũng trên thực tế, tuy thắng trên mặt trận quân sự và chính trị nhưng CSBV đã thua trên mặt trận Văn Hóa. Cái gọi là văn hóa đồi trụy của Miền Nam mà Cộng sản Bắc Việt rêu rao đòi tiêu diệt tận gốc rễ lại là vũ khí sắc bén gậm nhấm và âm thầm đồng hóa cái văn hóa xã hội chủ nghĩa phi nhân của Miền Bắc. Nếp sống văn hóa Miền Nam tràn ra Miền Bắc cũng như văn hóa nông nghiệp đồng hóa văn hóa du mục. Bao công trình văn hóa giáo dục của Miền Nam chẳng những không bị tiêu diệt mà còn sống mạnh. Sài Gòn vẫn hơn Hà Nội và Hà Nội mong bắt chước để đuổi kịp Sài Gòn. Giới thanh niên nam nữ và cả những ông bà đại cán của Hà Nội cũng mong bắt kịp lối sống văn hóa văn minh của Miền Nam. Sách báo Hà Nội xưa dùng những ngôn từ ăn nói du côn mất dạy đã phải tự thay đổi để theo nếp sống văn hóa đạo đức có lễ giáo của Miền Nam. Chỉ lấy một thí dụ đơn sơ là mẫu áo dài bà Ngô Đình Như thì đủ rõ. Trước đây, đã bao người chửi rủa bà Ngô Đình Nhu thế nọ thế kia, nhưng cái áo dài bà Ngô Đình Nhu lại là kiểu mẫu áo đẹp, cấp tiến, rất được trân trọng. Phải nói khắp nơi, phụ nữ hai miền Nam Bắc và cả ở hải ngoại đều ưa thích mẫu áo dài đó. Quả đúng về phương diện mỹ thuật, chiếc áo dài bà Ngô Đình Nhu là thời trang đẹp và hấp dẫn, không ai có thể phủ nhận. Đã vậy, nhờ nó mà các nhà vẽ kiểu thời trang đã cải tiến thêm giúp cho phụ nữ Việt Nam đẹp thêm khi bận chiếc áo dài này. Rồi đến nhạc vàng của Miền Nam bỗng dưng sống lại và được dân chúng khắp hai miền đua nhau hát thay cho thứ nhạc sản xuất khô khan của Miền Bắc!
Câu hỏi được đặt ra là cái gì đã làm cho Văn hóa Miền Nam (VNCH) sống mạnh và lướt thắng văn hóa xã hội chủ nghĩa miền Bắc? Thưa chính là những công trình văn hóa, giáo dục, xã hội ở miền Nam được xây dựng trên tình người, trên nền tảng tự do, dân chủ và nhân quyền đáp ứng được lòng dân mà biểu tượng bằng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ. Tất cả những yếu tố đó đều nằm sẵn trong hai chữ Nhân Bản, Nhân Vị mà ra. Người ta không cần phải nói ra nhưng những công trình xây dựng và sinh hoạt đã thấm nhiễm vào đời sống người dân Miền Nam. Dân chủ ở Miền Nam đã di trước Miền Bắc ít nhất hai thập niên. Cho nên sau ngày 30-04-1975 mà nhất là sau năm 1991, khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ ở Đông Âu và Liên Số thì người ta không lạ gì sức đồng hóa cùa Văn hóa Miền Nam còn gia tăng gấp bội. Dân chủ, nhân quyền, và quyền tự do của con người đã được người dân công khai bảy tỏ trên báo chí và các diễn đàn Internet khiến Cộng Sản Hà Nội chóng mặt, phải dùng bạo lực để đàn áp. Rõ ràng chủ trương Tự do, Dân chủ và Nhân quyền luôn đáp ứng yêu cầu của thời đại, là xu thế của thời đại không có gì cưỡng lại được, không phải chỉ ở Âu châu hay Mỹ Châu mà khắp cả thế giới. Chính vì thế mà sau 70 năm trời bị đặt dưới sự thống trị của chế độ Cộng sản phi nhân, người dân từ Ba Lan, Đông Đức qua đến Liên Sô đã đồng loạt đứng lên đánh đổ chế độ độc tài ác ôn nhằm xây dựng chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng quyền tự do và phẩm giá của con người. Chủ nghĩa Cộng sản là thứ chủ nghĩa phi nhân độc hại, phải bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người. Còn bị nó thống trị thì xã hội loài người còn đói khổ, chết chóc. Còn bị nó thống trị thì người dân còn là nô lệ, bị bóc lột. Xin hãy coi lại những lời nhận định chân thành của các nhân vật đầy uy tín trên thề giới:
  1. TT Nga Dmitry Medvedev tuyên bố tại Washington: Stalin was a killer (Stalin là tên sát nhân, ngày 15.04.2010).
  2. Russia President Vladimir Putin, TT Nga: “He who believes the communists has no brain. He who follows the communists has no heart”. Ai tin cộng sản là không có cái dầu. Ai theo lời của Cộng sản là không có trái tim.
  3. Russia President Boris Yeltsin (Tổng Thống Nga): You can build a throne with bayonets, but you can’t sit on it for long. Communists are incurable, they must be eradicated. Anh có thể xây ngaì vaàg bằng lưỡi lê, nhưng anh không thể ngồi lâu trên đó. Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải chúng nó đi.
  4. Soviet Secretary Mikhail Gorbachev (Tổng Bí Thư Sô Viết): I have devoted half of my life foe communism. Today, I am sad to say that The Communist Party only spread propaganda and deceives. Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng sản. Hôm nay, tôi đau buồn mà thú nhận rằng: Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.
  5. German Chancellor Angela Merkel (Thủ Tướng CHLB Đức/gốc Đông Đức): “The Communists make the people deceitful. Cộng sản dã làm cho người dân trở thành gian dối.
  6. Secretary General Milovan Djilas (Tổng Bí Thư Đảng CS Nam Tư): “At 20, if you are not a communist, you are heartless. At 40, if you don’t abandon communism, you are brainless. 20 tuổi không theo cộng sản là không có trái tim. 40 tuổi mà không bỏ cộng sản là không có cái đầu.
  7. Russian writer Alexandre Soljenitsyn (Nhà văn Nga): “When a communist lies to you, stand up and tell him that he is lying. If you don’t  dare to say that he lies, walk away. If you don’t dare walk away, do not recite the lie that you heard to anybody. Khi thằng cộng sản nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu không can đảm nói nó nói láo, ta phải bỏ đi. Nếu không can đảm bỏ đi, ta sẽ không nói lại những lời nó nói láo với người khác.
  8. 8.      Dalai Lama: “The communists are wild weeds that sprawl on devastation of war. The communists are venomous insects that breed on the garbage. Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh. Cộng sản là loài trùng độc, sinh sôi, nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời.
  9. 9.      USA President Abraham Lincoln (Tổng Thống Mỹ). You can fool some of the people all the time, and and all of people some of the time, but you cannot fool all of the people all the time. Anh có thể lừa dối một số người trong mọi lúc, và lừa dối mọi người mọi người trong vài lúc, nhưng anh không thể mãi mãi lừa dối tất cả mọi người.
  10. 10.   USA General Sheridan (Tướng Mỹ): “The only good communist is a dead communist”. Thằng cộng sản tuyệt với nhất là thằng cộng sản chết.
  11. USA President Ronald Reagan (Tổng Thống Mỹ): “How do you tell a communist? – Well, it’s someone who reads Marx and Lenin. Anh how do you tell an anti-Communist? – It’s someone who understands Marx and Lenin. Làm sao biết ai là Cộng sản?  Đó là người đọc về Marx và Lenin. Làm sao biết ai chống Cộng? Đó là ngươì hiểu về Marx và Lenin.Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về sau.”
  12. 12.  TT Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói. Hãy nhì kỹ những gì Cộng sản làm.” Don’t listen to the communist, but take a good look at what they have done.
  13. 13.  Nhà văn Nguyễn Tuân, nổi tiếng cao ngạo trong văn đàn miền Bắc. Sau mấy chục năm nín thở qua sông, vào đến miền Nam, gặp lại bạn bè, đã phát ra một câu để đời “Tao còn sống đến ngày nay, là nhờ biết sợ.” Nhà văn Vũ Thư Hiên cũng đã thuật lại câu nói của Nguyễn Tuân: “Muốn yên thân thì phải biết chia động từ sợ. Tôi sợ, anh sợ, chúng ta sợ...”
  14. 14.  Tướng độc nhãn Moshe Dayan, Do Thái: “Cộng sản là con ký sinh trùng, đem ra ánh sáng mặt trời sẽ chết.”
  15. 15.  Tác giả Hoa Địa Ngục: “Nếu nhân loại mọi người đều biết: Cộng sản là gì tự nó sẽ tan đi.”
Cho nên, có ý kiến trên Diễn Đàn Internet nói rằng: “Muốn thoát chế độ cộng sản thì đừng sợ những gì Cộng sản làm, mà hãy làm những gì Cộng sản sợ.”
Về các Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm
Tháng 4/1975, Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Các đoàn thể quốc gia lớp chạy ra hải ngoại cùng với đồng bạo tị nạn Cộng sản, lớp còn lại ở trong nước bị bắt đi tù đày, lớp “nằm im” chờ thời cơ. Những hậu thân của Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng cùng chung số phận. Những Đảng viên Cần Lao Nhân Vị chạy thoát ra được hải ngoại bỗng nhớ lại những gì mà ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã nói trước kia đồng thởi nhờ biết thêm những tin tức liên quan đến tình hình VN, nhất là sau khi nhiều tài liệu đã được giải mật nên họ muốn làm một cái gì đó cho quê hương. Các Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm được hình thành là như thế. Nhưng trước khi viết về các Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm, người viết xin lược thuật lại tình hình đó như sau:
Biến cố 30 tháng 04 năm 1975 xẩy ra trước sự ngỡ ngàng của Dân Tộc Việt Nam cũng như của nhiều nước trên thế giới: Việt Nam đã bị đặt hoàn toàn dưới ách thống trị của Cộng Sản. Có thể nói đó là cao điểm của phong trào Cộng sản trên thế giới, nhưng cũng là khởi điểm sự  thoái trào của chủ nghĩa Mác Lê. Trước 30-04-1975, người ta luôn đinh ninh rằng trên mặt trận chống Cộng, Hoa Kỳ sẽ không bao giờ có thể bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng Hòa bởi vì ai cũng cho rằng Việt Nam là tiền đồn chống Cộng của Thế Giới Tự Do do Hoa Kỳ lãnh đạo. Người ta đã luôn luôn đưa ra lập luận rằng nếu để mất Miền Nam thì Cộng sản sẽ tràn xuống khắp vùng Đông Nam Á.  Quả thật lúc ấy, phe Cộng sản chiến thắng đã huênh hoang tuyên bố rằng chúng sẽ “giải phóng” Thái Lan và tương lai sẽ “giải phóng” luôn cả Đế Quốc Mỹ sau khi đã chiếm trọn Đông Dương. Cộng Sản Hà Nội còn vênh vang tự đắc lên mặt đòi Mỹ phải bồi thường chiến tranh theo Hiệp Định Paris 1973 nếu muốn lập quan hệ ngoại giao với chúng. Lúc ấy Mỹ trả lời rằng Việt Cộng xâm lăng Miền Nam là đã vi phạm Hiệp Định Paris và số vũ khí chiếm được của Miền Nam cũng tới 5 tỹ Mỹ kim rồi đó.
Thật ra thì bàn cờ quốc tế đã thay đổi từ thời Tổng Thống Richard Nixon (1968 - 1974) khi Cố vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger bí mật thăm Bắc Kinh qua ngả Pakistan năm 1971 để rồi năm sau Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon chính thức thăm Hoa Lục, gặp gỡ Mao Trạch Đông và công bố Thông Cáo Chung tại Thượng Hải 1972. Từ biến cố đó và sau này qua diễn biến của tình hình và các tài liệu được giải mật, người ta mới thấy Nixon đã chơi đòn chính trị rất độc là chặt đôi Khối Cộng Sản ra làm hai mảnh mà biểu tượng là Nga Sô và Trung Cộng. Trung Cộng được Mỹ chấp thuận cho vô Liên Hiệp Quốc thay thế vai trò Trung Hoa Quốc Gia của TT Tưởng Giới Thạch. Trung Cộng được gia nhập Liên Hiệp Quốc đồng thời là thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An, đứng ngang hàng với Mỹ và Nga Sô. Trước đó, khi chưa được Mỹ chấp thuận thì Trung Cộng luôn phải đóng vai trò đàn em Nga Sô trong khối Xã Hội Chũ Nghĩa, một sự kiện mà Trung Cộng luôn cảm thấy khó chịu. Sự thật thì chuyện xích mích giữa Nga Sô và Trung Cộng đã ngấm ngầm từ lâu nhưng Trung Cộng vẫn bị lép vế vì ở vai trò đàn em. Nay nhờ Mỹ được đứng ngang hàng với cả Nga và Mỹ tất nhiên Trung Cộng rất hãnh diện. Điều đó dễ hiểu vì dù dưới danh nghĩa nào, dù tự do hay Cộng sản thì hầu như chủ nghĩa Dân Tộc đã luôn luôn là chủ đạo của bất cứ quốc gia nào. Trung Cộng bề mặt theo Mác Lê, nhưng thực chất chủ nghĩa Dân Tộc Đại Hán và Bá Quyền vẫn tồn tại chỉ chờ cơ là vùng dậy. Cộng Sản hay Phong Trào Giải Phóng chỉ là chiêu bài nhằm ru ngủ các dân tộc chậm tiến của cả hai Đế Quốc Đỏ Tầu Nga nhằm thống trị thế giới. Đúng là một thứ bánh vẽ của bọn Đế quốc Thực Dân mới mà biểu tượng là Nga Sô và Trung Cộng.
Từ bước đầu này, Mỹ đã khởi sự lập quan hệ ngoại giao với Trung Cộng bằng việc nói chuyện công khai, đặt Đại diện thường trực, dần  dần mở cửa cho Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc. Song song những hành động như thế, Mỹ chấp thuận cho Trung Cộng ngang nhiên chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH vào tháng 01 năm 1974 bất kể lời kêu cứu của VNCH. Mục đích lâu dài của Mỹ là dùng Trung Cộng ngăn chặn Liên Sô tràn vào Vùng Đông Nam Á sau khi Mỹ rút khỏi Miền Nam. Việc Mỹ đi đêm với Trung Cộng không phải là mới bắt đầu từ năm 1971, nhưng đã có ngay từ năm 1949 khi Mao Trạch Đông đánh đuổi phe Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đi Loan. Từ lúc đó, dù vẫn công nhận Trung Hoa Quốc Gia trên cương vị là thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, nhưng Mỹ vẫn có những cuộc tiếp xúc mật hằng năm với Trung Cộng tại thủ đô Varsovie của Ba Lan (Đông Âu). Nay thì sự thể đã rõ: Mỹ đã làm một ván bài mới và tình hình Đông Nam Á bắt đầu thay đổi. Số phận Việt Nam Cộng Hòa coi như đã được quyết định và chỉ chờ thời gian đến 1975 là hoàn tất. 
Sau khi Mỹ để Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản rồi thì Liên Minh Phòng Thủ Đông Nam Á tức SEATO không cần thiết nữa, liền bị giải tán vào năm 1977 và sau đó là Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á hình thành gọi tắt là ASEAN. Thật ra Hiệp Hội AEAN này đã được manh nha từ năm 1967, nhưng kể từ 1977 thì Hiệp Hội ASEAN đã đóng vai trò quan trọng hầu như thay hẳn Liên minh SEATO. Như vậy, rõ ràng là thuyết Domino với chủ trương bao vây (Domino: bao vây, cô lập và tấn công tiêu diệt) của Mỹ đã được thay thế bằng chủ trương hòa hoãn (Détente: hòa hoãn, hợp tác và phát triển). Trong khi các nước khác hiểu ván bài chính trị của Mỹ và bàn cơ thế giới sẽ thay đổi thì hai phe ở Việt Nam vẫn ngủ mê. Thật vậy, sau khi chiếm được miền Nam như một món quà từ trời rớt xuống, tập đoàn Cộng Sản Hà Nội đã say men chiến thắng với thái độ vênh vang tự đắc hồ hởi tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội, biến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khiến cả nước lâm cơn đói rã họng phải lạy Mỹ cứu Đảng. Còn Việt Nam Cộng Hoà với TT Nguyễn Văn Thiệu vẫn một mực tin tưởng Mỹ sẽ không bao giờ bỏ rơi Miền Nam là tiền đồn chống Cộng của Thế Giới Tự Do trong khi Mỹ đi đêm với Trung Cộng nhằm thực hiện ván bài mới, sẵn sàng nhường Miền Nam cho Cộng sản. Thế nên nhìn lại tình hình VN, người ta có thể nói một câu mà không sợ lầm rằng “Kẻ thắng người thua đều thất bại!”  
Người viết dài dòng nhăc lại một số sự kiện nêu trên để thấy rằng thân phận của các nước nhược tiểu như VN thật là bi đát. Những nước chậm tiến này (trong đó điển hình là Việt Nam) chỉ là quân cờ cho các siêu cường (Super Powers) chơi, điều khiển, chỉ huy. Khi cần thì họ dùng. Khi không cần thi họ bỏ không một chút thương tiếc. Nói như thế nghe thê thảm quá, nhưng đó là sự thật mà những người làm chính trị hay lãnh đạo quốc gia phải biết. Vì trong chính trị, chẳng có gì là nhân nghĩa, tín trung, liêm sỉ mà chỉ có quyền lợi quốc gia dân tộc. Hày nghe Lord Palmerstom, the stateman who proclaimed of Britain in the 19th century, “We have no eternal allies, and we have no perpetual ennemies. Our interests are eternal and perpetual”. (Chúng tôi không có đồng minh vĩnh viễn. Chúng tôi cũng không có kẻ thủ vĩnh viễn. Chỉ có quyền lợi của chúng tôi là vĩnh viễn.” Câu nói của Lord Palmerston đã là khuôn vàng thưóc ngọc cho các chính trị gia và các nước nhất là những siêu cường ở phương Tây. Chỉ tội cho các nước chậm tiến, các lãnh tụ vì quá thiển cận, không nhìn xa trông rộng nên đã trở thành quân cờ thí cho Đế quốc. Ở VN chỉ có một Ngô Đình Nhu của Đệ Nhất Cộng Hòa nhìn ra vấn đề thì lại bị giết hại. Còn tập đoàn Hồ Chí Minh ở Miền Bắc và những chính phủ sau 1-11-1963 ở Miền Nam cứ nhắm mắt tin tưởng vào đàn anh Nga, Tàu, Mỹ nên khi mở mắt ra thì đất nước đói nghèo lạc hậu và đang là miếng mồi ngon cho chủ nghĩa Bá quyền Dân tộc Đại Hán. Nhưng dù thế nào thì người Việt nhất định không thể buông xuôi cho số phận quyết định mà phải đấu tranh. Đó là lý do mà các đoàn thể chính trị bắt đầu hình thành, trong đó có Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm.
Các nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm không phải là hậu thân của Đảng Cần Lao, dù trong đó có nhiều người từng là Đảng viên Cần lao. Trước biến chuyển của tình hình Việt Nam và thế giới, người Việt hải ngoại ý thức rằng, ở xứ tự do, có thể và phải làm những gì mà người dân trong nước không thể làm được. Đó là tiếp tục đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Các Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm tất nhiên cũng nhắm những mục tiêu ấy, nhưng dựa trên tinh thần đấu tranh mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm là tiêu biểu. Vì chính nhờ tinh thần ấy mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đem lại cho Miền Nam một bộ mặt mới, dân chúng được sống trong thanh bình hạnh phúc, khác hẳn không khí tù đày ở Miền Bắc với tập đoàn Cộng sản Hồ Chí Minh.
Có nhiều nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm ở hải ngoại từ Hoa Kỳ, Canada, qua Âu Châu đến Úc Châu. Tại mổi Châu, trong đó có nhiều nước, nhiều thành phố, dân chúng đã tự động ngồi lại với nhau thành lập Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm với mục đích tiên khởi là tỏ lòng biết ơn với vị lãnh tụ sáng lập nền Cộng Hóa Việt Nam bằng việc tổ chức Nghi Lễ Tưởng Niệm trong ngày Giỗ và cầu nguyện cho người cùng các chiến sĩ. Ngoài ra, Nhóm còn phổ biến các tin tức và các tài liệu liên quan đến tình hình Việt Nam đồng thời kêu gọi và khuyến khích giời trẻ dấn thân. Thường các nhóm ngồi lại với nhau trong tình thân hữu và bình đẳng, không ai là lãnh tụ của ai. Có lẽ nổi bật nhất là Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm ở New Orleans do ông Đỗ La Lam khởi xướng. Ông Đỗ La Lam là đảng viên Cần Lao kỳ cựu nhất, từng dự khóa Huấn Luyện đầu tiên của Đảng do ông Ngô Đình Nhu tổ chức tại Đà Lạt năm 1951. Sau khi TT Ngô Đình Diệm về chấp chính 7-7-1954, ông Đỗ La Lam được ông Ngô Đình Nhu chỉ định làm Chủ Nhiệm Nhật báo Cách Mạng Quốc Gia, là cơ quan ngôn luận của Phong Trào Các Mạng Quốc Gia và Đảng Cần Lao. Sau cuộc đảo cháng 1-11-1963, ông bị chính quyền quân nhân bắt giam một thời gian. Sau khi được thả ra, ông làm việc cho Viện Dại Học Minh Đức ở Sài Gòn.  May mắn chạy thoát qua Hoa Kỳ tháng 4/1975 có mang theo được một số tại liệu quý giá của Đệ Nhất Cộng Hòa, ông làm Tổng Thư Ký Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu ở New Orleans, Louisiana và nhờ cơ hội thuận tiện, ông đã cho phát hành Tập San Chính Nghĩa được ba số, ghi lại một số văn kiện quan trọng của nền Đệ Nhất Cộng Hòa và Đảng Cần Lao. Tiếc rằng tuổi gia sức yếu, ông không làm được gì hơn ngoại việc phổ biến tin tức tài liệu và khuyến khích giới trẻ dấn thân. Ông qua đời tại New Orleans, Tiểu Bang Louisiana năm 2010. Tài liệu quan trọng mà người viết đã suy diễn và trình bày chính là Lời Trối Trăng của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu được in trong Tập san Chính Nghĩa số 1 năm 1983. Khi còn ở Louisiana, người viết cũng đã có dịp gặp gỡ ông Đỗ La Lam và trao đổi với ông về một số vấn đề của Đệ Nhất Cộng Hòa và Đảng Cần Lao.
Nhóm thứ hai cũng nổi bật do các ông Cao Xuân Vỹ, nguyễn Tổng Giàm Đốc Thanh Niên, GS Lê Tinh Thông, Cựu Nghị Sĩ Lê Châu Lộc, nguyên Sĩ Quan Tùy Viên của TT Ngô Đình Diệm và Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh, nguyên Chánh Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung Ngô Đình Cẩn. Nhóm đã có công vận động các Hội Đoàn hằng năm tổ chức Lễ Tưởng Niệm TT Ngô Đình Diệm tại tượng đài Việt - Mỹ ở Quận Cam (Orange County) với sự tham dự đông đảo của các Hội đoàn Quân, Dân, Cán, Chính và đồng bào. Ngoài ra tại nhiều Nhà Thờ và Nhà Chùa cũng tổ chức Lễ Gìỗ cầu nguyện cho Linh hồn TT Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu cùng các chiến hữu đã hy sinh mạng sống vì Tổ Quốc.
Việc làm của Các Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm, đặc biệt là 3 số Tập San Chính Nghĩa do ông Đỗ La Lam soạn thảo và ấn hành đã gây được tiếng vang lớn tại Hải Ngoại. Từ đó, nhiều nơi, những người hiểu biết về Nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã tự động đứng lên lập Nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm để sinh hoạt. Đặc biệt, hằng năm, hầu như các nơi trên thế giới có Cộng Đồng người Việt, người ta cũng tự động đứng ra thành lập Ban Tổ Chức Lễ Giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng các Chiến hữu đã hy sinh vì Tổ Quốc đã trở thành một thông lệ và được dư luận tán thưởng nhiệt liệt. Nhờ những sinh hoạt trang trọng và ý nghĩa như vậy mà người ta càng hiểu sâu sắc thêm về hoàn cảnh đau thương của Dân tiộc Việt Nam cùng những công trình mà TT Ngô Đình Diệm và nền Đệ hất Cộng Hòa đã đem lại cho Dân Tộc suốt 9 năm cầm quyền. Thật vậy, sau ngày Miền Nam rơi vào tay Cộng sản cũng như trước đó, ngay sau khi TT Ngô Đình Diệm bị sát hại, người ta đã nhận ra rằng hành động của Mỹ và bọn tướng lãnh tay sai là một sai lầm vô cùng tệ hại. Cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 do Mỹ chủ trương chẳng có gì là cách mạng mà đó chỉ là cuộc đảo chánh vụng về và thô bạo làm mất uy tín của Mỹ, một siêu cường quốc lãnh đạo Thế giới Tự do, nhưng đã hành xử như một thứ Đế Quốc Thực Dân. Và đó cũng là khởi điểm cho những sai lầm và thất bại không sao tránh khỏi và sửa chữa được dẫn đến cảnh sụp đổ của Miền Nam vào tay Cộng Sản ngày 30-04-1975!  
Cần Lao Nhân Vị còn thích hợp hay không?
Đất nước và Dân tộc bị đặt dưới chế độ độc tàì đảng trị gần bốn chục năm và đang phải đối diện với họa xâm lăng và diệt chủng vì âm mưu bành trướng của chủ nghĩa bá quyền. Thật ra thì từ ngàn xưa, nhân dân đã luôn luôn phải đương đầu họa xâm lược của giặc phương Bắc. Nhưng nhờ tinh thần kiên cường và khôn ngoan của tổ tiên, nên bao lần bị độ hộ, nhân dân ta vẫn có thể vùng lên đánh đuổi kẻ thù để giành lại độc lập. Thời đó là thời của phong kiến, đế quốc thực dân, âm mưu xâm lược chỉ đơn độc từ bên ngoài, việc đánh đuổi chúng đã là vô cùng khó khăn. Nay thì sự thể có khác và nguy hiểm hơn bởi chính chủ thuyết và Đảng Cộng Sản VN đã là thứ giặc ngoại xâm trá hình biến đất nước thành chư hầu cho Đế Quốc Đỏ!  Cho nên việc đối phó thật vô cùng cam go nếu như không vận dụng được sức mạnh vô địch của toàn dân.
Từ thế kỷ trước, Cụ Phan Bội Châu từng cảnh giác đồng bào về ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, và giặc ngoại xâm. Ba thứ giặc đó có liên hệ mất thiết với nhau. Vì ngu dốt không biết làm ăn nên sinh ra đói nghèo lạc hậu. Đói nghèo lạc hậu thì yếu đuối, không đủ sức chống cự nên biến thành miếng mồi ngon cho giặc ngoại xâm thống trị, bóc lột. Thực dân xâm lược bóc lột nên ta lại sinh ra đói nghèo lạc hậu. Đói nghèo lạc hậu và không được mở mang phát triển nên lại yếu đuối không đú sức vùng dậy đánh đuổi ngoại xâm. Cái vòng luẩn quân đó cứ liên tục quay làm cho nước mình chậm tiến. Nếu như không có thế chiến thừ hai xẩy ra thì liệu các nước chậm tiến có sớm thoát khỏi ách nô lệ của thực dân đế quốc không? Rất là khó. Bởi ngay khi thế chiến thứ hai kết thúc, Thực dân Pháp vẫn muốn trở lại thống trị Đông Dương và đất nước ta, không chịu trao trả độc lập sớm nên Việt Nam đã trở thành miếng mồi ngon cho Đế quốc Cộng sản.
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chính phủ Ngô Đình Diệm ngay khi chấp chánh đã cảnh giác dân chúng về ba thứ giặc: Thực dân, Phong kiến và Cộng sản với khẩu hiệu “Bài Phong, Đả Thực, Diệt Cộng”. Ba thức giặc bày cũng liên hệ mật thiết với nhau. Phong kiến muốn nhờ Thực dân cứu nguy để quay trở lại. Thực dân sẽ lợi dụng cơ hội trở lại để tiếp tục khai thác bóc lột. Cứ thế, Thực dân và Phong kiến trở thành đối tượng cho giặc Cộng tuyên truyền đánh đuổi để nắm chính quyền. Thực tế là hoạt động của Cộng sản nằm vùng với sư tiếp tay hỗ trợ tử Đế Quốc Đỏ đã gia tăng, cho nên qua Quốc sách Ấp Chiến Lược, chính phủ VNCH lại phải cảnh giác về ba thức giặc mới:  Giặc chia rẽ, Giặc chậm tiến và Giặc Cộng sản. Ba thứ giặc này cũng liên hệ chặt chẽ với nhau như những mắt xích, cái nọ là nguyên nhân phát sinh ra cái kia, cứ thế liên tục, đưa dân tộc vào vực thẳm nô lệ!
Cộng sản luôn hô hào giải phóng người lao động (giải phóng công nông) với khẩu hiệu “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân Dân làm chủ”. Thực tế, khi Cộng sản nắm chính quyền thì quyền làm chủ của nhân dân đã bị dồn vào bàn tay sắt của Đảng. Nhà nước chỉ là công cụ đàn áp bóc lột và Nhân dân trở thành đầy tớ, nô lệ. Bởi đó, chủ thuyết Cần Lao Nhân Vị là chủ thuyết đấu tranh giành lại quyền làm chủ cho người dân tức là Tự do, Dân chủ và Nhân quyền. Cần Lao Nhân Vị là đem sức lao động làm việc cần mẫn để phục vụ con người. Nói như thế có nghĩa là bất cứ ai đem sức lao động ra để làm việc phục vụ con người với sự chăm chỉ cần mẫn là Cần Lao Nhân Vị đấy. Tuy dù cho họ chưa hiểu hay không hiểu rõ tường tận cụm từ “Cần Lao Nhân Vị” nhưng nếu lòng họ nghĩ và muốn dùng sức lao động đẻ làm việc hầu thăng tiến đời sống con người và chính họ thì cũng là mang trong mình tinh thần Cần Lao Nhân Vị rồi đó. Từ ngữ này đã được cụ Phan Bội Châu xử dụng chớ không phải mới mẻ gì. Vậy thì khi tinh thần Cần Lao Nhân Vị còn đáp ứng nhu cầu đấu tranh của con người thì chúng ta nên hành động theo tinh thần ấy.
Trong lời trối trăng, ông Cố vấn Ngô Đình Nhu không nói đến Đảng Cần Lao mà chỉ nói đến Lý Thuyết Nhân Vị và đưa lý thuyết Nhân Vị vào Hiến Pháp. Nhưng Việt Nam Cộng Hòa không còn, Hiến Pháp VNCH cũng bị ngưng thi hành thì công cuộc đấu tranh giành lại chính quyền đề đưa Lý Thuyết Nhân Vị vào Hiến Pháp thay thế chủ thuyết Cộng sản lỗi thời là điều khẩn thiết phải làm. Muốn được như thế thì Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng phải tái tục hoạt động, cần phải được phục hoạt dưới một hình thức nào đó đáp ứng được nhu cầu của tình hình để giải thể chế độ Cộng sản và thực hiện cuộc Cách Mạng Nhân Vị lần thứ hai cho cả nước Việt Nam. Một nhân vật lãnh đạo từng nói: “Thời đại mới, nhu cầu mơí, phương pháp mới”. Tất nhiên phải có nhân sự mới. Cho nên các chiến sĩ Cần Lao Nhân Vị ở trong nước cũng như ở hải ngoại, các nhóm Tinh Thần Ngô Đình Diệm ở khắp nơi trên thế giới cùng với các tổ chức chính trị đứng đắn của Khối Người Việt Quốc Gia hãy vững tâm bắt tay mà mạnh dạn đứng lên.
Nhờ tinh thần Nhân Vị, miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa đã thực sự đem lại hạnh phúc tự do cho nhân dân. Cuộc sống của dân chúng Miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa hơn hẳn cuộc sống của dân chúng Miền Bắc. Phong trào dân chủ ở Miền Nam đi trước Miền Bắc cả một thế hệ. Miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa cũng không để mất một tấc đất cho ngoại bang xâm lược cho đến khi bị đồng minh phản bội. Dưới chế độ Cộng Hòa Nhân Vị, nhân dân ấm no, thù sợ bạn nể. Không phải như hôm nay, một Việt Nam thống nhất nhưng đã trờ thành tôi đòi, nô lệ cho ngoại bang. Cả một tập đoàn cung cúc lệ thuộc vào đàn anh Trung Cộng đầy tham vọng và hiểm độc, luôn tìm cách kiềm chế, thôn tính để nuốt trọn quê hương thân yêu cùng Biển Đông, gây xáo trộn cho cả vùng Đông Nam Á. Cho nên muốn thoát ra khỏi nguy cơ này thì phải dẹp chế độ Việt gian Cộng sản. Mà muốn dẹp chế độ Việt gian Cộng Sản phải làm Cách Mạng. Muốn làm Cách Mạng phải có tổ chức Cách Mạng. Nhưng làm thế nào để có tổ chức cách mạng? Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu chỉ cho một phương thức: “Không dám nói là anh hùng tạo thời thế. Nhưng những việc làm hữu cơ và quyết tâm đều có thể tạo nên cơ quan.”
Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi chuẩn bị về chấp chánh, từ Paris ngày 5-6-1954, đã gửi điện văn về Việt Nam cho các chiến hữu với lời nhăn nhủ “Hãy dũng cảm và quyết tâm”.
Trước khi cuộc đảo chánh 1-11-1963 xẩy ra, trong một buỗi gặp gỡ với các nhân vật tại Dinh Gia Long, như linh cảm thấy số phận cá nhân mình sẽ như thế nào đó trong tương lai rất gần, TT Ngô Đình Diệm đã nói trong lúc đầy súc cảm: "Tôi tiến, tiến theo tôi; Tôi lùi hãy giết tôi; Tôi chết hãy nối chí tôi". Nay thì TT Ngô Đình Diệm đã bị bọn tay sai CIA sát hại khiến đất nước lâm vào cơn nguy biến tệ hại hơn 50 năm trước. Trong thì dân chúng bị bọn Việt gian Công sản đàn áp bóc lột; ngoài thì bị Bá quyền Trung Cộng lấn dần. Cái chết của TT Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa càng nói lên Con Đường Chính Nghĩa mà nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam đem lại là chính đáng, nó cần phải được phục hoạt và phát huy để đem lại Tự do, Dân Chủ và Nhân quyền cho Việt Nam. Mong rằng các chiên sĩ Cần Lao Nhân Vị và hậu duệ cùng tất cả những ai ôm ấp lý tưởng đấu tranh bảo vệ quyền Tự do và phẩm giá con người sẽ ý thức, ghi nhớ và hành động theo lời trối trăng của ông Cố vấn và lời nhắn nhủ của vị Lãnh tụ anh minh. Đó là cách biểu lộ lòng thương mến và biết ơn tích cực nhất đối với người đã hy sinh mạng sống để bảo tồn nền độc lập và tự chủ của Nhân Dân Việt Nam
Nhân giỗ lần thứ 50 Tổng Thống Ngô Đình Diệm
tưởng niệm 50 Đệ Nhất Cộng Hòa bị lật đổ.
                  (02/11/1963 – 02/11/2013)
Phạm Quang Trình

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website