CHÍNH KHÍ VIỆT

Sunday, August 28, 2022

Việt Thường: SỰ TÍCH: CON YÊU RÂU XANH Ở VIỆT NAM (CHƯƠNG 4, 5.6)

 SỰ TÍCH: CON YÊU RÂU XANH Ở VIỆT NAM 04

Việt Thường
 

Bài 4

Xin nói tiếp về âm mưu trong “cải cách ruộng đất” của họ Hồ.

Giờ ta thử hỏi: Tại sao Hồ không dựa vào “chính quyền” xã và tổ chức “đảng” của Hồ ở xã, mà lại dựa vào cái gọi là “rễ”? Nên nhớ bọn gọi là “rễ” này gần như không tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu có thì cũng chỉ làm những thứ vụn vặt. Bọn chúng đều không có học, có đứa tuổi chỉ độ 15, 16 trở lên, không nghề nghiệp rõ ràng. Hầu như toàn bộ bọn chúng là “lưu manh” ở làng xã. Chúng hoàn toàn bị chi phối bởi cái dạ dày, nghĩa là có ăn thì bảo giết bố mẹ của chúng, chúng cũng làm. Thực ra bọn gọi là “rễ” chính là thành phần “vô sản lưu manh” ở nông thôn Việt Nam. Đối với chúng, cái gọi là đạo đức hay lý tưởng là những món hàng cực kỳ xa xỉ.

Xin trả lời:
1- Hồ không thể dựa vào chính quyền ở xã, vì cái chính quyền ấy là một tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng. Quyền lợi của nhân sự trong cái chính quyền ấy gắn liền với quyền lợi của nhân dân toàn xã. Đấy là động lực khiến họ tham gia có hiệu quả công cuộc kháng chiến chống Pháp. Cái chính quyền ở xã thời đó cũng là tập hợp những cá nhân và đảng phái không cộng sản (như Dân chủ, thậm chí cả VNQDĐ) để thực hiện chủ trương chống Pháp, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp đa đảng do Quốc hội Khóa 1 bầu ra.

Xin lưu ý rằng ngay khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ đã ma giáo cho khai tử Mặt trận Việt Minh và thay thế bằng cái gọi là Mặt trận Liên Việt. Đó là âm mưu của Hồ muốn xóa bỏ công khai sáng tổ chức mặt trận của các cụ Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh v.v… Mặt trận Liên Việt là do Hồ sáng lập, là công cụ quá độ để Hồ tiến tới cái gọi là chuyên chính vô sản – mà nội dung thực sự là thiết lập sự cai trị trọn vẹn của bộ máy cầm quyền thực dân đỏ. Từ Việt Minh tiến tới Liên Việt là bước đầu Hồ khéo léo loại bỏ các đảng VNQDĐ và Việt Cách (của cụ Nguyễn Hải Thần). Đó là hai đối thủ nặng ký nhất mà Hồ ngán, chỉ còn lại hai đảng Dân chủ và Xã hội là hai tổ chức mà Hồ đã cấy được nội gián vào, thí dụ: như Cù huy Cận, Trần đăng Khoa ở đảng Dân chủ; Hoàng minh Giám, Đỗ xuân Sảng ở đảng Xã hội.
Cho nên, nếu dựa vào chính quyền xã thì làm sao Hồ có thể làm sai luật cải cách ruộng đất, biến nó thành biện pháp đảo chính không lộ mặt cái Chính phủ Liên hiệp đa đảng được.

2- Hồ cũng không thể dựa vào tổ chức của cái gọi là “đảng Lao động” (tức cộng sản) được, vì:
a) phần lớn chịu ảnh hưởng của nhóm Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt;
b) nhưng quan trọng nhất là đa số đảng viên thời đó của cái gọi là đảng Lao động, là do bị Hồ lừa bằng cái bánh vẽ: vào tổ chức để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do, hạnh phúc chứ không phải vì chủ nghĩa cộng sản (tức thực dân đỏ). Họ gia nhập lúc Hồ “mở rộng cửa đảng”. Tóm lại, họ là những đảng viên bị Hồ lừa (chứ không phải là loại “cộng sản theo con đường của ông (tức Hồ)” như Lữ Phương viết). Họ là những người yêu nước thực sự, cho nên tất nhiên họ cũng là đối tượng để tên Việt gian chính hiệu Hồ chí Minh thủ tiêu, ngõ hầu mới có thể áp đặt chủ nghĩa thực dân đỏ.

Đó là lý do Hồ chí Minh phải dựa vào “rễ” để làm cái mà Hồ khoái chí gọi là: “Cuộc cách mạng long trời lở đất ở nông thôn Việt Nam.” Đúng vậy, vì trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ có kẻ nào, lực lượng nào – kể cả phong kiến phương Bắc lẫn thực dân Pháp – làm được cái việc là gài mồi “yêu nước” để cho vào bẫy gần như trọn vẹn những người yêu nước mà tiêu diệt về thể xác, về tinh thần hoăc cả hai.

Thế là, cán bộ đội cải cách cùng với “rễ” nắm trọn mọi quyền hành trong xã. Bọn chúng có trách nhiệm chọn ra 5% dân số bị qui tội danh là: “địa chủ, cường hào gian ác có nợ máu, phản động đội lốt tôn giáo và các đảng phái phản động trèo cao, nằm sâu trong chính quyền và đảng (tức đảng Lao động).” Với cái tội danh mơ hồ đó, bất cứ ai cũng có thể bị gán tội được cả. Vì thế mà hầu như ở xã nào các chủ tịch, phó chủ tịch xã, trưởng công an xã, bí thư và chi ủy viên (đảng Lao động), các đảng viên dân chủ, những người xưa có cảm tình với VNQDĐ, có ảnh liệt sĩ Nguyễn Thái Học; có biết chút tiếng Pháp; có quan hệ họ hàng ở tỉnh, thành; các linh mục công giáo; các sư, sãi có uy tín trong dân v.v… đều bị kết tội.

Các tòa án cải cách ruộng đất được gọi là “tòa án nhân dân”. Chánh án tất nhiên là “rễ”, đã vô học, lưu manh, nhiều khi mới 15, 16 tuổi, vậy mà dám tuyên án tử hình tại chỗ, tịch thu toàn bộ tài sản, bỏ tù hoặc quản chế cái chỉ tiêu 5% của Hồ đề ra.

Qua cải cách ruộng đất của Hồ, bộ mặt nông thôn Việt Nam có diện mạo mới rất đặc biệt mà chưa từng nhen nhúm, hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam ta. Đó là:

1- Một bộ máy cai trị mà những chức vụ chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký ủy ban v.v…; trưởng và phó công an xã; xã đội trưởng; chủ tịch nông hội, chủ tịch mặt trận; chủ tịch phụ nữ v.v… đều là “đảng viên Lao động” (tức “cộng sản” đã qua thanh lọc hoặc mới được kết nạp);

2- Một tổ chức hoàn toàn mới của cái gọi là “đảng Lao động (tức cộng sản)”. Nghĩa là hoàn toàn không còn những người tưởng rằng vào đảng “để được góp phần chống thực dân Pháp”. Trong “đảng” là loại xuất thân từ vô sản lưu manh, trộm cắp, lười lao động, không biết chuyên môn gì – kể cả nghề nông. Chúng được lôi vào “đảng” vì có công tố láo, giết người cùng làng; vì được hứa chia quả thực, cho vị trí cầm quyền. Chúng một lòng một dạ đi theo Hồ, nguyện là người học trò trung thành của Hồ và phấn đấu vì sự nghiệp của Hồ. Chỉ có vậy thôi.

3- Bước một trong kế hoạch làm cho nông thôn Việt Nam (cả nhân lực, tài lực) trở thành tài sản của Hồ (nghĩa là của thực dân đỏ mà Hồ là người đại diện). Gọi là bước một vì tài sản ở nông thôn được chia cho “rễ”tạm thời quản lý. Phải chờ đến bước hai, tức là hợp tác hóa, thì Hồ mới tước lại tài sản từ trong tay các “rễ”. Chính thời gian này mà ra đời các cụm từ: “ruộng đất cụ Hồ”; “gạo cụ Hồ”; “dân cụ Hồ”; thậm chí cả “hạt muối cụ Hồ” v.v…

4- Chính quyền xã – cái tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng – hoàn toàn bị tiêu diệt. Không những thế, còn bị Hồ bôi nhọ. Từ chỗ là một chính quyền yêu nước, có công lãnh đạo nhân dân địa phương chống Pháp có hiệu quả, nay bị gọi là phản động, là phòng nhì của Pháp, là nằm vùng để phá cách mạng.

5- Các nhân sỹ, các nhà hoạt động tôn giáo, các đảng phái không cộng sản bị hạ nhục, bị vô hiệu hóa, bị khủng bố. Và, kể từ đó chỉ còn những kẻ chỉ điểm của Hồ trong các đảng phái không cộng sản, các hoạt động tôn giáo. Nhưng cũng chỉ được hoạt động theo kiểu làm kiểng “dân chủ” như cái chính phủ mà Lữ Phương đã là thành viên chỉ khi còn ở trong bưng mà thôi vậy.

Chính quyền xã (tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng) và tổ chức “đảng Lao động (cộng sản) ở xã bị sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ ở cấp huyện và tỉnh. Thế là, bộ mặt chính phủ vẫn mang diện mạo của “liên hiệp đa đảng” nhưng thực tế nó là một kiểu “hồn Trương Ba da hàng thịt”. Nghĩa là, về hình thức vẫn là “liên hiệp”, nhưng nội dung của nó là “đảng trị độc tài” của Hồ và cái “tập đoàn công dân búa liềm” của hắn. Cuộc đảo chính của Hồ đã thành công trọn vẹn. Máu đổ cũng nhiều, người chết và bị thanh trừng cũng nhiều. Quá trình đảo chính và củng cố ngụy quyền cộng sản đã không chỉ tác hại trực tiếp đến hàng triệu sinh mạng mà nó ảnh hưởng đến toàn bộ nhân dân Việt Nam trong mọi mặt đời sống văn hóa và sinh hoạt chính trị của xã hội Việt Nam. Cái kinh tởm nhất là toàn xã hội – kể cả tụi thống trị – trở thành lũ nói láo, nói điêu, sống vô đạo nghĩa – nói và nghĩ hoàn toàn ngược với nhau. Tỷ dụ: Đói thì nói là no; ghét nói là yêu; bị đàn áp thì nói là được tự do v.v… Cả xã hội chỉ phát triển cơ bắp, bộ óc teo lại chỉ dùng để “ăn, ngủ, đụ, ị” và hô khẩu hiệu mà thôi. Tất cả mọi suy nghĩ là độc quyền của Hồ chí Minh và đầu lãnh mafia đỏ.

Có thể người dân Việt Nam (nhất là cái gọi là “trí thức”) cũng như quốc tế ngu thật, hoặc mơ hồ vì chỉ thấy nguyên nhân máu chảy, người chết và tù đày là từ những cái gọi là “cải cách ruộng đất”, “rèn cán chỉnh quân”, “chỉnh huấn chính trị”, “ôn nghèo nhớ khổ”, “cách mạng văn hóa và tư tưởng”, , “chấn chỉnh tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” nghĩa là chính sách quá tả mà ra, vì thế họ không nhận ra rằng Hồ chí Minh dùng những chính sách nói trên làm biện pháp đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vô hiệu hóa Quốc hội khóa 1.

Cho nên, phải thấy rằng, sau cải cách ruộng đất (ở miền Bắc Việt Nam) thì miền Bắc Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân đỏ Nga-xô. Vì thế, Quốc hội khóa 2 – với thành phần quét rác, mổ heo, loại mù chữ, ngụy quân, công dân búa liềm, sư sãi mộc tồn, linh mục “đơ-mi ca-ri, đơ-mi rô-ti” và v.v… cùng với cái gọi là “hiến pháp 59” chỉ là những lớp son dân chủ giả hiệu trên các bộ mặt hề của chủ nghĩa thực dân đỏ.

Xin được đưa một thí dụ cụ thể chứng minh thấy rõ hơn những điều vừa nêu. Lấy tỉnh Phú-thọ (Bắc Việt Nam) làm một điển hình:

Năm 1945, sau khi quân Nhật phát xít làm đảo chính thực dân Pháp, trong lúc chính phủ của cụ Trần Trọng Kim chưa kịp vươn tới đó thì tuần phủ của tỉnh là Cung đình Vận bỏ trốn. Nhân dân vì nạn đói đua nhau đi phá kho thóc của thực dân Pháp (nghĩa là tự phát làm cách mạng), rồi bầu viên tham tá tòa công sứ Phú-thọ, tên là Nguyễn hữu Chỉnh, làm “quyền tỉnh trưởng”. Tận cuối 1945, vài tên cộng sản núp dưới danh nghĩa Việt Minh, móc nối với Đội Phiên. Khi đó Phiên đang làm quản lý đồn điền cho ông Đốc Lương (có phòng mạch ở Nông-pênh, Cam-bốt) nên có nhiều tá điền. Thế là Phiên được “phong” làm chủ nhiệm tổng bộ Việt Minh tỉnh Phú-thọ. Phiên đem một số tá điền cầm giáo, mác ra cùng chia quyền với ông Nguyễn hữu Chỉnh. Lúc đó Nguyễn văn Nguyên (còn gọi là giáo Nguyên), quê ở Xuân-lũng, phủ Lâm-thao (Phú-thọ), lấy vợ và định cư ở Chí-chủ. Hắn là đảng viên cộng sản do Trường Chinh kết nạp. Sau khi Chính phủ Liên hiệp đa đảng ra đời, theo đề nghị của Hồ là hợp nhất lực lượng vũ trang của các đảng phái trong Chính phủ Liên hiệp ngày 7-1-1946. Hồ đã lưu manh cho họp mặt ăn thề “hợp nhất” lực lượng vũ trang của VNQDĐ ở Yên-bái (Bắc Việt Nam) buổi chiều thì buổi tối cho đánh úp quân của VNQDĐ khiến tư lệnh Nguyễn văn Vĩnh phải tự tử. Một số trốn thoát chạy lên Lao-cai với tư lệnh Triệu việt Hưng. Còn lớp sỹ quan lục quân của VNQDĐ, hầu hết là sinh viên đại học Hà-nội, vì lòng yêu nước bỏ học để học quân sự ở nơi anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thái Học đã bị thực dân Pháp giết, được tụi cộng sản làm lễ tiễn về Hà-nội để tiếp tục học ở đại học. Nhưng thực tế chúng đã báo cho Nguyễn văn Nguyên đón bắt hầu hết ở ga Chí-chủ. Nguyên cho trói hai người làm một rồi đưa ra ghềnh Bà Triệu, đâm vài nhát và đẩy xuống chỗ xoáy nước của ghềnh. Trong số thoát nạn có bác sỹ Nguyễn văn Tiếp, sau 1954 di cư vào Nam và từng giữ chức giám đốc bệnh viện Chợ Quán.

Với thành tích giết “người yêu nước” như thế, Nguyễn văn Nguyên được Trường Chinh chỉ định làm “bí thư tỉnh ủy cộng sản” của tỉnh Phú-thọ. Bấy giờ Nguyên mới kết nạp đội Phiên. Đầu năm 1947, vợ đội Phiên cũng được lôi lên Vĩnh-chân (huyện Ấm-thượng, Phú-thọ), dù mù chữ lại vừa già móm và toét mắt, cũng giữ chức chủ tịch phụ nữ Liên khu X, có bà Phan thị An, nguyên hiệu trưởng trường nữ học Hoài Đức (Hà-nội), giúp việc.

Qua cải cách ruộng đất ở tỉnh Phú-thọ, Nguyễn văn Nguyên bị khép tội VNQDĐ và bị bắn chết. Chưa đầy 5 tiếng đồng hồ sau thì có ngựa hỏa tốc đem lệnh của Hồ sửa sai cho Nguyễn văn Nguyên, được tuyên dương là liệt sỹ. Vợ chồng đội Phiên cũng bị còng tay vào tù về tội “liên quan với địa chủ” (tức làm quản lý đồn điền cho ông Đốc Lương). Đội Phiên cắn lưỡi tự tử chết, còn vợ bị đem về bắn chết ở sân đồn điền của ông Đốc Lương (Cẩm-khê, Phú-thọ). Chủ tịch tỉnh là nguyên tham tá tòa sứ Phú-thọ, Nguyễn hữu Chỉnh bị cách chức, khoảng 1957 cho đi dạy học ở trường kinh tế – tài chính (Hà-nội). Trước đó, tuần phủ Cung đình Vận cũng bị bắt và bắn chết.

Quyền hành toàn tỉnh Phú-thọ, sau ngón võ của Hồ, đều nằm trong tay bí thư tỉnh ủy mới của “đảng Lao động” là Vũ Song, do đích thân Hồ chỉ định. Trước đó Song là người được Hồ trực tiếp lựa chọn và giao cho xây dựng “đoàn thanh niên xung phong” (một mỹ tự gắn cho nam nữ thanh niên nô lệ khổ sai).

Thế là Hồ đã chặt chân tay của Trường Chinh ở Phú-thọ qua cái gọi là “cải cách ruộng đất”, cũng như cày nát nhân sự làng Xuân-lũng (phủ Lâm-thao, Phú-thọ), đã từng là cơ sở quan trọng của anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thái Học. Sau khởi nghĩa Yên-bái của VNQDĐ, làng Xuân-lũng đã từng bị thực dân Pháp cho máy bay “bà già” bắn phá bỏ bom. Hồ đánh tan nát Xuân-lũng còn hơn Pháp bắn và thả bom rất nhiều, nhằm tiêu diệt tinh thần yêu nước thực sự của người Việt Nam (đó là tinh thần Nguyễn Thái Học).

Trường Chinh rất đau trong vụ Nguyễn văn Nguyên bị Hồ cho giết chết. Hắn lợi dụng cái tuyên dương “vuốt đuôi” là liệt sỹ mà Hồ ban cho Nguyên để đưa con trai Nguyên đi Nga-xô học, rồi khi nắm chức Chủ nhiệm ủy ban khoa học của ngụy quyền Hà-nội, hắn đã đưa thằng con đó của Nguyên vào giữ ghế thư ký ủy ban. Con của tên Việt gian, giết người yêu nước, Nguyễn văn Nguyên đó chính là “giáo sư tiến sỹ” Nguyễn văn Đạo, giám đốc trường đại học quốc gia hiện nay. Đạo là người đọc diễn văn ngày cựu tổng thồng Bill Clinton của Mỹ, đến nói chuyện ở trường này, và Đạo bị một số người trong nước Việt Nam chửi là “vô giáo dục, bất lịch sự”. Chó tất nhiên đẻ ra chó, làm sao đẻ ra cọp được!
Làm “cải cách ruộng đất” là âm mưu thâm độc và quan trọng nhất để Hồ đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, âm thầm biến cuộc chiến tranh chính nghĩa của Chính phủ Liên hiệp đa đảng chống thực dân Pháp thành chiến tranh bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ. Chính vì thế mà bao người đành phải đau lòng rời bỏ kháng chiến để vào vùng Pháp tạm chiếm. Hầu hết còn mơ hồ không lý giải được tình hình lúc đó, lại thêm thiếu tài liệu về con người của Hồ chí Minh cũng như những thực tế tội ác của Hồ và tập đoàn mafia đỏ của hắn, cho nên chia làm hai bộ phận:

1- Một số trùm chăn, mơ mơ hồ hồ, làm cái loa rỉ tai tuyên truyền có lợi cho ngụy quyền Hồ chí Minh.
2- Số khác lợi dụng Pháp để công khai chống ngụy quân, ngụy quyền Hồ chí Minh, nhưng cũng chưa đủ thông tin để hiểu sâu sắc về tập đoàn Hồ chí Minh và cái chủ nghĩa “lá diêu bông” cộng sản; và cũng không có khả năng tổng hợp tội ác của chúng cũng như hoàn toàn thiếu phương tiện để đấu tranh với bọn chúng trên bình diện tuyên truyền thông tin. Trong khi đó, ngụy quyền Hồ chí Minh vẫn núp trong cái lốt Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vẫn nắm ngọn cờ “chiến tranh giải phóng dân tộc” của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, lại được mẫu quốc Nga-xô cùng đồng bọn cộng sản ở khắp thế giới đánh bóng, ủng hộ. Điều đáng buồn là có nhiều “trí thức tháp ngà”, nhiều nhà hoạt động xã hội quốc tế có tên tuổi, y như người ngắm trăng bằng mắt để tưởng tượng ra câu chuyện “chị Hằng” và “chú Cuội ngồi gốc cây đa”, ra công tô vẽ cho con quạ đen ngụy quyền Hồ chí Minh thành chim phượng, chim trĩ!!! Chính vì thế mà cuộc đấu tranh của những người đã cảm nhận được Hồ và cái tập đoàn công dân búa liềm của hắn là nguy cơ của dân tộc và đất nước Việt Nam cứ phải ở thế hạ phong.

Với dã tâm lưu manh chính trị đó, ngay từ đầu 1948, Hồ đã đích thân dùng bút danh Trần dân Tiên để tự đánh bóng bản thân với toàn những chuyện phịa. Đó cũng là cái khung, cái mẫu mực mà Hồ vạch ra cho các loại bút nô sau này, tạo thành “một nguồn cảm hứng vô tận” để hình thành những bài tụng ca, và hơn nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa, như Lữ Phương viết.
Tất cả những tên nô lệ thổi kèn nâng bi họ Hồ, dù xuất thân rất khác nhau, đều được Hồ ban cho một chỗ đứng cao ráo trong bậc thang mafia đỏ. Tố Hữu, một tên mà đã có nhận xét về hắn là “mắt khô miệng ướt”, đã vọt lên tới cái ghế ủy viên chính trị bộ đảng Việt gian; Diệp minh Châu được lôi từ đồng bằng Cửu-long, chẳng qua bầu bán, nhảy thẳng ra Việt-Bắc dự đại hội 2, rồi được cùng ăn ở với Hồ để vẽ Hồ. Một năm sau, Hồ cho Diệp minh Châu qua Ba-lan học nghề nặn tượng để chuyên nặn và tạc tượng Hồ. Tên phó máy phố phủ là Đinh đăng Định cũng được Hồ cho ở cạnh để chụp ảnh Hồ trong suốt những ngày ở Việt-Bắc và vài năm sau 1954, được Hồ cho cái ghế “chủ tịch hội nhiếp ảnh”. Tất cả các loại khác từ Nguyễn đỗ Cung đến Mai văn Hiến; từ Hoài Thanh đến Bảo định Giang; cặp bài trùng Cù huy Cận – Xuân Diệu; rồi Nguyễn đình Thi, Lưu hữu Phước, Phạm Tuyên, Đỗ Nhuận; rồi Huyền Kiêu, Hoàng trung Thông v.v… Tóm lại cả một hiệp hội gồm những văn nghệ sỹ, trí thức “không bằng cục cứt” đua nhau ca ngợi Hồ bằng mọi loại hình văn học nghệ thuật và có cả một cái gọi là “ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài” với những Phạm ngọc Thuần (anh ruột nội gián Phạm ngọc Thảo), bác sỹ Nguyễn khắc Viện, Vũ Cận v.v… làm công việc dịch thuật những “tụng ca” đó, có sự tiếp tay của nhóm Việt gian hải ở ngoại là Huỳnh trung Đồng, bác sỹ Nguyễn ngọc Hà v.v… Hồ còn được mấy anh chị làm báo của Tây cộng sản và Tây xã hội làm cái việc “vẽ rắn thêm chân”.

Sự bốc thơm họ Hồ của cả một hệ thống văn nô cung đình, có tầm vóc lớn lao, mà lịch sử các triều đại ở Việt Nam chưa bao giờ có thể hình dung được. Cộng thêm những tên cầm bút người nước ngoài vừa ngu vừa dốt, vừa vô trách nhiệm, đã đổi trắng thay đen sự thực lịch sử, khiến con dê cụ Hồ chí Minh biến thành “ông tiên” của Lữ Phương, tên Việt gian số một trong lịch sử Việt Nam biến thành “anh hùng giải phóng dân tộc”; tên gián điệp quốc tế chuyên nghiệp thành “lãnh đạo cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba”; tên đạo văn thành “hiền triết phương đông”.

Thật đáng buồn là có những người đã từng cầm súng chống thực dân Pháp mà về già, óc nô lệ vẫn còn đặc sệt, đến nỗi viết sách về Việt Nam mà phải nhờ một “ông” Tây cầu chứng cho. Khổ nỗi “ông” Tây này cũng từng là cây bút bố láo có hạng!!!

Thật đáng lo ngại bởi các thế hệ con em chúng ta sau này, chắc chắn sẽ ngả vào đống tài liệu giả đó để mà băn khoăn không biết đâu là thực, đâu là giả, sẽ mất thì giờ tranh cãi và có thể rất nhiều các em sẽ nghĩ Hồ là “ông tiên” thật, hoặc nghi ngờ rằng: “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục” như Lữ Phương đã viết. Vì cho đến nay chưa ai nghiêm túc hệ thống hóa tài liệu, phê phán tài liệu để tìm sự thực nhằm bác bỏ núi tài liệu giả do chính Hồ và ngụy quyền cộng sản mafia Hà-nội sản xuất từ hơn nửa thế kỷ nay, vẫn còn tiếp tục làm hàng giả, đang được những tên mafia đỏ hoặc tay sai của chúng nằm vùng, hoặc lũ cơ hội đi hai hàng, đang tìm cách cho thâm nhập, thẩm thấu dần dần vào cộng đồng người Việt ở hải ngoại, đặc biệt là tầng lớp trẻ. Cây bút của chúng như cái que khều rác, bới loạn xà ngầu, mà cũng chỉ bới ra rác thôi.

Như đã trình bày ở trên, rằng Hồ dùng “cải cách ruộng đất” để đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp đa đảng, dựng lên ngụy quyền Hồ chí Minh, lèo lài cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta chống thực dân Pháp thành cuộc chiến bành trướng của thực dân đỏ. Hắn vẫn dùng ngọn cờ giải phóng dân tộc của Chính phủ Liên hiệp đa đảng nhưng những người Việt Nam thức thời, thấy rằng Hồ và tập đoàn mafia đỏ là bệnh tâm phúc của dân tộc còn thực dân Pháp chỉ là cái mụn ghẻ. Vì thế mới có sự hợp tác với Pháp để chống Hồ. Chỉ tiếc là thiếu nhân sự có khả năng, thiếu phương tiện, tư liệu và kỹ năng tuyên truyền và phản tuyên truyền, cho nên bị con cáo già Hồ chí Minh, lợi dụng sự ấu trĩ của nhân dân lúc đó, hoàn toàn mù tịt về tội ác của thực dân đỏ, để khoét sâu thêm sự ngộ nhận của nhân dân trong việc cộng tác với Pháp. (Sau này ngụy quyền Hồ chí Minh cũng múa lại võ này trong cái gọi là “chống Mỹ xâm lược” trong chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ vào miền Nam nói riêng, và toàn Đông-dương nói chung).

Sau cải cách ruộng đất, tất cả những việc làm khác của Hồ như “chấn chỉnh tổ chức” và “sửa sai cải cách ruộng đất” chỉ nhằm mục đích củng cố quyền lực của cá nhân Hồ; củng cố bộ máy thống trị của ngụy quyền Hồ chí Minh; chấn chỉnh lại tổ chức công dân búa liềm, nhằm nhẹ nhàng loại bỏ ảnh hưởng của Trung cộng.
Nhiều người đến nay vẫn tưởng Hồ tự phê về sai lầm trong cải cách ruộng đất là thực lòng, đó là vì họ không dám mở mắt nhìn thẳng vào con người của Hồ. Những huyền thoại về Hồ do chính hắn và tay sai trong và ngoài Việt Nam, do đồng bọn ở nước ngoài, do mẫu quốc đỏ (anh cả Nga-xô, anh hai Trung cộng), do mấy nhân sỹ trí thức nước ngoài thuộc loại “lẩm cẩm muốn nổi danh” đã tô vẽ “rắn thêm chân” làm họ không dám nghĩ rằng Hồ chính là con “mảng xà tinh” trong truyện Thạch Sanh.

Sửa sai thực chất là một cuộc thanh lọc lại, vì thế mới có lý do để cất chức tổng bí thư của Trường Chinh; đuổi Lê văn Lương và Hoàng quốc Việt ra khỏi bộ chính trị mafia đỏ, tước chức đầy quyền lực của Lương là trưởng ban tổ chức trung ương, cho Lê đức Thọ ngồi vào đó và Lê Duẩn được ngồi lên đầu Trường Chinh.

Cũng qua sửa sai, Hồ cho giết một số nữa gồm bọn gọi là “rễ”, nghĩa là cái kiểu sửa gáy “kiêu binh tam phủ”, cho trở lại đời thường một số “bị oan” trong cải cách, để làm đối trọng của lũ kiêu binh mới, gây ra cảnh rình mò nhau, khiến chẳng ai dám trái ý Hồ.

Cũng qua sửa sai, Hồ dùng tay Nguyễn chí Thanh để sửa gáy cả Võ nguyên Giáp, bằng cách cho phép Thanh bắt các đại tá thân cận nhất của Giáp, nghĩa là “cạo nhẵn râu ria của Giáp”. Hào quang “chiến thắng Điện-biên” của tướng Giáp được các nguyên soái Vi quốc Thanh, đại tướng Trần Canh và thiếu tướng La quý Ba của Trung cộng đội cho, bị Hồ dùng cái khố cố nông của Nguyễn chí Thanh chụp lại. Trung tướng ngụy quân Hoàng văn Thái, cánh tay mặt (sau còn là sui gia) của Giáp chẳng tội tình gì mà bị tước chức tổng tham mưu trưởng ngụy quân cộng sản. Cái ghế đó được trao cho Văn tiến Dũng, đại đoàn trưởng đại đoàn Đồng Bằng, và Dũng được đưa lên chức thượng tướng – hơn Thái một ngôi sao! Và Thái thành phó của Dũng!

Tất cả những người thắc mắc, phát hiện ra sai lầm của cải cách ruộng đất đều bị loại thẳng tay như luật sư Nguyễn mạnh Tường; như bộ trưởng tư pháp Vũ đình Hòe v.v… Và, Hồ còn quăng mẹ nó cả cái bộ tư pháp lẫn khoa luật ở trường đại học vào “hố xí”. Từ đó trở đi, lời nói, mệnh lệnh của Hồ là luật. Ngụy quyền Hồ chí Minh cũng cho ra đời cái quyết định tập trung cải tạo không xét xử (mà cũng là không thời hạn) tất cả những ai bị coi là nguy hiểm cho chế độ (thực dân đỏ) hoặc có thể sẽ nguy hiểm (nghĩa là thà sai hơn sót)!!!

Thế mà có biết bao tên điên hoặc vừa điên vừa ngu từ đó cho đến nay, như con đà điểu rúc đầu vào cát, vẫn tin vào sự sửa sai của Hồ là thành khẩn!!!
Hiệp định Genève 1954 cho ngụy quyền Hồ chí Minh tạm thời quản lý miền Bắc Việt Nam tới vĩ tuyến 17.

Trước đó Hồ dùng cải cách ruộng đất để tước đoạt tài sản của nông dân. Nay vào tiếp quản các thành thị, Hồ dùng cái gọi là “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, và qua tay tên nguyên lý trưởng chuyên cờ bạc và nghề hoạn lợn là Đỗ Mười, hắn cho cướp hết tài sản của nhân dân ở thành thị. Nghĩa là hắn đã “vô sản hóa toàn dân Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 17”, và tất cả thành nô lệ của thực dân đỏ. Có thể đó là thành tích “lãnh đạo cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba” của Lữ Phương dâng cho Hồ. Bởi bọn Tô Định, Mã Viện, Cao Biền ở phương Bắc và thực dân Pháp cũng không thể nào so sánh được với cái vẩy móng tay của Hồ trong sự nghiệp nô lệ hóa nhân dân Việt Nam cho thực dân đỏ!
 

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

VIỆT THƯỜNG

BÀI 5.  XÃ HỘI MIỀN BẮC VIỆT NAM ĐƯỢC HỒ SẮP XẾP LẠI

Một bên là tổ chức công dân búa liềm, phải cải tạo lại tư tưởng qua cái gọi là “chỉnh huấn mùa xuân”, “chống bè lũ nhân văn – giai phẩm” và “ôn nghèo nhớ khổ”. Từ đó tất cả đều phải đền đáp công ơn đảng (tức Hồ), bác (cũng là Hồ) và thề phấn đấu cho lý tưởng và sự nghiệp của “bác Hồ vĩ đại” cho đến hơi thở cuối cùng và cho ra đời lũ đảng viên mới gọi là lớp đảng viên Hồ chí Minh.
Vậy “lý tưởng và sự nghiệp vĩ đại” của Hồ cụ thể ra sao? Đó là:
a- Bảo vệ Liên-xô, thành trì cách mạng vô sản toàn thế giới;
b- Làm tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa trong công cuộc chiến đấu chống “chủ nghĩa thực dân kiểu mới”, đứng đầu là đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế;
c- Dưới sự lãnh đạo của Liên-xô và cùng các đảng cộng sản anh em đưa sự nghiệp cách mạng tới thế giới đại đồng.
Nội dung thực sự của thứ chủ nghĩa màu mè mang nhãn thực dân đỏ này chỉ có nghĩa là:
1- Nhân dân Việt Nam là binh nô ở ngoại vi của Nga-xô, phải bảo vệ Nga-xô ở vòng ngoài;
2- Nhân dân Việt Nam phải chấp nhận làm binh nô, đất nước Việt Nam là chiến trường trong cuộc chiến kiểu mới giữa Nga-xô (phe cộng) và Mỹ (thế giới tự do);
3- Làm nhiệm vụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ, do Nga-xô lãnh đạo, ra toàn thế giới mà trước hết là miền Nam Việt Nam, rồi Lào và Cam-bốt; xa hơn nữa là các nước ở Đông-nam-á.
Vì thế, về tổ chức, Hồ cho khai tử cái gọi là Mặt trận Liên Việt, đẻ ra cái gọi Mặt trận Tổ quốc với cương lĩnh áp đặt cho miền Nam Việt Nam để không thể có tổng tuyển cử trong cả hai miền tiến tới thống nhất như hiệp định Genève về Việt Nam qui định. Và đấy là cái cớ để Hồ dùng ngụy quân cộng sản xâm lăng miền Nam Việt Nam (Nghị quyết trung ương mafia lần 15 (khóa 2) tháng 1-1959).
Hồ cũng cho dựng ra quốc hội bù nhìn khóa 2 và thông qua cái gọi là “hiến pháp 59”. Nghĩa là xóa sạch vết tích của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, xé bỏ Hiến pháp 1946. Thượng thư Bùi bằng Đoàn quyền chủ tịch quốc hội 1 bị chết lãng nhách. Vua Mèo Hà-giang là Vương chí Sình, phó chủ tịch quốc hội 1, bị bệnh (?) và vào nằm ở bệnh viện Việt-xô (do Nga-xô viện trợ) cho đến chết. Ủy viên thường vụ quốc hội 1 là bà Trịnh thục Viên được về hưu và v.v… Quốc hội 2 do Trường Chinh làm chủ tịch, các phó chủ tịch là Hoàng văn Hoan; thượng tướng ngụy quân cộng sản Chu văn Tấn, chủ tịch phụ nữ (nô lệ mới) Nguyện thị Thập, chủ tịch tổng công đoàn Hoàng quốc Việt và tổng thư ký là Tôn quang Phiệt, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ. Hầu hết là mafia đỏ các cấp, các ngành, từ binh lính, công an đến kinh tế, văn hóa, thêm mấy chị quét rác (ở khu phố của Hồ, Đồng, Giáp, Tố Hữu ở), anh tài xế xe lửa, tài xế xe ô-tô và v.v… Bọn này có nhiệm vụ chủ yếu là vỗ tay và hô khẩu hiệu do bác sỹ Trần duy Hưng, chủ tịch Hà-nội, cầm chịch. Vài anh ở hai đảng Dân chủ và Xã hội, sau khi hai đảng này đã được cải tạo tại chỗ, không được phép kết nạp đảng viên mới mà cũng không được phép xin ra đảng, và có một chi bộ đảng cộng sản nằm trong trung ương lãnh đạo trực tiếp, cũng được cho làm nghị gật chính hiệu con nai vàng. Dụng ý của Hồ là muốn quốc tế (loại cận thị) vẫn nghĩ rằng quốc hội 2 cũng là quốc hội đa đảng như quốc hội 1.
Sau này, khi bắt đầu tiến hành xâm lăng miền Nam, Hồ cho hai đại diện của hai đảng “gà thiến” là Dân chủ và Xã hội được cái ghế phó chủ tịch quốc hội, đó là kỹ sư Trần đăng Khoa ở Dân chủ và Nguyễn Xiển ở Xã hội. Đấy chính là hai bông hoa mướp vàng chóe, Hồ dùng làm mồi câu mấy chú ếch ộp làm chính trị ở miền Nam, như Trịnh đình Thảo, Trương như Tảng, Dương quỳnh Hoa, Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Trần bửu Kiếm, Lâm văn Tết v.v… để trốn vào bưng, rồi được đưa ra rừng lim ở Thanh-hóa, đóng trò hội họp cho ra đời mấy gánh hát chính trị để me-xừ nhà báo “tầm cỡ quốc tế tài ba” là Burchett quay phim, phỏng vấn. Sau đó tất cả ra khách sạn Hoàn Kiếm Hà-nội đánh bài tây, thỉnh thoảng mang phông màn, đạo cụ qua mấy nước chư hầu của thực dân đỏ hát lăng nhăng vài câu vọng cổ cho ra vẻ “thương nhớ” nhân dân miền Nam “đói khổ phải ăn gạo pha hạt ny-lông”; còn lính Mỹ thì đi trực thăng ăn cướp từng cân gạo của nông dân vì đói quá, như bài viết của mafia đỏ!!!(???) Chỉ tiếc rằng nhà “trí thức yêu nước” Lữ Phương chưa đủ tiêu chuẩn ra Hà-nội nên vẫn phải ở bưng, nghe lệnh của các ”đồng chí” Trần bạch Đằng và Hai Khuynh v.v… một cách rất chi là nghiêm chỉnh!!!
Cái chế độ mà Hồ xây trên đầu, trên cổ nhân dân miền Bắc Việt Nam là độc tài cực quyền. Đến cả chữ nghĩa, ngôn ngữ dùng cho mafia đỏ cũng độc quyền. Tỷ như cụm từ “tổng bí thư” chỉ dùng riêng cho mafia đỏ, đối với các đảng phái khác (dù quốc tế, như đảng Xã hội Pháp chẳng hạn) cũng chỉ được dùng cụm từ “tổng thư ký”.
Các vị trí trong tổ chức mafia đỏ cũng lặp theo kiểu công, hầu, bá, tử, nam. Đó là:
- Tước “công” là ủy viên bộ chính trị;
- Tước “hầu” là ủy viên dự khuyết bộ chính trị;
- Tước “bá” là ủy viên ban bí thư;
- Tước “tử” là ủy viên trung ương;
- Tước “nam” là ủy viên dự khuyết trung ương.
Còn Hồ là tước “vương” (vì Hoàng Đế dành cho mẫu quốc). Chử “bác” của Hồ có nghĩa là “trẫm” hay “cô gia”.
Đây không phải là chuyện “phịa” mà căn cứ vào việc năm 1973, Trường Chinh cho tổ chức họp mặt dòng họ Đặng, đã khoái chí nói rằng: “Nhà họ Đặng có ba đời làm Quận công”. Đặng trần Thường là đời thứ hai làm Quận công. Đời thứ ba chỉ có Trường Chinh là nổi nhất, là ủy viên chính trị bộ mafia đỏ Hồ chí Minh. Thế có phải là Trường Chinh đã tự nhận mình là Quận công rồi không!!!
Ngụy quyền Hồ chí Minh còn phân biệt đến cả loại xe, màu xe cho từng cấp; phân loại cung cấp đến cả nhà ở, lương thực, thực phẩm, quan tài, giải trí, nghỉ ngơi, chữa bệnh v.v… Cụ thể là: Xe của Hồ là Tchaika bọc thép của Nga-xô; các ủy viên chính trị bộ mafia (cả ủy viên dự khuyết) đi xe Volga đời mới màu xanh vỏ chai; ủy viên ban bí thư mafia và ủy viên trung ương loại nặng ký (như Hoàng quốc Việt, Nguyễn thị Thập, Hà thị Quế, Chu văn Tấn) đi xe Volga đời mới màu đen; các loại “cây kiểng dân chủ” cao cấp như Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Phan kế Toại, Nguyễn văn Huyên v.v… đi xe Volga đời mới có màu khác với các màu nói trên. Các bí thư tỉnh ủy mafia đi Volga cũ màu đen, trong đó có bác sỹ Trần duy Hưng, chủ tịch Hà-nội. Thấy bác sỹ Trần duy Hưng cần mẫn hô khẩu hiệu, Hồ cho riêng Trần duy Hưng chiếc Peugeot 204 (do Pháp tặng Hồ), nhưng bị Nguyễn Lam (khi ấy là ủy viên ban bí thư kiêm bí thư thứ nhất thành ủy mafia Hà-nội) tước mất. Trần duy Hưng im re đành vẫn đi xe cũ. Hồ biết chuyện này nhưng cũng lờ đi! Theo mốt mafia, tất cả các xe đều có rèm xe che kín các cửa kính, kể cả cửa kính sau xe!
Hồ cho hình thành các cửa hàng cung cấp cho quan lại đỏ, như thực phẩm ở Tôn Đản; tiêu dùng ở phố Hàng Trống (cạnh nhà ga Phú Gia); nơi nghỉ mát trong nước: Tam-đảo, Trà-cổ, Đồ-sơn (Tam-đảo thì độc quyền; còn Trà-cổ và Đồ-sơn thì rào thành khu vực riêng); sau lấy thêm nhiều vi-la và xây mới vi-la ở Bãi-cháy (Hạ-long). Nghỉ mát ở nước ngoài thì sang Hắc-hải (Nga-xô) hoặc Động-đình-hồ (Trung cộng). Bọn chúng đi nghỉ mát cả ba đời, như Trường Chinh cho cả vợ đi, cả gia đình Đặng xuân Kỳ và các con (là con trai và cháu nội của Trường Chinh) sang Hắc-hải vui chơi cả tháng, còn nhân dân (được chúng “phong” là chủ nhân) thì lao động: “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm; làm thêm chủ nhật”. Cán bộ, công nhân viên được 10 ngày phép năm thì phải làm đơn xin hiến để “đánh thắng Mỹ-Ngụy”!!!
Ngụy quyền Hồ chí Minh khi ấy còn cho xây ở khu Quảng-bá (Hồ Tây, Hà-nội) một loạt các nhà nghỉ cá nhân (kiểu cottage) gọi là cho trung ương nghỉ ngơi, giải trí tại chỗ, có các “cháu gái” lôi từ nông thôn ra (đa số là sắc tộc thiểu số ở Cao-bằng, Lai-châu) để giải khuây cho Hồ và lũ tay chân thân cận. Càng bước vào cuộc chiến xâm lược miền Nam Việt Nam thì bọn chúng càng ăn chơi sa đọa, hoàn toàn là tính cách của lũ cầm quyền thực dân trên các mảnh đất thuộc địa.
Khi chiến tranh căng thẳng, nghĩa là Mỹ bắt đầu oanh tạc ra phía Bắc, con cái bọn thống trị được đưa sang Nga-xô hoặc các nước chư hầu Đông-âu của Nga-xô học hành, dù là đang học ở cấp phổ thông. Còn trường học của con em nhân dân và cán bộ loại thấp cổ bé miệng được sơ tán về nông thôn để làm nơi tàng trữ vũ khí, và học sinh là lá chắn bảo vệ những kho vũ khí đó. Nếu Mỹ đánh vào đó thì chúng la lên là Mỹ “đánh trường học, bệnh viện, đền chùa và nhà thờ v.v…” Câu chuyện trường mẫu giáo Trạm Trôi và bệnh viện Bạch-mai (Hà-nội) là hai thí dụ điển hình.
Trên đây tạm tóm tắt để bạn đọc có chút khái niệm về “anh hùng giải phóng dân tộc” Hồ chí Minh, thực chất còn “chó má” hơn cả “chó” nữa kia!
2- Về phần nhân dân Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra phía Bắc thì, sau khi bị các đòn của ngụy quyền Hồ chí Minh gọi là “cải cách ruộng đất”, “chấn chỉnh tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” và “cách mạng văn hóa tư tưởng”, mà nội dung cũng vẫn là cái khẩu hiệu hành động (hay cương lĩnh chính trị) của cái gọi là “Xô-viết Nghệ-tĩnh”: “Trí, phú, địa, hàoĐào tận gốc, trốc tận rễ” đều bình đẳng như nhau. Đúng nghĩa của nó là tất cả đều là “cải tạo viên” trong cái trại cải tạo mang tên “Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Do Hồ chí Minh làm chánh-giám-thị. Mọi người đi lại, ăn mặc, làm nghề gì, học cái gì, cư trú ở đâu, cho đến cả ma chay, cưới hỏi v.v… nhất nhất đều phải xin phép. Nhiều người nước ngoài, cả nhà văn, nhà báo, giáo sư, luật sư, cho đến chính khách nữa mới chết chứ, như Xi-ha-núc hay Xu-các-nô, có dịp qua thăm cái trại cải tạo vĩ đại “Việt Nam dân chủ cộng hòa”, có vẻ khoái lắm, cười híp mắt lại nên có nhìn thấy gì đâu. Nào khen trật tự, hiếu khách, tươi tắn, yêu kính “lãnh tụ” (tức Hồ). Bởi họ thấy mọi “nhất trí” nhe răng cười; “nhất trí” vẫy cờ; “nhất trí” hô khẩu hiệu; đi đứng hàng ngũ chỉnh tề như “lính diễn hành”. Thật buồn cho những “bộ óc ít nếp nhăn” đó, không thể hiểu nổi một điều đơn giản là làm sao mà hàng vạn người lại có thể “nhất trí” thế được. Bởi chỉ có một tập hợp những nô lệ mới nhất trí trong một biểu lộ mà chủ nô quy định. Còn trong xã hội tự do thì sẽ có người hoan nghênh, có người ném trứng thối và cũng có người chẳng thèm quan tâm. Cũng chính vì sự đơn giản trong suy nghĩ, phân tích như thế mà ngày họ Hồ ngủm củ tỏi, người ta thấy những thước phim quay cảnh từ Phạm văn Đồng cho đến “quân chúng nhân dân” đều khóc thảm thiết như mưa!!!
Bạn đọc thử nghĩ xem, cái đám nô lệ đó, thấy máy quay phim rè rè chạy chỉa vào mình, hỏi rằng có uống mật gấu cũng không dám “bình thản” chứ nói gì cười trước cái chết của tên chủ nô. Chẳng những thế, còn cố nghĩ xem có bao nhiêu nỗi đau khổ của cả làng, cả họ để mà mủi lòng khóc thật thê thảm, biết đâu lọt vào mắt của một cai ngục nào đó mà khẩu phần bữa ăn được thêm chút canh cặn.
Rồi đây có thể con, em chúng ta xem cảnh tang lễ họ Hồ, nếu không được giải thích trước, chắc cũng sẽ kết luận một cách hồ đồ rằng: “Nhân dân Việt Nam yêu quý bác Hồ”!!!
Sau khi đã tước đoạt tài sản của toàn dân, tập trung tất cả tài sản đó vào tay tập đoàn đầu lãnh “công dân búa liềm” của Hồ, ngụy quyền Hà-nội tổ chức lại các hoạt động sản xuất ở nông thôn và thành thị dưới cái mỹ tự mơ hồ là “xây dựng cơ sở vật chất và phương thức sản xuất của chủ nghĩa xã hội”. Nghĩa là: ở nông thôn thì tài sản sau cải cách ruộng đất và sửa sai của cải cách ruộng đất chia cho cốt cán và nông dân nghèo, nay vì “anh hùng giải phóng dân tộc” của Lữ Phương là Hồ chí Minh lại thu hồi lại trong cái gọi là “hợp tác hóa nông nghiệp”, nghĩa là toàn thể nông dân trở lại thân phận “người cày có ruộng cày. Xin phép được trình bày rõ hơn điểm này để bạn đọc hiểu cái “lưỡi ê-đốp” của họ Hồ. Một trong những cái mồi mà tụi theo “chủ nghĩa cộng sản” sử dụng để câu nông dân là khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”, nghĩa là những người lao động thực sự ở nông thôn phải là chủ sở hữu thửa ruộng mình cày. Khác với thực tiễn của chế độ phong kiến, địa chủ (không cày) là sở hữu chủ của ruộng đất, còn người cố nông – không có ruộng đất – là người thực sự cày ruộng (hay nói cách khác, họ có ruộng để cày, ruộng là của chủ, họ là người cày thuê).
Dù chất phát đến đâu thì khi bị bó buộc thi hành “hợp tác hóa nông nghiệp”, người nông dân cũng hiểu là thân phận họ vẫn chỉ là “người cày có ruộng để cày”, cho nên ở nông thôn khi đó mới có câu:
“Xưa địa chủ mướn đi cày
Nay ơn “bác” mướn lại cày ruộng xưa

Sự chống đối đó của nông dân (sau đó là của công nhân xí nghiệp, xã viên hợp tác xã thương nghiệp, tiểu thủ công nghệ ở thành thị) nên ngụy quyền mafia Hồ chí Minh mới vội đẻ ra cụm từ “ngang như cua” là: “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Ba bộ phận của cụm từ trên được giải thích dễ hiểu qua mô hình ở đồn điền ông Đốc Lương (Cẩm-khê, Phú-thọ), như đã viết ở trên, thành hình ảnh cụ thể như sau:
+ Cai đồn điền là của ông Đốc Lương nên ông ta lãnh đạo
+ Đội Phiên được ông Đốc Lương thuê quản lý nên quản lý
+ Tá điền cày cuốc, làm cỏ, gặt hái… được cho đi tàu bay là chủ.
Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ nhân dân Việt Nam bị cai trị tàn bạo và nghe nói láo nhiều như dưới sự cai trị của chủ nghĩa thực dân đỏ mà ngụy quyền Hồ chí Minh là công cụ (sau tháng 4-1975, hàng triệu người miền Nam bị đưa đi tập trung cải tạo có thể hình dung cơ chế tổ chức ở mọi trại cải tạo là thể vi mô của cái thể vĩ mô “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Những người nô lệ kiểu mới đó ở nông thôn Bắc Việt Nam âm thầm đấu tranh chống tụi thực dân đỏ. Trong văn hóa thì có thơ, vè như:
“Một người làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài, tậu xe
Một người làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà, xây sân.”

Trong sản xuất thì:
- Ngụy quyền thu mua gà, vịt thì họ nuôi ngỗng
- Ngụy quyền thu mua gà, vịt, ngỗng thì họ nuôi gà tây và thỏ
- Ngụy quyền thu mua mía thì họ tước lá mía bán ngoài để lợp nhà, làm chất đốt
- Ngụy quyền thu mua cây ăn trái thì họ đổ nước muối cho cây chết bán làm gỗ, làm củi; rồi họ trồng cây ngâu, cây sói bán hoa để ướp trà
- Ngụy quyền cấm thịt heo, bò, trâu thì họ lấy nhựa trái đu đủ xanh bôi khắp người con heo làm cho nổi mụn đỏ rồi báo thú y đem chôn. Nhưng thú y đi thì họ tắm cho heo xà-bông và nước ấm, heo lại như bình thường đem mổ bán lậu. Trâu, bò thì đẩy xuống ao cho bị cọc đâm rồi báo huyện xin mổ v.v…
Tóm lại là ngụy quyền Hồ chí Minh thi thố võ bóc lột nào, nông dân có ngay cách đối phó hữu hiệu. Cái lối phá hoại sản xuất, công cụ sản xuất và lãn công, lãng phí vô tội vạ đó đã chứng minh hình ảnh Bắc Việt Nam do ngụy quyền Hồ chí Minh cai trị là gì? Và, rõ ràng là suy nghĩ và hành động chỉ theo hai cách:
+ Chủ quan của tập đoàn ngụy quyền Hồ chí Minh
+ Chủ quan của nhân dân nói chung
Còn cái gọi là khách quan như Lữ Phương mong muốn chỉ xảy ra với bọn định “làm đơn xin việc” như lối nói của Lý Tuấn. Và, xa hơn nữa là của vài anh làm báo, nhà văn nước ngoài “thối mồm” xía vào việc người một cách rất “vô trách nhiệm và cực kỳ ngu xuẩn!!!”
Ngụy quyền Hồ chí Minh, theo ngôn ngữ kinh tế của chủ nghĩa thực dân đỏ (tức cộng sản) thường rêu rao cái gọi là “sở hữu tập thể” và “sở hữu toàn dân” mà nhiều anh mọt sách cũng bày đặt phân tích, so sánh này nọ, hoàn toàn viễn vông, vô tích sự, y hệt “so sánh rồng Nhật Bản, rồng Việt Nam và rồng Ba Tàu” con nào được vẽ giống “rồng” hơn. Khổ quá, “rồng” chỉ được kể qua truyền thuyết mà thôi, làm gì có thật mà bàn với so sánh. Còn cái sự thật vừa giản dị, vừa rõ rành rành là chỉ có ở các nước có dân chủ đa đảng thì sở hữu toàn dân (hay quốc doanh) mới là thực của các khái niệm đó mà cũng chỉ ở mức tương đối mà thôi. Còn ở một nước nô lệ do tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh cai trị thì làm gì có cái gọi là sở hữu toàn dân (hay quốc doanh) mà bàn. Bản thân mỗi con người cụ thể – từ già đến trẻ – cũng thuộc quyền sở hữu của Hồ (đại diện của thực dân đỏ). Giở sách báo ra chỗ nào mà chẳng thấy: “ruộng cụ Hồ”; “gạo cụ Hồ”; “muối cụ Hồ”; “dân cụ Hồ”; “thiếu nhi cụ Hồ”; “lính cụ Hồ”; “áo cụ Hồ” v.v… Thử hỏi cho đến tận bây giờ có ai được biết ngụy quyền Hà-nội làm ăn ra sao, lỗ lãi thế nào, chia chác thế nào. Cứ cho cái số liệu tập đoàn mafia đỏ của chúng là hai triệu, thì “đảng phí của chúng có đủ chi cho các bộ máy đảng của chúng thôi không!!!” Tiền đâu ra mà xây trụ sở, dinh thự, viện bảo tàng, tượng đài, lăng tẩm v.v… Ngay cái công cụ của chúng được đội tên là “quốc hội” có được biết đến những chi, thu đó không? Kể từ ngày Hồ đặt ách cai trị ở Bắc Việt Nam (tháng 7-1954) cho đến năm 2001 này!!!
Để cho bộ máy cai trị hữu hiệu, trong mục tiêu hàng đầu của Hồ, là chống sự nổi dậy của nô lệ dưới mỹ tự “bảo đảm an toàn chính trị, trật tự an ninh xã hội”, Hồ ban cho chân tay nhiều quyền hạn mà chắc chắn ngay các triều đại phong kiến lúc suy thoái trong lịch sử Việt Nam cũng không đến nỗi như vậy. Đứa nào nắm quyền quản lý ngành nào là chúa của ngành đó. Toàn dân bị bóc lột tàn khốc. Cấp lớn ăn lớn, cấp nhỏ ăn nhỏ, vì như Hồ tiểu di cho bọn chúng rằng: “nhân dân là vô tận”, điều mà Hồ học được của bố Mác mẹ Lê của hắn là: “Người là vốn quý nhất”.
Chỉ một tên công an đường phố, tuổi độ 20, đeo lon hạ sỹ, cũng đủ quyền hạn cho người dân nô lệ đi tù không thời hạn (tức đi cải tạo), chẳng cần xét xử gì, hệt như mấy tên chánh án nhí con trong tòa án cải cách ruộng đất vậy! Chúng muốn vào nhà “hỏi thăm sức khỏe” bất kể giờ giấc, tha hồ nhòm ngó, hạch hỏi. Lũ chó săn lông vàng này là tai họa bất ngờ của mọi người, nhưng là chỗ dựa tin cậy của ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh, vì đấy là “cơ quan chuyên chính” của chúng.
Xin đưa thêm vài thí dụ cụ thể để bạn đọc thấy cái lũ mà Lữ Phương muốn nhắn nhủ cho bạn đọc, đặc biệt tuổi trẻ, rằng: “Tính chất trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn của những người cộng sản theo con đường của ông (tức Hồ) hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền” là như thế nào.
Xin tạm kể đến những tên to đầu nhất trong đám lâu la của Hồ:
1) Phạm văn Đồng, kẻ đã vâng lệnh Hồ, nhân danh thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, năm 1958 đã ký giấy ủng hộ Trung cộng cướp lãnh hải của ta. Mặc dù có vợ là con một tư sản Hà-nội, rất đẹp, nhưng khi ở Việt-Bắc, Đồng đã cưỡng ép một cháu thiếu nữ miền Nam, trong đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra chào mừng Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vào cuối năm 1946. Vì thế mà vợ Đồng lên cơn điên. Vào những ngày Mỹ ném bom Hà-nội, vụ trưởng vụ nghệ thuật là nhà thơ Lưu trọng Lư, bị du kích Quảng-bá bắt được đang ”theo con đường của Hồ”, nghĩa là đụ bậy một diễn viên nổi tiếng của đoàn tuồng khu 5. Du kích trói cả đôi trong bộ quần áo “nguyên thủy” và bắt đại diện bộ văn hóa đến bảo lãnh mới cho về. Nghe chuyện này Đồng cho gọi Lưu trọng Lư đến nhà riêng hỏi kinh nghiệm. Và, sau đó cô diễn viên trẻ, đẹp, bầu bĩnh như “Duơng quý Phi” thành bồ nhí của Đồng.
2) Lê Duẩn, về công khai đã hai, ba vợ chính thức. Nhưng các nữ thư ký, các cháu ở miền Nam ra tham quan “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” v.v… đều được Lê Duẩn “theo con đường của Hồ” tặng các cháu trái cấm. Sau khi đặt ách đô hộ của thực dân đỏ ở miển Nam Việt Nam, Duẩn chơi ngông không chịu ở vi-la cũ của “Mỹ-Ngụy”, nên lệnh cho nô lệ lục tỉnh đi phu đào đất, lấp sông ở An-phú (Thủ-đức) xây một biệt thự mới toanh. Trời có mắt, nên lầu đài vừa xây xong, Duẩn chưa kịp ở lấy một ngày đã có lệnh Diêm Vương tống hắn xuống hỏa ngục chờ ngày xét xử. Lầu đài đành đóng cửa bỏ đấy, cho đến ngày gọi là “mở cửa, đổi mới” thì hãng dầu lửa BP thuê làm văn phòng.
3) Trường Chinh tên thật là Đặng xuân Khu. Hắn còn được Hồ đặt cho bí danh là Thận, nghĩa là “thận trọng” như lời Hồ giải thích. Mấy thầy bàn vì thiếu thông tin và cũng do máu nâng bi (kiểu Lữ Phương) thì nói là Hồ tin yêu Trường Chinh vì tính Trường Chinh rất “thận trọng” nên mới đặt tên là “Thận”, hay còn gọi là “Năm”. Sự thật là Hồ dằn mặt Trường Chinh về cái thù ở biên giới Cao-bằng như đã kể ở trên, nên đặt cho Trường Chinh là “Thận”, ngụ ý: “Mày thận trọng đến đâu thì cũng phải dưới đít tao. Hoặc giả, mày cần thận trọng, nếu có chút hỗn láo, tao sẽ cho mày đi Hành-thiện ngay như Gia-Long cho ông tổ Đặng trần Thường của mày vậy!”
Sau Hồ thì phải nói đến Trường Chinh là tên hám danh nhất trong thủ hạ của Hồ. Ở nhà ăn cơm, hắn bắt vợ mặc áo dài đứng hầu cơm. Hắn đi đâu cũng tiền hô hậu ủng. Khổ cho những ai đi xem hát hò gì đó ở Nhà hát lớn mà hôm đó Trường Chinh cao hứng đi. Hắn thường đến vào lúc bắt đầu trình diễn. Toàn khu vực nhà hát, cả cổng trước, cổng sau, lầu thượng, tầng hầm, lũ chó săn mặc thường phục hau háu nhe nanh. Kể từ đó là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Tầng dưới mỗi hàng ghế đều có hai chó săn ngồi hai đầu. Các tầng trên chỗ nào cũng có chó săn chiếu tướng khán giả. Trường Chinh thường đi cùng vợ và hai đứa cháu nội (con của Đặng xuân Kỳ). Mặt hắn đầy vẻ tự mãn, coi thiên hạ như rác. Những nô lệ ở Hà-nội thường nói đùa rằng: “Chỉ có Lê Duẩn muốn giết Trường Chinh mà thôi, chứ Mỹ có khi còn bỏ tiền thuê người bảo vệ cho Hồ và lũ bộ hạ của hắn. Vì bom đạn Mỹ, thuốc trụi lá cây, và ngay cả bom hạt nhân cũng chẳng thể nào tàn phá miền Bắc Việt Nam như Hồ và ngụy quyền cộng sản đã làm và đang làm. Bọn Hồ mới “đủ tài” kéo xã hội Bắc Việt Nam khi ấy – cuối thế kỷ 20 – trong vòng vài năm, trở về thời đại trước cả các vua Hùng, tốc độ ngang ánh sáng!!!”
Trường Chinh là kẻ luôn dùng quyền lực bao che thuộc hạ. Xin đưa vài thí dụ: Vũ Quang, xuất thân là đệ tử của Trường Chinh, từng giữ ghế bí thư tỉnh ủy mafia ở Bắc-ninh, được lôi về thay Nguyễn Lam làm bí thư thứ nhất đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh. Thời A-gien-đê cầm quyền ở Chilie (Nam Mỹ), Quang cầm đầu một đoàn thanh niên qua thăm Chilie. Trong đoàn có ca sỹ Diệu Thúy – đã có vị hôn thê – chờ đi “công cán” về sẽ cưới chồng. Ấy thế mà Vũ Quang, khi ghé qua Cuba, đã dám đè Diệu Thúy ở trong khách sạn để “hiếp đại cái đã” rồi tính sau. Ai ngờ an ninh Cuba quay được cảnh đó, chuyển về cho ngụy quyền Hà-nội. Thanh niên Hà-nội bất mãn việc Vũ Quang hiếp vị hôn thê của người khác. Ấy thế mà Trường Chinh ra lệnh các nơi họp để thanh minh cho Vũ Quang, nói đó là phản động vu cáo để bôi nhọ chế độ, hoàn toàn không có chuyện Vũ Quang “hiếp” ca sỹ Diệu Thúy. Không may là cái bụng Diệu Thúy có “định hướng” phát triển không bình thường, nên cũng lại Trường Chinh ra lệnh cho Vũ Quang cưới đại ca sỹ Diệu Thúy đi, mặc dù hai con trai của Vũ Quang – tuổi xấp xỉ Diệu Thúy – hết sức phản đối.
Trường Chinh rất ghét Võ nguyên Giáp vì thấy Giáp cúc cung với Hồ, lại thêm trong vụ “cải cách ruộng đất”, Trường Chinh mắc bẫy của Hồ mà rớt chức tổng bí thư mafia đỏ, Giáp được Hồ chỉ định thay mặt “trung ương” xin lỗi “dân”. Mọi người không hiểu thâm ý của Hồ về việc chỉ định ấy đối với Giáp. Cái thâm ý đó của Hồ là:
1. Giáp đang nổi danh như cồn sau Điện-biên-phủ. Cho Giáp ra để đo mức uy tín của Giáp mà “cảnh giác”, cũng như làm cho loại Nguyễn chí Thanh, Trường Chinh càng thêm đố kỵ với Giáp. Vì thế, Hồ đâu cần ra lệnh, chỉ “vờ quên” tý chút là Nguyễn chí Thanh đã cho bắt hết các đại tá thân cận của Giáp. Mượn tay Thanh đến thế là vừa đủ, Hồ lại đỡ đòn cho Giáp sau khi Giáp bị “cạo nhẵn râu ria”, và Hồ phái Thanh đi làm công tác “nông nghiệp” để Giáp lấy lại hồn vía.
2. Ngoài ra, đây cũng là cái mất dạy của Hồ, nghĩa là công khai trước “dân”, việc đếch gì hắn phải xin lỗi lũ nô lệ ấy!!! Bởi đây là “lỗi của Trường Chinh” và đồng bọn, đời nào Hồ lại “ngu” mà nhận cái “tội ném đá giấu tay” ấy. Nghĩa là Hồ không bao giờ sai!!! Vì thế nhân sự mafia đỏ chóp bu có nhiều hoán chuyển, như Duẩn ngồi trên đầu Trường Chinh; Lê đức Thọ trên đầu Lê văn Lương v.v… Còn Hồ, hắn vẫn ở ngôi vị “number one” mãi mãi đến tận bây giờ!!!
Đấy chính là chất ma giáo của tên Việt gian, lưu manh chính trị Hồ chí Minh vậy!
Lại nói về việc của Giáp. Chẳng là Giáp luôn ngầm ví mình như Napoléon – nghĩa là cũng lùn, cũng bay bướm và cũng nổi danh nhờ chiến công thắng trận Điện-biên (chưa bị bật mí) – chỉ thiếu cái mũ “hai sừng” của Napoléon mà thôi. Thế là giáo sư thạc sỹ sử học Phạm huy Thông, quá trình dạy môn sử cho vợ Võ nguyên Giáp, đã tặng Giáp “một cặp sừng”. Giáp đau lắm nên đẩy Thông ra khỏi cái ghế bộ trưởng bộ đại học và trung học chuyên nghiệp (giáo sư Tạ quang Bửu thay vào đó). Đáng ra Thông còn có thể ê chề hơn nữa, nhưng Trường Chinh xòe cánh bảo vệ cho Phạm huy Thông, cho về ngồi cái ghế viện trưởng Viện khảo cổ. Khoảng sau 1980, tin chính thống nói rằng Phạm huy Thông bị “kẻ cắp” vào nhà ăn trộm tiền, đã đâm Thông nhiều nhát tàn nhẫn, kết liễu đời tên thạc sỹ bồi bút, nâng bi, tên “trí thức không bằng cục cứt”. Nhưng, bí mật hành lang thì nói rằng đàn em Giáp, trong đơn vị đặc công ở miền Nam ra, đã trả thù hộ Giáp, nên mới đâm rất điệu nghệ và rất tàn bạo cái anh già dê Phạm huy Thông đó mà sức nặng cả cứt mới hơn 40 kí-lô; nghĩa là tát ba cái cũng đủ chết, cần gì đâm như tập đâm lê vào người rơm vậy” (Nghe có lý!)
Trường Chinh ghét giáo sư Tạ quang Bửu (chắc vì đã ngồi vào cái ghế đáng ra là của Phạm huy Thông, đàn em của hắn), nên một lần họp quốc hội, hắn để cho Vũ Quang phê bình giáo sư Tạ quang Bửu là vi phạm “tính giai cấp” và đã cách chức bộ trưởng của giáo sư Tạ quang Bửu. Còn Vũ Quang, sau vụ cướp vợ, được lôi về làm chánh văn phòng của trung ương mafia đỏ, thay chân của Trần xuân Bách, rồi vào ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, phụ trách trưởng ban đối ngoại, thay Nguyễn thành Lê. Cô ca sỹ vừa tốt nghiệp đại học thanh nhạc là Diệu Thúy, ngây thơ, dễ thương bao nhiêu thì khi thành vợ Vũ Quang, nhiễm lối sống mafia, thôi hát và trở thành một tay buôn hạt xoàn và US đô-la, sau ngày 30-4-1975! Đúng là các cụ đã nói: “Gần mực thì đen”. Tài thật!
Hà thị Quế, một đệ tử thân cận, đã từng là giao liên của Trường Chinh nên được cho làm ủy viên trung ương chính thức mafia đỏ, giữ ghế phó ban tổ chức trung ương, kiêm phó ban kiểm tra trung ương phụ trách thường trực (thời kỳ Nguyễn lương Bằng làm trưởng ban). Mụ này trông như con mẹ phù thủy nhưng lại ham đàn ông cao to, đẹp trai và thời kỳ mụ chỉ đạo ở tỉnh ủy mafia đỏ Thái-bình, mụ đã bẫy được anh chàng trung đoàn trưởng của đại đoàn Đồng Bằng, là Nguyễn trọng Tỉnh, cao to và đẹp trai. Chỉ có nhược điểm là phát triển “nhầm đầu”, óc bã đậu rất sợ học chữ. Sau 1954, có sự ủng hộ của Trường Chinh, Hà thị Quế lôi anh chồng đẹp trai thất học về cho làm Tổng cục trưởng Tổng cục thủy sản. Học theo con đường của họ Hồ, anh chàng Nguyễn trọng Tỉnh này chơi hầu hết nữ cán bộ, công nhân viên trong tổng cục. Các cô bị dính bầu tùm lum. Thời kỳ đó nạo thai còn là điều cấm kỵ. Nhưng có ô dù là “anh Thận”, lại bản thân cũng có quyền lớn nên Hà thị Quế bắt các cô bé nhẹ dạ phải đi nạo thai. Ai biết ngậm miệng thì cho đi nước ngoài. Ai vạ miệng thì bị đuổi việc, có khi còn phải đi cải tạo vì tội “nói xấu lãnh đạo”! Chẳng biết học từ ai mà Hà thị Quế đem những thai nhi bị nạo đó ngâm trong mật ong làm thuốc “trường sinh bất lão”, nghe nói là còn công dụng “cường dương” và “chữa hen suyễn” và nhiều chứng bệnh khác. Và, từ đó được “ban bảo vệ sức khỏe” của trung ương mafia đỏ, do thượng tướng ngụy quân, kiêm bí thư khu ủy mafia đỏ khu tự trị Việt-Bắc, kiêm phó chủ tịch quốc hội là Chu văn Tấn phụ trách, cho vào danh sách “thuốc bổ đặc biệt”. Ở Bắc Việt Nam khi ấy, Chu văn Tấn giữ độc quyền săn cọp nấu cao, bắt gấu lấy mật cung cấp cho Hồ và chân tay kế cận, nay thêm độc quyền “mật ong Hà-giang” (vì ong ở đây toàn hút hoa cây thuốc phiện) để ngâm thai nhi. Chính là “ma dược” này khiến đã Hồ và đồng bọn xanh xao, nhếch nhác từ rừng rú, về đến Hà-nội một vài năm mà thằng nào thằng nay béo múp đầu múp đuôi, da mặt đỏ au như nhuộm phẩm vậy. Chính vì thế, Hồ đã cho phép tách bộ y tế thành hai, một vẫn mang tên bộ y tế do bác sỹ Nguyễn văn Hưởng làm bộ trưởng (sau khi Phạm ngọc Thạch bị chết); nửa còn lại nâng lên thành ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em do đích thân Phạm văn Đồng, thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban và mụ Đinh thị Cẩn (vừa là bồ cũ vừa là đầu bếp cũ của Hồ), dự khuyết trung ương mafia đỏ, thứ trưởng thứ nhất kiêm bí thư đảng đoàn mafia đỏ bộ y tế, giữ chức phó chủ nhiệm, thường trực của ủy ban. Khổ quá! Nó có bảo vệ bà mẹ và trẻ em cái gì đâu. Nó chỉ làm có hai nhiệm vụ: một là: nạo thai công khai và khuyến khích toàn dân ăn thai nhi và nhau đẻ (nâng thành quốc sách để giải quyết nạn khan hiếm thực phẩm); và hai là: thành cơ quan tiếp nhận đồ viện trợ của UNICEF của Liên-hiệp-quốc để chia nhau và chuyển cho ngụy quân đi xâm lược miền Nam Việt Nam, Lào và Cam-bốt.

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

VIỆT THƯỜNG

BÀI 6

Nhờ hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ và bầu đoàn nhếch nhác kéo nhau vào Hà-nội. Hồ chiếm cho mình cái phủ toàn quyền Đông-dương (sau đổi thành biệt điện của quốc trưởng Bảo Đại) và đặt tên lại là “phủ chủ tịch”. Mỗi đầu lãnh mafia chọn cho mình một tòa vi-la thật khang trang, hệt như sau tháng 4/1975, bọn chúng xâm lược trọn vẹn miền Nam và vào Sài-gòn vậy. Cũng ăn cướp đủ thứ từ nhà cửa, xe cộ và cả người, nghĩa là công khai lấy vợ nhỏ, cặp bồ bịch v.v…
Trong những năm tháng nhố nhăng kiểu “nước lụt chó nhẩy bàn độc” như thế, Xuân Thủy đã chiếm một tòa vi-la to đẹp  ở đường Lý Thường Kiệt (Hà-nội), liền với trường Nguyễn Trãi (trước 1945 là trường nữ học nổi tiếng, mang tên Đồng Khánh). Bà vợ già của Thủy, lấy nhau từ lúc chàng thì “thái dao cầu, vê thuốc tễ”, còn nàng thì “thuyền tán” lanh canh những lúc lừa được vài con bệnh. Hai vợ chồng Thủy là hai thái cực. Bà vợ chất phác, quê mùa, nhẫn nhục, vẫn áo nâu sồng, quần trúc bâu đen, yếm vải, răng đen, ăn trầu thuốc dù lúc ấy Thủy đã được Hồ cho cái tước “bá” tức ủy viên ban bí thư đỏ, nghĩa là “bá tước” Xuân Thủy! Còn Thủy thì nhanh chóng bỏ áo the, khăn đóng, không bộ “đại cán ba Tàu cộng” bằng dạ tím than thì cũng bộ “com-lê” Tây hợp thời trang, sơ-mi trắng cổ cồn, cà-vạt đỏ, kính đổi màu khi thì gọng vàng, khi thì gọng đồi mồi. Thủy khôn ngoan hơn, không “đá đít vợ già” đi như kiểu Trần xuân Bách, Nguyễn đức Lạc, Cù huy Cận v.v…, mà chỉ “biếm” bà vợ già, quê mùa đó vào “lãnh cung” kiểu Lê Duẩn, Trần huy Liệu (tức dãy nhà ngang, thời thực dân, chủ Tây dành cho bồi hay “con sen”). Còn Thủy ở nhà chính, ngày ngày tiếp các cháu gái tươi mát trên nhà khách kín đáo, có bảo vệ canh gác, đến ruồi, muỗi cũng không vào lọt. Cuộc “cách mạng vô sản” của Hồ đã đổi lốt cho Thủy đến mức chỉ vài năm sau, một bà lão cùng quê Đa-phúc với Thủy, có dịp ra Hà-nội lại thăm bà vợ già của Thủy, thấy Thủy từ xe hơi Volga màu đen, có cần vụ (tức đầy tớ) mở cửa xe cho ra, đã phải thốt lên: “Úi trời! Thầy lang giờ béo, đẹp và sang trọng còn hơn công sứ Pháp ở Vĩnh-yên xưa kia nhiều lắm! Thực là ơn “cụ” (tức Hồ) và ơn “cách mạng””. Thủy mặt tỉnh khô, hơi gật đầu rồi bệ vệ lên nhà trên, theo sau là thư ký và cần vụ đang cắn chặt răng không dám cười (hai nhân chứng sống).
Bà vợ già của Xuân Thủy hay đến tòa soạn báo Cứu-quốc (đầu phố Bà Triệu, Hà-nội) kể nhiều chuyện với anh em phóng viên, rất thân mật, cởi mở. Còn Xuân Thủy chỉ lo tiếp các “cháu” ở phòng khách nhà riêng. Trong số quan hệ bất chính với Xuân Thủy, có hai nhân vật được Xuân Thủy lôi vọt lên như diều. Một là Nguyễn thị Bình, giữ chức vụ phó vụ lễ tân thuộc bộ ngoại giao của mafia cộng sản ở miền Bắc khi ấy. Vì Xuân Thủy được Hồ giao nhiệm vụ qua hội nghị Paris về Việt Nam, nhưng lúc đó người cầm đầu đoàn của cái gọi là “chính phủ cộng hòa miền Nam Việt Nam” là Trần bửu Kiếm, một đực rựa. Trong khi Xuân Thủy không thể thiếu “phụ nữ” để “mật đàm” được, nên Thủy đề nghị Hồ cho Nguyễn thị Bình sang thay chỗ Trần bửu Kiếm. Lý do có vẻ đứng đắn là “Bình” có nghĩa là “hòa bình”, nhất là Nguyễn thị Bình lại mặc chiếc áo dài màu xanh “hòa bình” (tức xanh da trời) thì rất thuận tiện cho việc đề cao quan điểm yêu hòa bình của “chính phủ cộng hòa miền Nam Việt Nam”!(?) Tất nhiên trò vặt đó của Thủy làm sao qua được mặt Hồ, nhưng cả hai đều hiểu ngầm, nên Hồ cho Thị Bình đi theo Xuân Thủy qua Paris, cũng là phòng xa lỡ anh chàng Trư-bát-giới Xuân Thủy này thiếu đàn bà lại ngã vào mỹ nhân kế của Kissinger hoặc “phản động” nào đó thì thật là “xôi hỏng, bỏng không”. Báo chí Pháp thời đó cũng đoán ra qua vẻ hơn hớn của Thủy và cái e lệ kiểu bà phó Đoan của Bình (bà phó Đoan là nhân vật của nhà văn Vũ trọng Phụng trong tác phẩm Số Đỏ) thường đưa nhau đi tắm hơi. Còn báo Nhân dân của mafia cộng sản ở Hà-nội thì đăng thơ “ỡm ờ” của Thủy o bế Thị Bình công khai. Ở đây xin mở một dấu ngoặc là những chính khách “quốc tế” khi cần giả điếc, giả mù cũng giống như thật. Làm sao mà họ chẳng biết Thị Bình từ bộ ngoại giao mafia cộng sản Hà-nội cưỡi máy bay sang Paris ngồi vào chỗ của Trần bửu Kiếm, vậy mà cũng coi cái hình nộm “chính phủ Mặt trận giải phóng” đó mà Lữ Phương từng tự hào như một thực thể độc lập”(?)
Người thứ hai là Nguyễn thị Hằng, hiện nay (2001) đang là ủy viên trung ương của mafia cộng sản và giữ ghế bộ trưởng lao động và xã hội. Hồi máy bay Mỹ đánh cầu Hàm Rồng ở Thanh-hóa, Thị Hằng đang là xã viên hợp tác xã dệt chiếu cói ở thị xã Thanh-hóa, nên tất nhiên cũng trong biên chế dân quân tự vệ của thị xã. Một cô dân quân khác là Nguyễn thị Tuyển, béo và lùn, chẳng biết hư thực ra sao, được đơn vị pháo binh ngụy quân ở cầu Hàm Rồng tuyên dương vì đã giúp đơn vị lính cao xạ đó khiêng đạn, mà một mình vác được những thùng đạn nặng hàng tạ. Có mấy phóng viên báo từ Hà-nội, vào tìm hiểu thành tích của “dân quân” thị xã Thanh-hóa trong trận cầu Hàm Rồng đó, có đề nghị Nguyễn thị Tuyển làm thử lại, nhưng Tuyển vác không thể quá 50 kí-lô. Tuy nhiên, Tuyển vẫn được báo chí ca ngợi dựa vào xác minh của ngụy quân đóng ở cầu Hàm Rồng, và tuyển được tuyên dương công trạng là “anh hùng”. Lần đó, Thị Hằng “may mắn” bị mảnh đạn làm bị thương nhẹ. Nhưng vì Thị Hằng lai Pháp, cao đẹp như người mẫu vậy, nên Hằng được phóng viên ảnh của báo Tiền Phong (báo của giới trẻ) là Mai Nam chụp ảnh và cũng tuyên dương vì có “thành tích chiến đấu và bị thương ở vùng thuộc loại hấp dẫn trên cơ thể phụ nữ” (tất nhiên Hằng cho phóng viên xem vết thương của mình làm bằng chứng). Xuân Thủy ngó thấy hình của Thị Hằng, bỗng tiếng “sét ái tình” làm con lợn lòng của Thủy kêu lên eng éc. Và, Thủy, nhân danh bí thư trung ương mafia cộng sản kiêm phó chủ tịch đồng thời là tổng thư ký ủy ban thường vụ quốc hội của mafia cộng sản, gọi điện thoại cho ban thi đua trung ương, cứ duyệt đại cho Thị Hằng là “chiến sỹ thi đua toàn quốc”, vì theo Thủy, như thế sẽ thuyết phục chị em thi đua chết cho sự nghiệp của “bác” (tức Hồ) và của “đảng” (tức tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản). Thế là cô bé lai Tây, Nguyễn thị Hằng, được Xuân Thủy lôi ra khỏi ẩn số. Chẳng cần qua bầu bán (dù chiếu lệ), Thị Hằng được “bổ sung” vào ban chấp hành trung ương của đoàn thanh niên mafia. Rồi còn được đưa vào quốc hội cũng chẳng cần bầu bán làm đại biểu và còn là thành viên của ban đối ngoại của quốc hội mafia. Thị Hằng thường xuyên đến để “đền ơn đáp nghĩa” Xuân Thủy và cũng là để được Xuân Thủy “huấn luyện” thành “con người mới xã hội chủ nghĩa”! Trong vụ Thị Hằng, Xuân Thủy đã biết kết hợp chặt chẽ giữa “công và tư”, giữa “chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân”, giữa quyền lợi của “bác” và “đảng” và của riêng Xuân Thủy thật là tài tình. Chính nhờ cái “tài” này mà khi hội nghị Paris về Việt Nam, Hồ đã đích thân chỉ định Xuân Thủy làm trưởng phái đoàn hòa đàm của mafia cộng sản phía Bắc Việt Nam. Đương nhiên hắn cũng là “boss” thực thụ của con rối “mặt trận giải phóng”, vì ngoài Thị Bình ra, Thủy từng là tổng biên tập của báo Cứu quốc, đã lôi Nguyễn thành Lê, một đàn em của hắn từ lò báo Cứu quốc, trước khi về báo Nhân dân, làm người phát ngôn cho hắn; và lôi Hoàng phong cũng từ báo Cứu quốc, có biệt danh là típ-phờ-nờ (nhân vật trong Số Đỏ của Vũ trọng Phụng, viết tắt của “tôi yêu phụ nữ”) làm “thư ký” cho Thị Bình để tiện canh chừng bậy bạ. Nghĩa là Hoàng Phong từ tòa soạn báo Cứu quốc ở đầu phố Bà Triệu, Hà-nội, cưỡi máy bay qua Paris và úm-ba-la biến thành người của cái gọi là “mặt trận giải phóng”, là tổ chức của “nhân dân miền Nam Việt Nam tự vùng lên chống Mỹ-Ngụy”!!! Thế mà chú Sam có cơ quan tình báo thuộc loại “số rách” trên thế giới, cố tình giả vờ “mù”.
Thấy Thị Hằng cao, đẹp, sung sức gái quê lao động, Thủy giới thiệu cho Thị Hằng tham gia vào đoàn đi xin Nga-xô súng đạn về giết nhân dân miền Nam Việt Nam và “phản động” ở Bắc Việt Nam. Và quả là Thủy có đôi mắt và cái đầu của Mã giám Sinh (nhân vật trong Kiều của cụ Nguyễn Du) và cũng đi bài bản “nước vỏ lựu, máu mào gà” khiến Thị Hằng làm cho một phó đô đốc Nga-xô mê như điếu đổ. Cuộc xin Nga-xô súng đạn thành công quá sức tưởng tượng. Từ đó, mỗi lần đi xin Nga-xô súng đạn, Thị Hằng được đi trước và về sau cả đoàn. Để làm gì xin bạn đọc tự hiểu. Có điều nhờ anh chàng phó đô đốc Nga-xô đó vì quá mê Thị Hằng nên anh ta còn gợi ý và đưa đoàn hải quân dưới trướng anh ta sang cảng Hải-phòng để đá bóng hữu nghị. Hồ và bè lũ sung sướng vì đó là “cú dằn mặt Mỹ” vào lúc Mỹ đánh bom Hải-phòng và phong tỏa hải phận phía Bắc Việt Nam.
Thời kỳ ở Paris, Xuân Thủy làm quen được với gia đình một Việt kiều ở Pháp, có con gái là Thu Thủy, một học sinh xuất sắc, Thủy xin nhận cô đó làm “cháu nuôi” và mời về Hà-nội thăm quê hương. Báo chí cộng sản tuyên truyền rùm beng cứ như cô học sinh đó giỏi là nhờ được “tư tưởng của “bác” soi dọi”(?) và Thủy lại định múa võ Trư-bát-giới bằng bài thơ có những câu ướt át còn hơn thơ Xuân Diệu hồi “tiền chiến”, đăng ngay trên báo Nhân dân:
“Bác là Xuân Thủy xanh tươi, (!!!)
Cháu là Thu thủy sáng ngời nước non”(!!!)

Cũng may cô học sinh đó không rơi vào bẫy của Mã giám Sinh mafia cộng sản là me-xừ Xuân Thủy!
Hoàng quốc Việt (tên thật là Hạ bá Cang), quê ở phủ Từ-sơn Bắc-ninh, có học qua trường công nhân bách nghệ ở Hà-nội. Trước 1945, Việt là thường vụ trung ương mafia cộng sản Việt Nam. Theo hồi ký của Việt, thì để có thể liên lạc được với giai cấp công nhân ở chính quốc (tức Pháp), Việt phải vào Sài-gòn, lợi dụng thực dân Pháp đặt miền Nam Việt Nam là xứ thuộc địa, nên Việt dùng thẻ thuế thân lậu (tức giả) xuống tàu thủy “tự do” đi qua Pháp. Xin bạn đọc lưu ý, là chính Việt tự viết ra điều đó khiến người đọc nhận xét được rằng thời thuộc địa, người Việt Nam còn được tự do đi lại, tự do xuất dương, trong khi tụi mafia cộng sản cai trị thì đó chỉ là bánh vẽ trong hiến pháp của chúng mà thôi, người dân từ tỉnh này qua tỉnh kia cũng phải xin giấy “thông hành” để đi và còn phải trình giấy “thông hành” chậm nhất là 11 giờ đêm cho công an hộ khẩu nơi đến ngay trong ngày đến, với dấu chứng nhận đến và đi để về nộp lại cho công an địa phương. Đó là tự do của Hồ và bè lũ mafia của hắn áp đặt cho người dân Bắc Việt Nam!
Năm 1951, tụi mafia cộng sản họp đại hội 2 và Hoàng quốc Việt chiếm được cái ghế ủy viên dự khuyết bộ chính trị, phụ trách ban dân vận kiêm chủ tịch công đoàn. Sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Việt cho chiếm toàn bộ tòa nhà đồ sộ của công ty hỏa xa Vân-nam cũ của thực dân Pháp, trên đường Trần Hưng Đạo, Hà-nội, làm trụ sở của tổng công đoàn. Tuy người nhỏ thó, chân hơi cà nhắc, lại thêm từ giọng nói, điệu bộ cho đến mặt mũi nữa, râu ria, hoàn toàn là điển hình của khuôn mẫu “lý dịch cường hào ở nông thôn miền Bắc Việt Nam”, nhưng Việt lại là một trong những trùm, mafia ưa làm dỏm kiểu Xuân Thủy. Và, dù Việt có bà vợ là em gái của Tô Hiệu, thuộc loại “hoạn thư” của cụ Nguyễn Du, ấy thế mà hắn cũng o bế được một cô bồ nhí, có nguồn gốc khá giả của người Hà-nội và hắn “nhờ” Mã giám Sinh Xuân Thủy bố trí cho cô ta làm việc ở toà soạn báo Cứu quốc. Cả tòa soạn báo Cứu quốc, từ Nguyễn Tiêu là quyền tổng biên tập, đến An Châu là bí thư đảng ủy và mụ cháu của Trường Chinh, có chồng là Nguyễn ngọc Kha, chánh văn phòng mặt trận tổ quốc, là Đặng thị Trâm, giữ chức thư ký công đoàn đều giả mù, giả điếc. Đúng là “mèo mù vớ cá rán”. Cô bồ của Việt là dân Hà-nội thứ thiệt, vừa đẹp, vừa hiền dịu, vừa khéo, vừa giỏi nhưng đã bị cái cơ chế mafia của họ Hồ “đánh vảy, moi ruột và rán vàng như cá rán” nên chẳng thể nào trách được vì sao lại để con mèo mù như Hoàng quốc Việt vầy vò! Bởi Việt không chỉ trùm loại mafia bự mà còn giữ các ghế: chủ tịch tổng công đoàn, ủy viên đoàn chủ tịch mặt trận tổ quốc, viện trưởng viện kiểm sát tối cao, ủy viên hội đồng quốc phòng nhà nước; bí thư đảng đoàn luôn cả viện kiểm sát tối cao, tòa án tối cao và hội luật gia! Đến như luật sư Phạm thành Vinh, một luật sư có tài, là con rể của thạc sỹ luật Hồ đắc Điềm (cựu tổng đốc Hà-đông), cháu rể giáo sư thạc sỹ, giám đốc trường đại học y khoa Hồ đắc Dzi, chỉ vì dám “phê bình nhè nhẹ” vợ Việt trong sinh hoạt ở hội luật gia mà Việt ém cho mở mắt không nổi, sống trong cảnh như “xác ướp” vậy.
Chính Hữu Thọ, từng là ủy viên trung ương mafia, phụ trách trưởng ban tư tưởng trước Nguyễn khoa Điềm, có kể rằng: Hồi diễn ra cái gọi là đại hội 2 mafia ở Việt-Bắc (1951), Hữu Thọ được giao vẽ ký họa về đại hội. Khi Hữu Thọ vẽ Hoàng quốc Việt, hai lần hắn đòi xem tranh phác thảo và giận dữ chê “không giống”. Hữu Thọ sợ quá, chưa biết làm sao thì Hoàng Tùng (tổng biên tập báo Nhân dân, “boss” của Hữu Thọ) ghé tai nói: “Cứ vẽ thật đẹp, không cần giống hắn là xong ngay”. Và, quả đúng như vậy! Ngộ thật!!!
Giữ những chức vụ quan trọng của cả lập pháp, hành pháp và tư pháp (vì Việt còn là đại biểu và trong ban thường vụ quốc hội) thế mà Việt đích thân đi ô-tô vào nhà giam Hỏa-lò (Hà-nội) để đánh tháo cho hai tên sát nhân, là con trai Đinh thị Cẩn vì y thị là bồ của Hồ chí Minh và nghe nói là hai đứa đó cũng là con của Hồ. Cũng như Việt nhận một bồ khác của họ Hồ là Trương thị Mỹ, nguyên hầu phòng của Hồ về làm phó chủ tịch tổng công đoàn. Một con người đủ thứ bê bối như Việt vậy mà bồi bút Nguyễn đình Thi ra công tô son, trất phấn thành nhân vật “Tự” trong tác phẩm Vỡ Bờ, cứ y như là “nhà cách mạng tài, đức song toàn”. Đúng là “có tham quan thì phải có tiểu nhân”; có bạo chúa thì phải có gian thần”, vì chúng cộng sinh!!!
Đấy là chỉ kể sơ qua mà thôi. Một số những đứa khác tôi đã có điểm mặt bọn chúng trong cuốn “Truyện thâm cung dưới triều đại Hồ chí Minh”. Nay xin lưu ý về vài đứa khác đã đi theo đúng con đường của Hồ để xem “về mặt đạo đức cá nhân”, có quan trọng không, vì chúng giữ những chức vụ lớn, hay “chẳng có gì quan trọng lắm” như Lữ Phương nhận xét ngay cả đối với họ Hồ.
* “Nguyễn Khang, kẻ được coi là “công đầu” trong cái gọi là “cách mạng tháng tám” ở Hà-nội, là một trong 37 ủy viên trung ương mafia chính thức, được bầu trong đại hội 2 của mafia đỏ, giữ ghế bộ trưởng phủ thủ tướng khi Hồ còn đích thân kiêm nhiệm cái ghế thủ tướng ngụy quyền cộng sản, đã hiếp con gái của bạn (một đại tá ngụy quân cộng sản). Đứa bé chưa đầy 17 tuổi đầu.
* Hoàng Tùng, từng là ủy viên ban bí thư trung ương mafia đỏ, thời kỳ làm phó ban tuyên huấn trung ương (phó của Tố Hữu) kiêm tổng biên tập báo Nhân dân của Mafia đỏ, lợi dụng phó tổng biên tập là Thép Mới (tức Hà văn Lộc) theo quân mafia đỏ xâm lược miền Nam, để vợ trẻ ở lại Hà-nội, Tùng đã làm cái việc như Hồ với hôn thê Lê hồng Phong. Quay ra Hà-nội, Thép Mới biết chuyện nên ly hôn. Vợ Thép Mới (C.K.P) khóc lóc, đã làm đơn tố giác với Trường Chinh nhưng hắn lờ đi. Đến đại hội mafia đỏ lần 4, vợ Thép Mới lại tố giác Hoàng Tùng với Lê Duẩn, Lê đức Thọ và Trần quốc Hoàn. Bọn này cũng lờ luôn. Không những thế, chúng còn cho Hoàng Tùng trúng cử và từ cái ghế ủy viên dự khuyết trung ương (khóa 3) nhảy lên thành ủy viên ban bí thư mafia đỏ. Trong vụ này, điều ghê tởm nhất là Hồng Hà (em ruột Thép Mới) đang giữ chức trưởng ban công nghiệp của báo Nhân dân đã toa rập với Hoàng Tùng, giúp Hoàng Tùng “hiếp” chị dâu mình và tống anh ruột vào chiến trường miền Nam, nên được Hoàng Tùng giới thiệu giữ chức tổng biên tập báo Nhân dân và được trúng ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ. Về sau Hồng Hà còn leo tới ghế ủy viên ban bí thư trung ương mafia đỏ, phụ trách trưởng ban đối ngoại. (Hồng Hà là tên bồi bút viết cuốn “Một mùa xuân đại thắng” hộ Văn tiến Dũng và cũng là tên qua Pháp “tìm tài liệu” làm bộ phim về con dê cụ Hồ chí Minh).
* Ung văn Khiêm, từng là ủy viên trung ương mafia đỏ (từ khóa 2) và giữ ghế bộ trưởng ngoại giao. Kẻ đầu tiên thừa lệnh Hồ viết thư ủng hộ “anh hai Trung cộng” chiếm Hoàng-sa và Trường-sa, trong khi chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối việc xâm lược của Trung cộng. Khi còn đắc thời, Khiêm thường đến nhà bà quả phụ của một cố bộ trưởng trong Chính phủ Liên hiệp để tập bài bản họ Hồ. Xe hơi và bảo vệ ào ào như công khai ở cái phố Trần Quốc Toản (Hà-nội) đến mức dân khắp khu vực, ai ai cũng biết Khiêm đi tìm của lạ. Vì thế “con sư tử” của Khiêm đến đánh ghen, túm Khiêm xé áo quần làm mất trật tự đường phố. Tổ trưởng dân phố là “nhà văn” Tô Hoài vội chạy ra. Khi thấy Ung văn Khiêm chắc Tô Hoài nhớ lời các cụ ta đã dạy “ăn tìm đến, đánh tìm đi” nên nhanh hơn “dế mèn”, Tô Hoài lủi mất, để việc xử lý cho tổ phó và công an đường phố. Sau vụ án ầm ĩ đó, Tố Hữu “làm mai” cho Hoài Thanh cưới đại bà quả phụ còn rất mặn mà, mặc dù Hoài Thanh đã móm không còn lấy một cái răng dù là răng sâu!
Sau vụ đó, Ung văn Khiêm bị chuyển qua làm bộ trưởng bộ nội vụ.
* Cũng ở cái phố Trần Quốc Toản này lại xảy ra một vụ nữa. Đó là việc Lê Liêm, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ (xin lưu ý rằng cả Lê Liêm, Bùi công Trừng và Nguyễn khánh Toàn chưa bao giờ là ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ) bị can tội “xét lại”, được Hồ phân công cho Nguyễn Côn, bí thư trung ương mafia đỏ, phó thủ tướng ngụy quyền Hồ chí Minh phụ trách chủ nhiệm ủy ban kế hoạch nhà nước, làm nhiệm vụ giúp Lê Liêm “phản tỉnh”. Chẳng hiểu hai bên làm ăn ra sao mà cứ mỗi lần Nguyễn Côn “khuyên” vợ con đi nghỉ ở Tam Đảo hay Đồ Sơn thì vợ của Lê Liêm là Lê thu Trà (phó chủ nhiệm thường trực ủy ban bảo vệ nhi đồng mà Cù huy Cận cũng là một phó chủ nhiệm) lại đến nhà riêng của Nguyễn Côn (phố Tần Quốc Toản) chơi cả buổi. Chẳng biết ai “méc”, một lần đang nửa đêm, vợ và các con Nguyễn Côn lẻn về dùng chìa khóa riêng mở vào tận phòng và bắt quả tang hai bên không thèm mặc quần áo. Vợ con Nguyễn Côn giữ nguyên tình trạng và cho đi gọi công an đường phố và tổ trưởng dân phố, vẫn là nhà văn “Tô Hoài”. Chuyện ầm ỉ lúc nửa đêm nên dân đến xem khá đông. Tô Hoài gọi cả tổ phó đi cùng rồi mượn cớ ra giải tán đám đông lặn một hơi, mấy ngày sau mới về. Cái này “dế mèn” xin chào thua!
* Nguyễn trọng Vĩnh, thiếu tướng ngụy quân cộng sản, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ, ủy viên quân ủy mafia, từng được Hồ cho giữ chức cục trưởng cục tổ chức, bộ quốc phòng ngụy quyền Hồ chí Minh; sau sang Lào làm tư lệnh ngụy quân cộng sản chí nguyện kiêm cố vấn tối cao cho Cai-xoong Phông-vi-hãn, tổng bí thư Lào cộng. Chỉ huy và cố vấn gì thì không biết, nhưng Vĩnh và Cai-xoong chiếm hai tòa vi-la liền nhau ở hẻm Nguyễn Gia Thiều (Hà-nội) và tối tối kéo nhau ra nhà bạt của đoàn xiếc trung ương xem biểu diễn. Trong đoàn xiếc, có một diễn viên nữ, gốc Thanh-hóa, lai Pháp, rất đẹp, tên là Mai Sinh, đệ tử ruột của Quang Phòng (tướng an ninh cộng sản) là trung tá Vũ Quân, dù đã có vợ, nhưng vẫn theo đuổi Mai Sinh như bị hớp hồn mà phải bấm bụng nhường cho tướng Nguyễn trọng Vĩnh. Vĩnh khôn ngoan, nhận cô bé Mai Sinh là “con nuôi”, chiều thứ bẩy nào cũng đón về nhà ăn cơm cùng hai vợ chồng hắn. Thế rồi, Vĩnh đã hiếp cô diễn viên mới 17 tuổi đó bị dính bầu. Hắn cho đưa cô ta vào doanh trại ngụy quân ở Đường Thành (Hà-nội) cho đến khi đẻ, hai mẹ con mới về lại đoàn xiếc. Đi không thèm xin phép, về không thèm báo cáo, vậy mà cả đoàn xiếc lẫn cái bộ văn hóa với những Hoàng minh Giám (bộ trưởng), Lê Liêm (khi đó là thứ trưởng, bí thư đảng đoàn mafia) cho đến Cù huy Cận (thứ trưởng) v.v… đều im re, vẫn phải bố trí tiết mục cho cô bé đó, và chẳng ai dám hỏi bố đứa bé là thằng nào! Nhờ thành tích đi đúng bài bản của họ Hồ, Vĩnh được nâng lên thành “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” của ngụy quyền Hà-nội tại Bắc-kinh và Trần văn Quang (tên tướng ngụy dính vào vụ tù binh Mỹ) thay chỗ Vĩnh ở bên Lào.
Thực chất tụi chóp bu của cái gọi là “đảng cộng sản Việt Nam” do Hồ đứng đầu là một tập đoàn Việt gian núp dưới lớp áo đảng phái chính trị. Chúng thực thụ là tổ chức mafia, nhưng đã cướp được bộ máy cai trị, cho nên các đầu lĩnh của chúng từ Hồ trở xuống, trong mọi ngành, mọi địa phương đều là những tên mafia đỏ chuyên nghiệp. Cho đến nay là những tên Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Lê khả Phiêu, Phạm thế Duyệt, Nông đức Mạnh, Nguyễn khoa Điềm, Cù thị Hậu, Nguyễn thị Hằng, Võ thị Thắng v.v… chỉ khác nhau về tên, tuổi, khuôn mặt, giọng nói mà thôi, còn từ cái lò mafia đỏ ra, chúng về cơ bản cũng vẫn là một. Hệt như đàn chó, con đen, con đốm, con vàng, con lông xù, con cộc đuôi, nhưng tựu trung “đều là chó”. Cho nên dù Lữ Phương có tặng chúng món hàng cực kỳ xa xỉ là “tính chất trong sạch lý tưởng” và “biết hy sinh vì nghĩa lớn” cũng không che được cái chất chó má của bọn chúng.
Lại xin nói tiếp về tội ác của Hồ.
Sau khi làm xong cái việc: “Trí, phú, địa, hào – Đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghĩa là “bần cùng hóa” hay đúng hơn là “nô lệ hóa” toàn dân Việt Nam ở phía Bắc, thì tháng 12/1957, tại hội nghị trung ương mafia đỏ lần 13 (khóa 2), Hồ chủ trì cho ra nghị quyết có nội dung chủ yếu là:
1- Nắm vững chuyên chính, nghĩa là siết chặt xiềng nô lệ, thẳng tay đàn áp những gì không có lợi cho thực dân đỏ;
2- Miền Bắc Việt Nam phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là tập trung toàn bộ tài nguyên và con người ở phía Bắc Việt Nam vào trong tay tập đoàn mafia đỏ, do Hồ cầm đầu, biến thành một bộ phận của chủ nghĩa thực dân đỏ trên thực tế; chuẩn bị thực hiện chiến lược bành trướng của thực dân đỏ.
Vì thế, vấn đề đào tạo nhân sự cho bộ máy thống trị trên mọi bình diện là rất quan trọng. Nhân sự mẫu quốc đỏ núp dưới cái tên “chuyên gia”, điều hành việc khai thác thuộc địa kiểu mới này thông qua hệ thống nhân viên bản xứ.
Các trường đại được học mở ra với mục đích nói trên nên phương pháp tuyển chọn, cũng như đào tạo hoàn toàn khác hẳn ở mẫu quốc: Chất lượng kiến thức là phụ mà lòng trung thành mù quáng mới là chính yếu.
Cho nên, cái mà Hồ nêu lên phương châm đào tạo tầng lớp gọi là “trí thức xã hội chủ nghĩa” là phải làm họ hèn mạt, khuất phục, nhẫn nhục. Nói cho đúng nghĩa thì “trí thức xã hội chủ nghĩa là những cục cứt” hay còn gọi là trí nô.
Việc đào tạo “trí thức” của ngụy quyền Hồ chí Minh hệt như việc huấn luyện thú ở các đoàn xiếc: nghĩa là khủng bố cái bao tử (bỏ đói).
Xã hội miền Bắc Việt Nam sau khi bị Hồ bần cùng hóa triệt để thì miếng ăn hằng ngày, tất cả đều phải ngửa tay trông chờ sự bố thí của ngụy quyền Hồ chí Minh. Xã hội bị phâ chia thành 13 đảng cấp, căn cứ vào đó mà cấp phát khẩu phần lương thực hằng tháng, thực phẩm, chất đốt và các nhu yếu phẩm khác.
Hoạt động sản xuất của xã hội trở thành cái gọi là “lao động (chân tay) để cải tạo bản thân, cải tạo nhân sinh quan”. Đó là thước đo sự cầu tiến của mỗi người từ trẻ đến già, không phân biệt nông thôn hay thành thị, giới tính, sức khỏe, khả năng kỹ thuật chuyên môn, tín ngưỡng v.v… Tất cả đều phải “lao động càng vất vả, kỹ thuật càng thô sơ càng tốt”.
Về lương thực, mỗi đầu dân từ 18 tuổi được phân 13kg500 (kể cả chất độn). Ấy thế mà ngụy quyền Hồ chí Minh còn cắt khẩu phần đó bằng cách đẻ ra trò hề: ủng hộ “anh Trổi; chị Quyên”, ủng hộ “đồng bào miền Nam”; tiết kiệm cho quỹ “chống Mỹ cứu nước”! Thế là mỗi đầu dân thành niên, mỗi tháng bị tập đoàn Hồ chí Minh bóp cổ trắng trợn ăn cướp 3kg. Vậy là hằng tháng chỉ còn 10kg500 cả gạo lẫn chất độn. Các sổ lương thực vẫn in mực đen giấy trắng là 13kg500, nhưng thực tế chúng trừ mỗi người 3kg ngay lần đầu trong tháng đi mua lương thực và chúng rất lưu manh ở chỗ dấu đóng của phòng lương thực trên sổ lương thực gia đình laø “đã mua đủ 13kg500/tháng”. Thế hệ trẻ Việt Nam sau này cũng như quốc tế làm sao hiểu được sự lưu manh bỉ ổi đó của họ Hồ và bè lũ. Đã thế, dù cho có hàng cũng không bao giờ chúng cho mua cả tháng lương thực một lần, mà phải chia nhiều kỳ và mỗi kỳ phải xếp hàng cả buổi mới mua được. Mục đích của tập đoàn mafia đỏ cộng sản tiếm quyền là làm sao cho toàn dân lúc nào cũng đói, lúc nào cũng chửi bới nhau vì một chỗ xếp hàng mua hàng hóa, lương thực; lúc nào cũng tất bật thiếu thời gian vì làm lụng, họp hành, mua bán, đến độ không còn một giây phút để tụ họp, bàn bạc hay một mình suy nghĩ xem bản thân là người hay là trâu, ngựa. Sự lo lắng, sợ hãi về miếng ăn đến mức miền Bắc Việt Nam thời đó có câu: “Trông mặt như mất sổ gạo” để chỉ những người có gương mặt lo lắng, buồn bã!
Đối với một số nước Tây phương thì khẩu phần 13kg500 không làm họ ngạc nhiên vì họ chỉ cần khoảng 6kg là đủ. Bởi vì làm sao họ hình dung được rằng mỗi người dân Việt Nam ở tuổi thành niên dưới chế độ mafia Hồ chí Minh thì năng lượng cung cấp cho cơ thể trong cả tháng chỉ từ 10kg500 lương thực (vì bị trừ như nói ở trên 3kg) cộng với 0kg150 thịt; 0kg100 đường mà thôi!!! Còn bữa ăn người Tây phương thì thức ăn như cá, thịt là chính, chất bột là phụ trợ.
Còn những trí thức tương lai của xã hội, tức sinh viên thì sao? Biết đó là lực lượng “trong trắng và cách mạng” nhất nên Hồ chí Minh và đảng mafia đỏ của hắn cũng áp dụng cách quản lý rất đặc thù của mafia đỏ, cả tổ chức vật chất, lẫn tinh thần. Đó là:
Về tổ chức: Lên đến bậc đại học bắt buộc sinh viên phải sống nội trú tập thể. Ngoài các tiêu chuẩn mang tính cách gọi là “đấu tranh giai cấp” thì muốn vào bậc đại học, bắt buộc phải là đoàn viên thanh niên lao động (sau đổi thành đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí Minh), một tổ chức ngoại vi được gọi là “cánh tay mặt của đảng (mafia đỏ)”. Xin lưu ý bạn đọc là, nếu nghe ai nói hoặc viết về bản thân mà khoe rằng sau 1954, bố mẹ đi Nam (ngoại trừ do mafia Hồ chí Minh cài vào nằm vùng trong Nam) ở lại một mình, đã “tẩy chay” không thèm gia nhập “đoàn thanh niên cứu quốc” (sau đổi thành lao động, rồi lại đổi thành cộng sản) mà vẫn được vào đại học (lại còn học ngành địa chất là ngành vừa quan trọng vừa mang tính bí mật quốc gia) thì nên hiểu là:
1) Lỡ mồm nói (hoặc viết) phét quá trớn;
2) Một thứ “tin giả” để có người chưa biết gì về cộng sản (đặc biệt là tuổi trẻ ở hải ngoại) ngộ nhận về cái gọi là “tính giai cấp” trong công tác đào tạo của mafia đỏ.
Trước 1975, người duy nhất được vào đại học mà chưa là “đoàn viên thanh niên lao động” là Tôn thất Bách, con trai bác sỹ Tôn thất Tùng – người được Trường Chinh bảo trợ. Nay Tôn thất Bách cũng là một nghị gật của quốc hội ngụy quyền Hà-nội, khóa 10.
Sau 1975, ngay tiêu chuẩn để có thể tốt nghiệp hết cấp 3 phổ thông, thì phải đạt tiêu chuẩn là “đoàn viên thanh niên cộng sản”. (Cứ hỏi học sinh ở Sài-gòn xem).
Trường “đại học” duy nhất trước 1975 không cần phải có tiêu chuẩn “đoàn viên thanh niên lao động”, là “đại học nhân dân” với Hoàng minh Giám làm hiệu trưởng, Đoàn trọng Truyến làm tổng thư ký và Nguyễn văn Trấn (tác giả “Gửi Mẹ và quốc hội”) làm giảng viên thường trực!!! Cái trường theo sáng kiến của Hồ.
Trong tập thể sinh viên, ngoài thành phần học sinh tốt nghiệp cấp 3 phổ thông ra, còn có thành phần gọi là “công nông”. Đó là những người lớn tuổi, là cán bộ hoặc binh lính của mafia đỏ, được chọn lọc cho đi học tắt qua các trường gọi là “bổ túc công nông” hoặc “bổ túc văn hóa ngoài giờ”. Tụi này hoặc là đảng viên mafia đỏ cốt cán, hoặc là đối tượng sẽ kết nạp của mafia đỏ, hoặc là tụi ưa tố cáo, vu khống bới móc, chỉ điểm ở các cơ quan, binh lính, nông trường, công trường hay hợp tác xã các loại. Nói tóm lại, bọn chúng được coi là “trí thức tương lai xã hội chủ nghĩa” hay “cán bộ khung tương lai” của chế độ Hồ chí Minh! Bọn chúng được lựa chọn trên cơ sở “đấu tranh giai cấp” chứ không từ khả năng học vấn và được coi là nguồn nhân sự sẽ bổ sung cho các ngành, các cấp của chế độ mafia đỏ nên chúng chỉ cần biểu hiện “lập trường vô sản” vững chắc chứ không cần kiến thức. Trường đại học chính là môi trường cho tụi này thực tập làm “cán bộ chủ chốt, cán bộ khung” trong tương lai của chế độ mafia Hồ chí Minh. Vài thí dụ điển hình của loại này như:
1- Phạm thế Duyệt, gốc Thái-bình, làm việc ở mỏ than Hòn-gai thời kỳ Nguyễn đức Tâm làm bí thư tỉnh ủy mafia đỏ ở tỉnh Quảng-ninh (Bắc Việt), được cho về học ở trường đại học sư phạm 1 Hà-nội, leo tới ghế ủy viên chính trị bộ mafia đỏ thời Lê khả Phiêu.
2- Hoàng đình Cầu, từ cứu thương trong lính mafia đỏ, học tắt vào đại học y khoa, ngành phong trào, ra làm thứ trưởng kiêm bí thư đảng đoàn mafia đỏ ở bộ y tế, thời kỳ bác sỹ Nguyễn văn Hưởng cho đến đại tá Vũ văn Cẩn làm bộ trưởng.
3- Bạch Vân, gốc Yên-bái, từ lính quân báo mafia đỏ, được về học Anh văn tại đại học sư phạm 1 Hà-nội, nay là tướng an ninh quân báo của mafia đỏ.
4- Phan đắc Lập, nhân viên tài vụ của văn phòng tổng cục bưu điện – truyền thanh, được cho đi học bổ túc công nông rồi vào đại học tổng hợp văn của Hà-nội; sau ra làm việc tại đài phát thanh Hà-nội; sau 1975 vào Sài-gòn và là kẻ dưới sự chỉ đạo của Trần văn Giàu đã viết bài chửi cụ Hồ hữu Tường trong tập “Những tên biệt kích ngụy trên mặt trận văn hóa – văn nghệ”.

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website