THÍCH NHẤT HẠNH – TÊN VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐỘI LỐT PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG VỆT MÁU TỘI ÁC CỦA "GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT“ - KHỐI ẤN QUANG.
THÍCH NHẤT HẠNH – TÊN VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐỘI LỐT PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG VỆT MÁU TỘI ÁC CỦA "GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT“ - KHỐI ẤN QUANG
HAY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG KHIỂN DỤNG VỎ BỌC PHẬT GIÁO LÀM PHƯƠNG TIỆN BÔI XÓA TỘI ÁC, CỦNG CỐ QUYỀN LỰC NHƯ THẾ NÀO.
(Phần 1.)
Seattle, August. 2012
Thái A
Diễn Đàn Sức Mạnh Sự Thật - Yahoo Group thực hiện:
(Từ đoạn 1 đến 82)
Anh Đào tựa dịch từ nguyên bản tiếng Đức
với sự đồng ý của nguyên tác giả Thái A.
Theo nguồn: Vietnam - Buddhist
Khi nhận được bản dịch tiếng Anh chúng tôi sẽ bổ khuyết
Trân trọng
Moderator
Theo nguồn: Vietnam - Buddhist
Khi nhận được bản dịch tiếng Anh chúng tôi sẽ bổ khuyết
Trân trọng
Moderator
DẪN NHẬP ĐỀ:
1. Theo Hiệp định Genève về việc tạm thời chia cắt lãnh thổ Việt Nam vào ngày 20.07.1954 thì trong một thời gian ngắn, dân chúng hai miền Nam Bắc được tự do quyết định di cư đến hai miền Nam Bắc của đất nước. Ranh giới tạm thời chia cắt đất nước là vĩ tuyến 17, biên giới thiên nhiên là sông Bến Hải.
Nguyên do của hiệp định này, một bên là âm mưu chiến lược thâm độc của Hồ Chí Minh tự nguyện làm khuyển mã theo chỉ thị của quốc tế cộng sản, được giật dây trực tiếp bởi Moskau và Bắc Kinh, và một bên là nước Pháp, sau khi thất thế tại chiến trường Điện Biên Phủ đang cố gắng để đạt được hiệp định này để rút lui khỏi Việt Nam trong một tư thế khả thi nhất. Các đảng phái quốc gia khác tại Viêt Nam đương thời đều phản đối sự chia cắt đất nước một cách ngang trái này.
Vào thời điểm đó dòng người dân miền Bắc tìm mọi cách chạy trốn chế độ „cộng sản“ của Hồ để di tản về phương Nam đã đột ngột dâng lên một cách chưa từng có. Trong một thời gian ngắn, với sự cố gắng nỗ lực cao cả và sự giúp đỡ của Mỹ, Pháp cùng các tổ chức từ thiện quốc tế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã tổ chức di cư thành công cho hơn một triệu đồng bào miền Bắc vào miền Nam, và ổn định cuộc sống cho đồng bào những năm sau đó. Mặc cho sự tuyên truyền một chiều, tìm cách ngăn cản và xuyên tạc tẩy não của Hồ và cái gọi là „đảng cộng sản“ của hắn lúc đó đang còn tìm cách che giấu dã tâm khát máu, đại đa số đồng bào miền Bắc đã quyết tâm từ bỏ chế độ cộng sản tại miền Bắc.
Trong dòng sử Việt, đây là cuộc di cư lịch sử lớn nhất vào thời điểm đó. Nếu không bị những thủ đoạn gian manh tàn ác của Hồ để hòng ngăn cản đồng bào di cư, qua mặt các tổ chức giám sát quốc tế thì dòng người di cư đã vượt xa nhiều lần con số 1 triệu nói trên. Đại đa số đồng bào Việt Nam đã tỏ rõ thái độ phản kháng chế độ cộng sản tại miền Bắc.
2. Cái gọi là „chính phủ“ của Hồ được giàn dựng bởi đảng cộng sản, trá hình Việt Minh, thành hình bởi lừa đảo, cướp, gìết, khủng bố và mọi thủ đoạn khuynh đảo tiến đến cướp trọn chính quyền của Chính Phủ Liên Hiệp năm 1946 đã không được nhân dân miền Bắc chấp nhận. Hồ và đảng CS đã thi thố mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc và bạo lực nhằm ngăn cản dòng người đang phải dứt lòng bỏ lại xóm làng thân thương, quyết tâm vượt thoát chế độ cộng sản tìm đến bến bờ tự do nơi đất trời phương Nam.
Cũng theo hiệp định Genève thì sau 2 năm, tức năm 1956 sẽ có một cuộc tổng bầu cử toàn dân để dân chúng hai miền được tự do quyết định bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử dân chủ hợp hiến với mục đích là tái thống nhất đất nước. Cuộc bầu cử sẽ được sự kiểm tra và giám sát của Liên hiệp quốc. Nhưng cả sau khi thời hạn di cư, được gia hạn thêm một thời gian ngắn, ngoài thời hạn (300 ngày) đã hết và nhiều năm sau đó, người dân bị trị miền Bắc vẫn còn tìm cách vượt thoát về phương Nam. Tất cả những lần vượt thoát từ miền Bắc của đồng bào qua sông Bến Hải vào Nam, khi bị quân đội miền Bắc phát hiện đều bị truy đuổi, chặn bắt, dùng tên tẩm chất độc và cả vũ khí sát thương hạ sát (mặc dù theo quy định của hiệp định là không được dùng vũ khí sát thương).
Tình trạng thê thảm tại biên giới Nam-Bắc Việt Nam lúc đó cũng tương tự như hiện trạng nơi biên giới Đông-Tây của một nước Đức từng bị chia cắt, hoặc tại khu vực biên giới Nam-Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng về mức độ thì vượt mọi ranh giới của sự tàn ác và thê lương. Hiệp định Genève đã bị Hồ xé tan và giẫm nát bằng chân từ lúc nó chưa thành hình.
3. Để có một tầm nhìn khái quát nhưng đầy đủ về về tình hình Việt Nam sau hiệp định Genève 1954 thì văn bản „Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoàngày 26. Tháng Tư. 1958 về những vướng mắc trong vấn đề Tái thống nhất đất nước“ là một tài liệu đặc biệt hữu ích. Văn kiện ngoại giao này được công bố ngày 26.04.1958 bởi văn phòng Sứ thần Việt Nam Cộng Hoà tại Bonn, CHLB Đức. Nguyên bản hiện đang lưu trữ tại trung tâm lưu trữ Văn khố thành phố Stuttgart, tiểu bang Baden Württemberg, CHLB Đức, có thể tìm thấy dưới mã hiệu: „ J 152 D Vietnam Nr.1“.
4. Cũng trong làn sóng người di cư này đã có khoảng 3000 cán bộ cộng sản trà trộn theo vào Nam, cũng như khoảng 6000 cán bộ cộng sản khác, đều theo lệnh của Hồ cài cắm ở lại miền Nam, nằm vùng tạo dựng cơ sở cho cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà của Hồ sau này. Số cán binh nằm vùng này tăng lên không ngừng vào những năm sau đó.
5. Miền Nam Việt Nam trong trong giấc mộng xâm lăng của Hồ Chí Minh theo lệnh từ Moskau và Bắc Kinh chỉ là cái bàn đạp đầu tiên. Cái đích của sự toan tính của Hồ nằm trong giấc mộng xâm lăng của đế quốc đỏ, là chiếm cả Đông Dương, gồm cả Lào và Campuchia.
6. Nói về sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như văn hoá, kinh tế, và đặc biệt là tôn giáo trong chế độ ngụy quyền của Hồ lúc đó có thể so sánh là đã bị tụt lùi xuống ngang hàng với thời hậu trung cổ tại châu Âu. Thực trạng Bắc Việt Nam đương thời đã bị biến dạng thành một thứ ngục tù không tường vách, không khác gì với Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng thực trạng này vẫn còn đúng với cả nước Việt Nam cộng sản tới tận ngày hôm nay!
Cụm từ „Kommun + ismus“ có nguồn gốc từ Âu châu ( nguyên ngữ tiếng Đức: „Kommunismus“ ) đã bị Hồ và tay sai ma mãnh và xuẩn động dịch sang tiếng Việt là „Cộng sản-chủ nghĩa“, với nghĩa chữ nước đôi của cụm từ „cộng sản“ là „tài sản chung/ tài sản cộng đồng“ („gemeinsames Vermögen“), và đi kèm theo nó nào là những „không giai cấp“, „vô sản“ và „bất sở hữu“ (riêng tư)…, sau khi đã qua tay một tập thể trí nô vong bản, lưu manh, nhưng hùng hậu, tô vẽ và tuyên truyền quảng bá cho nhân dân miền Bắc về một „thiên đường cộng sản“ sáng lạn, trong đó „không còn ai được quyền sở hữu một thứ gì riêng tư“. Sự tuyên truyền này về thực chất là một sự cưỡng bức tẩy não tập thể toàn dân. Sự cưỡng bức tuyên truyền có tính chất „cách mạng“ của Hồ và đảng cộng sản nhìn cách nào cũng chỉ là sự thừa hành lặp lại nguyên si lối hành xử tàn bạo của Stalin, và sự thừa hành, sao chép bằng máu cái gọi là „cách mạng văn hoá“ của Mao Trạch Đông, mà mổi mỗi đều dùng để chống lại chính nhân dân trong nước, triệt phá sức đề kháng của quần chúng để dễ bề cai trị. Cái gọi là „Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà“ tại miền Bắc, được giật dây, hà hơi tiếp sức trực tiếp của nước Nga Xô-viết và Tầu cộng đang gồng mình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lăng tiến về phía Nam. Sự tàn bạo của của chế độ ngụy quyền cộng sản tại Bắc Việt Nam được che đậy bằng những cụm từ tanh mùi máu như „chuyên chính vô sản“, cách mạng xã hội chủ nghiã v.v. và v.v. đã được các tác giả tên tuổi của Việt Nam và thế giới tự do lật tẩy qua vô số các tác phẩm đã được công bố ngay từ những ngày đầu chế độ này manh nha hình thành.
VÀO ĐỀ:
7. Vào thời điểm này tại miền Bắc thì tất cả hoạt động tôn giáo của nhân dân đều bị bộ máy tuyên truyền CS tùy tiện kết án là „thuốc phiện của nhân dân“, „lạc hậu“, „mê tín dị đoan“, „phản động“ cho đến „phản cách mạng“ hoặc „gián điệp của các thế lực phương tây thù địch“ , tùy theo nhu cầu đàn áp của đảng, và nhất định phải bị „bạo lực chuyên chính vô sản“ tiêu diệt bài trừ.
Bức tranh vẽ bôi của Hồ về một „nhà nước cộng sản“ tại miền Bắc Việt Nam trên thực tế còn đang ở thời kỳ hậu quân chủ, với nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu thô sơ và đa phần dân chúng là nông dân. Nhưng vì phải rập khuôn theo mô thức từ nước Nga và Tầu cộng sản nên đặc biệt từ những năm, khi đảng cs đã đặt được ách cai trị toàn phần đối với dân chúng miền Bắc qua bộ máy quốc hội bù nhìn, thì đảng cs cũng cho dựng lên các giáo hội giả hiệu như „Giáo hội Phật giáo“, „Giáo hội Thiên Chúa giáo“, nhưng chỉ là những hội như „hội phụ nữ“, „hội nông dân“… cùng vô số các hội tương tự, dưới sự lãnh đạo của đảng, thừa hành bởi „Mặt trận Tổ quốc“. Đảng cộng sản có một rừng biển hiệu chỉ để treo cho có như thế. Cùng chung một số phận như thế, các đảng như „đảng dân chủ“, „đảng xã hội“ đều bị các cán bộ tay sai của Hồ thâm nhập, đục khoét từ bên trong, tiến tới chỉ còn là những biển hiệu, những công cụ tay sai của đảng cộng sản.
Một thực tại lịch sử là phần đông dân số Việt Nam theo đạo Phật, hoặc có những nền tảng tâm linh và thế giới quan khoan dung đủ tầm quảng đại để đồng hành với giáo lý Phật giáo. Thực tại này cũng chính là một yếu tố mà đối với chế độ độc tài ngụy quyền cộng sản không thể nào coi nhẹ, hơn thế nữa các đạo giáo có mặt tại Việt Nam đặc biệt là đạo Phật nói chung thực sự là một cơ hội béo bở, và nhất thiết phải chịu sự khiển dụng của đảng, như một trong những công cụ đa năng khác dành cho các mục tiêu của đảng cộng sản. Mưu mô hoạch định cho sự thành hình của cái gọi là „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất“ cùng những „Gia đình Phật tử Việt Nam“ tại miền Nam đầu những năm 1960 đã được toan tính từ lâu trước đó bởi „Bộ Chính trị“ đảng cộng sản tại…miền Bắc.
Cũng vào thời gian này thì kế hoạch và guồng máy xâm lăng miền Nam của Hồ từ Hà nội đang hoạt động hết tốc độ. Để chuẩn bị cho cuộc thâm nhập trên „mặt trận tôn giáo“, có một số rất đông các cán bộ đảng cộng sản được tuyển chọn huấn luyện và đào tạo ngắn hạn về Phật giáo tại miền Bắc, chưa kể những số cán bộ nằm vùng trong Nam và số cơ hội bị lừa vào tròng. Tất cả những cán bộ đã được cộng sản tẩy não này đều có chung một định hướng là dùng vỏ bọc tôn giáo này để phá hoại và làm sao qua đó gây tạo cho được sự phản loạn, bất ổn định với sức ảnh hưởng chính trị càng lớn càng tốt trong quần chúng và các đô thị miền Nam. Để cuối cùng thì cái gọi là „GHPGVNTN“ đã được giật dây để thành hình, cùng vô số các tổ chức tay chân trực thuộc của nó như „Gia đình Phật tử Việt Nam“. Nhưng, như mục tiêu thâm độc của đảng CS, là những kẻ giật dây khuynh đảo và điều khiển tổ chức này muốn đạt đến vào thời điểm đó là tạo vỏ bọc để tuyên truyền ngụy trang và nhân danh nhân dân miền Nam, hậu thuẫn cho quân đội cộng sản cùng một lúc xâm lăng miền Nam. Và đến tận ngày hôm nay GHPGVNTN vẫn còn được dùng để làm cò mồi tuyên truyền cho các mục tiêu chính trị của đảng csvn.
Thich Huyen Quang (geb. Le Dinh Nhan), links im Bild, der KP Kader im Mönchsgewand bei der Vollversammlung und Bekanntgabe der UBCV im Jahr 1964 in Saigon.
*
Trong ành: (bên trái) Thích Huyền Quang ( tức Lê Đình Nhàn), tên Việt gian tay sai cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, đọc diễn văn tại đại hội ra mắt của GHPGVNTN tại Sài gòn, năm 1964.
8. Để thực hiện mục tiêu này, tên đảng viên cộng sản đội lốt Phật giáo Thích Trí Quang đã hoạt động phá hoại một cách điên cuồng, khích động, khuynh đảo, giật giây một bộ phận lớn quần chúng và Phật tử miền Nam, tổ chức các cuộc biểu tình phản loạn, xuống đường và „tự thiêu“ v.v. nhằm phá hoại tạo bất ổn định cho chính quyền miền Nam. Hậu quả là dẫn đến cuộc đảo chính phản tặc chống lại chính phủ VNCH, Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đương nhiệm Ngô Đình Diệm cùng bào đệ của ông đã bị sát hại trong cuộc đảo chính phản tặc này. Phần chi tiết sẽ được đề cập ở các phần sau trong bài.
Thích Trí Quang (geb. Phạm Văn Bồng), ein gefürchteter führender KP-Agent im Mönchsgewand, ist einer der kaltblütigsten Haupt-Täter der sog. "buddhistichen Rebellen" zugusten der nordvietn. Kommunisten im Invasions-Krieg gegen die Süd-Republik Vietnam. Im Bild: Thich Tri Quang als Titelbild des „Time“ Magazin, New York, USA 1963.
*
KP Kader Thich Tri Quang und der DDR Kommunist Erich Wulf
KP Kader Thich Tri Quang im Mönchsgewand und Komplizen demonstrieren vor dem Regierungsgebäude der Süd Republik Vietnam in Saigon im Jahr 1963.
KP Kader Thich Tri Quang und der DDR Kommunist Erich Wulf
9. Thích Trí Quang, tức Phạm Văn Bồng, sinh tại làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, miền Trung Việt Nam. Theo tài liệu tình báo của Pháp (sau này là „Phòng Nhì“) thì hắn đã gia nhập và là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1949. Lễ gia nhập đảng được tổ chức tại mật khu Lương Miêu, Dương Hoà. kết nạp bởi Tố Hữu, tức Tôn Thất Lành, một trong những tên cán bộ cao cấp của đảng CS Vìệt Nam. Cả CIA cũng như tình báo VNCH đều nắm rõ về vụ việc này.
Để có một tầm nhìn bao quát và cụ thể hơn về những cán bộ Việt gian cộng sản giả danh Phật giáo núp áo nhà sư như Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn và cái gọi là „GHPGVNTN“ thì tài liệu sau đây của CIA đặc biệt hữu ích:
Nguyên văn tiếng Anh:
Language: English; Document Pages: 13; Date: 04 May 1967; Collection: Central Intelligence Agency Collection; Media Type: Document (.pdf); Full Text: Full Text is available for this item. Return to the Virtual Vietnam Archive and search for Item Number: 04109128007. Go to the More Information section and change to the Full Text view.; View Item: Situation Appraisal of Buddhism as a Political Force During Current Election Period Extending through September 1967, 04 May 1967, Folder 128, Box 09, Central Intelligence Agency Collection, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Accessed 21 Aug. 2012.
Và bản dịch tiếng Việt hiện đang được đăng tải tại đây:
10. Giật dây hậu trường cuộc đảo chính này lại chính là đồng minh Hoa kỳ, qua bàn tay của CIA, muốn lợi dụng cuộc đảo chính cho mục đích của Mỹ lúc đó. Vào thời điểm này phiá Mỹ muốn trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam chứ không phải chỉ là gián tiếp cung cấp vũ khí và cố vấn quân sự. Một cuộc đảo chính triệt hạ quyền lực của chính phủ và tổng thống Ngô Đình Diệm thay thế bằng một chính quyền khác dễ bảo hơn, hợp với sự „quan tâm“ của chính quyền Hoa Kỳ lúc đó. Sau khi cuộc đảo chính lật đổ chính phủ đệ nhất Cộng Hoà có sự tiếp tay của CIA đã thành toại, tên cộng sản Thích Trí Quang vẫn tiếp tục sách lược của đảng cộng sản giao phó. Hắn vẫn tiếp tục khích động đồng bào và Phật tử miền Nam xuống đường phản đối, gây phản loạn tiếp tục chống chính quyền mới và cực lực chống luôn cả người Mỹ. Lần này chính quyền đệ nhị VNCH và CIA đã cô lập bắt gọn Thích Trí Quang, nhưng do „ảnh hưởng“ của hắn với lũ nằm vùng trong chính quyền VNCH hắn lại được tại ngoại và tiếp tục hoạt động có lợi cho cộng sản. Xin nói thêm là loại trừ một trường hợp ngoại lệ duy nhất là Thích Trí Quang đã bị đại tá Nguyễn Ngọc Loan bắt nhốt và cô lập sau khi không còn một tướng lĩnh VNCH nào trước đó giám đối đầu với tên việt gian CS này. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan sau này đã được phong tướng. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên - Huế, xuất bản năm 2010 - USA).
Vụ hỏa thiêu hành quyết Thích Quảng Đức
11. Một trong những đỉnh điểm tội ác cuộc phản loạn này là vụ hành quyết thiêu sống Thích Quảng Đức, đã được giàn dựng để tuyên truyền là „Thích Quảng Đức tự thiêu chống lại đàn áp Phật giáo“. Sự thực là vụ này cũng như đa phần các vụ hỏa thiêu bức tử khác đã được các tên cộng sản trá hình Phật giáo chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Ban đầu Thích Quảng Đức được tẩy não là hắn sắp thực thi một „sứ mạng quan trọng“, nhiều trợ lý đệ tử có chuyên môn y khoa đã thường xuyên dùng các loại thuốc mê chuyên dụng biến cơ thể Thích Quảng Đức trở nên đờ đẫn, thần kinh bị ức chế vô cảm. Để đến khi liều thuốc mê đặc dụng cuối cùng tiêm vào cơ thể Thích Quảng Đức một cách rành nghề trước khi bị tên Nguyễn Công Hoan và đồng bọn chở và dìu vực ra nơi hành hình, thì Thích Quảng Đức bấy giờ chỉ còn là một thân xác vô cảm với hệ thần kinh đã tê liệt. Rồi chính Nguyễn Công Hoan đã dùng ít nhất là 10 Lit xăng đổ ngập lên đầu và người Thích Quảng Đức, xăng chẩy thành vũng đọng quanh chỗ ngồi của kẻ bị hành quyết, và cũng chính Thích Công Hoan dùng một bật lửa Zippo châm lửa từ xa, cái xác vô cảm đẫm đầy xăng bắt lửa cháy ngay lập tức… Và tất nhiên, một số đông các cán bộ cộng sản trá hình „tăng ni“ và cả „cảnh sát“ đã được chuẩn bị trước để dàn hàng quây vòng xung quanh nơi hành hình, để quyết thiêu cho bằng được Quảng Đức mà không bị cản trở. Quan trọng hơn cả là một vài „nhà báo quốc tế“ đã đựợc chuẩn bị trước cho cuộc hành hình này cũng được giàn xếp ngay nơi hiện trường, tức là có thể chụp hình kẻ bị thiêu và „được phép“ ghi lại hình ảnh cảnh hành quyết một cách rõ nét nhất. Với mục đích là ngay sau đó những hình ảnh sắc nét nhất thế giới này sẽ qua tay giới truyền thông tới Mỹ và phương Tây, phục vụ cho mục đích tuyên truyền của đảng cộng sản hòng lừa đảo dư luận cả thế giới. Kẻ bị hành quyết hỏa thiêu chết cháy như than tại chỗ. Nguyễn Công Hoan hiện nay (năm 2012) đang ẩn náu trong một cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại Mỹ.
12. Đảng cộng sản Việt nam, „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất - Ấn Quang“ và tất nhiên là cả Thích Nhất Hạnh cho đến tận ngày hôm nay vẫn đang tìm mọi cách bôi xóa và chối bỏ tội ác là: chính chúng đã giàn dựng và thực thi vụ hành quyết hỏa thiêu đặc biệt dã man này. Hơn thế nữa, ngay từ đầu chúng đã giàn dựng ra hàng loạt những chuyện ly kỳ nhất để loan đồn những chuyện hoang tưởng đạo đức giả, nhân danh Đạo Phật và Giáo lý Phật giáo, hòng che mắt và đánh lừa dư luận cả thế giới. Nào là „Bồ Tát tự thiêu“, "lửa từ bi", „Thánh Tử Đạo“.v.v.
13. Các vụ „Phật giáo tranh đấu“, biểu tình phản loạn triền miên, rồi vụ hành quyết hỏa thiêu Thích Quảng Đức ngày 11.06.1963, chỉ là những thủ thuật dùng để gây rối đổ thêm dầu vào lửa, nhằm tạo thêm chất nổ cho đỉnh điểm của nó, là vụ các tướng lĩnh phản tặc được sự giật dây mua chuộc trực tiếp của CIA, được thực thi bởi „đội quân thứ ba“ của đảng tức „Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam“ trong đó có giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất“, lật đổ Chính thể Đệ nhất VNCH và sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02.11.1963. Tất cả chỉ là diễn tiến một phần của một âm mưu đã được hoạch định trước. Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để lật đổ chính thể Đệ Nhất Cộng Hòa để có thể qua đó có toàn quyền quyết định thao túng trực tiếp vào „công cuộc chống cộng sản“ tại miền Nam.
14. Tất cả nhũng vụ „Phật giáo phản loạn“ cũng như tin tức chiến sự tại miền Nam vào thời điểm này và cũng gần như xuốt thời gian cuộc chiến Việt Nam, đều được giới báo chí, truyền thông bình luận chiến sự và dân sự VNCH, đồng minh phương Tây và cả khối cộng sản loan tải. Tuyên truyền theo kiểu tẩy não một chiều của khối cộng sản đông Âu và Bắc-Việt thì đã là lẽ hiển nhiên dễ hiểu. Nhưng rõ ràng là đã có một sự che chắn, thông tin một chiều có chủ ý, được định hướng bởi Hoa Kỳ. Hậu quả là tại phương Tây, đặc biệt là tại Mỹ, những bản tin về tình hình chiến sự tại Việt Nam đã bị bóp méo một cách nghiêm trọng. Thật mỉa mai vô cùng là nội dung các bản tin chiến sự đã được loan tải này lại hoàn toàn có chiều hướng làm lợi cho quân đội lê dương cộng sản của Hồ, một tập đoàn đánh thuê của Bắc Kinh và Moskau.
15. Một trường hợp cụ thể là, vì cái chiêu bài giả danh đội lốt Phật giáo do „GHPGVNTN khối Ấn Quang“, Nhất Hạnh, Võ Văn Ái và khối „thiên tả“ làm rùm beng, giật dây khích động phản loạn rồi tung tin tuyên truyền, bôi nhọ xuyên tạc rằng „chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo“, do vậy Chính phủ VNCH đã chủ động trực tiếp mời một phái đoàn quan sát của Hội đồng liên hiệp quốc tới Việt Nam Cộng Hòa để điều tra làm rõ vụ việc. Mặc dù với sự giúp đỡ tận tình của Chính Phủ VNCH trong điểu kiện thực tế, phái đoàn điều tra đã chỉ có thể đưa ra một kết luận trung thực là dưới chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt nhiên không hề có sự đàn áp tôn giáo. Những luận điệu cáo buộc bôi nhọ chính quyền VNCH đã được loan đi bởi các phương tiện truyền thông và báo chí đa phần là thân cộng sản tại phương Tây đã bị phái đoàn điều tra vạch mặt là những luận điệu tuyên truyền vu khống thâm độc ác ý. Một bản điều trần về những gì mắt thấy tai nghe tại Việt Nam Cộng Hòa nói lên sự thật trên, đã được phái đoàn chuẩn bị hoàn tất để điều trần trước dư luận thế giới trong phiên họp ấn định của hội đồng LHQ. Nhưng cũng vào giờ phút trót bản điều trần đã bị chính những nhân vật cấp cao của Nhà Trắng „điều đình“ và cản trở một cách bí mật, để hậu quả là bản điều trần đó đã bị giấu nhẹm đi và đã không được chính thức công bố.
16. Cho đến tận ngày hôm nay năm 2012, trên các phương tiện truyền thông chính thức, và cả trong các sách giáo khoa của các trường đại học tại Mỹ vẫn còn đầy rẫy những tin một chiều hoàn toàn sai lệch dường như có chủ ý về sự thật chiến tranh Việt Nam, tung hô có lợi cho đảng cs…Tầu, và đảng cs Việt Nam. Mặc dù hàng loạt những tài liệu của Lầu Năm Góc về các sự thật bí ẩn trong chiến tranh Việt Nam đã được giải mật và công bố. Mặc cho sự ra đời của bộ sách „Hồ sơ đen về chủ nghĩa Cộng sản“ đã trở nên nổi tiếng. Mặc cho sự ra đời của hàng loạt các phẩm, tác giả đã công bố, đã bạch hóa sự thật về thực chất của cuộc chiến tranh Việt Nam của chính các tác giả phương Tây đã trở nên nổi tiếng. Cụ thể nhất là trong năm 2006, chính Đại Hội đồng Quốc Hội Châu Âu (PACE) đã ra quyết nghị số 1486 về việc đặc biệt cần thiết phải truy tố tội ác các đảng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản ra trước tòa án quốc tế về tội ác dã man chống nhân loại của chúng.
17. Vụ sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm có sự bật đèn xanh từ Pentagon (Lầu Năm Góc) của Mỹ xét về thực chất cũng là một thứ lệnh bức tử Chính thể nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. Mặc dù trong hoàn cảnh thời chiến nhưng dưới Chính thể Ngô Đình Diệm, Việt Nam Cộng Hòa đã đạt được một sự phát triển đáng nể phục. Với một nền kinh tế thị trường tự do, được bảo đảm bằng một nền hiến pháp nhân bản và tôn trọng dân chủ thực sự. Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng là vị tổng thống đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được nhân dân bầu cử một cách hợp hiến pháp. Nhưng không còn gì mỉa mai và ngang trái hơn là chính Henry Alfred Kissinger và tên „trưởng đoàn ngoại giao“ của Hồ là Lê Đức Thọ sau hiệp định Paris 1973 về Việt Nam đã được xưng tụng để cùng nhận giải Nobel „Hòa bình“. Với hiệp định Paris, về thực chất đã hợp thức hóa và che đậy sự rút lui của quân đội Mỹ ra khỏi chiến trường Việt Nam một cách „danh dự“. Nhưng trên thực tế trần trụi là những tay điều hành guồng máy chiến tranh tại Nhà Trắng đã phản bội, bán rẻ VNCH và 17 triệu nhân dân miền Nam cho bàn tay đẫm máu của đội quân xâm lăng miền Bắc, tay sai của đế quốc thực dân đỏ. Thọ đã „từ chối“ nhận lãnh giải thưởng dành cho hắn, vì guồng máy bắn giết của của hắn, một bộ phận tay sai của đế quốc đỏ vẫn không hề ngừng chuyển động cho tới ngày 30. 04.1975, khi xích xe tăng Nga được quân đội của Hồ mang tới giày xéo khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu người miền Nam được biết thế nào là tắm máu kiểu đế quốc đỏ, đều tìm cách trốn chạy thoát khỏi thần chết đỏ bằng tất cả mọi cách, mọi con đường có thể có, kể cả là phải bỏ mình trên muôn trùng sóng gió đại dương mong tìm đường vượt thoát tới bến bờ tự do. Người Mỹ cũng chạy thoát thân như thế. Sự kinh hoàng khủng khiếp không bút nào tả xiết, đã vượt mọi ranh giới có thể tưởng tượng. Và cả thế giới đã ngậm ngùi nhưng câm lặng chứng kiến cảnh tượng thê lương hãi hùng kia. Chỉ 3 năm sau, cũng những vệt xích xích xe tăng Nga này lại tràn ngập đất nước Campuchia.
18. Trở lại năm 1964, GHPGVNTN được thành lập và tự nó đã là một thứ vỏ bọc lý tưởng, đủ rộng để đảng CS có thể tùy khiển dụng giật dây nó theo nhu cầu từng giai đoạn. Các miền, hệ phái và truyền thống Phật giáo khác cũng đã từng được quy tụ quanh GHPGVNTN vào thời điểm thành lập. Nhưng đã sớm nhận ra sự giàn dựng, thâm nhập của các cán bộ cộng sản và cả lũ nằm vùng (trá hình „khối Phật giáo Ấn Quang“) để hoạt động cho cộng sản, nên đều tỏ ra thất vọng và xa lánh. Thượng tọaThích Tâm Châu là một điển hình, vì đã tỏ thái độ không muốn bị mãi lôi kéo mãi vào vòng „tranh đấu“, phản loạn, nên đã bị các tên CS núp áo nhà sư, trâng tráo dùng bạo lực đe dọa sát hại, cưỡng bức phải rời khỏi trọng trách lãnh đạo tâm linh của mình. Lãnh đạo tinh thần của các hệ phái khác cũng dần xa lánh cái „tinh thần Phật giáo tranh đấu“ giả hiệu này. GHPGVNTN do vậy đã bị đảng cộng sản „rút hết ruột“, còn lại cái xác, dùng làm biển treo, như môt công cụ tay sai trá hình để tiếp tục nhân danh đại đa số quần chúng Phật giáo xuống đường đấu tranh cho các mục tiêu của đảng cộng sản.
19. Một trong những tội ác tiêu biểu đẫm máu nhất của GHPGVNTN là vụ thảm sát dân thường Huế vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Cộng sản gọi là „tổng tiến công nổi dậy“. Trong 26 ngày quân đội cộng sản Bắc-Việt đã tạm thời cưỡng chiếm thành phố Huế. Trong thời gian này có ít nhất 5327 người đã bị sát hại dã man, 1200 người bị bắt đi mất tích. Những cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo nằm vùng, biệt danh là „đội quân thứ 3“ của đảng cộng sản Việt Nam, là những thủ phạm chính thực thi tội ác trong vụ thảm sát dân thường đặc biệt man rợ này. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên - Huế, xuất bản năm 2010 - USA).
Khai màn cho cuộc tắm máu này là tiếng súng khai hỏa bởi quân đội CS Bắc-Việt nổ đúng vào đêm giao thừa tấn công thành nội Huế, lật lọng bất ngờ phá tan quy ước đình chiến ba ngày Tết giữa hai miền Nam-Bắc. Lính cộng sản quần đùi áo đen đột ngột xuất hiện, cùng hàng loạt các cán bộ cộng sản nằm vùng xuất đầu lộ diện, đồng loạt ra mặt công khai, đi từng nhà từng nhà, lùng bắt, thẳng tay bắn giết dân thường Huế một cách dã man vô tội vạ.
Lá cờ ba mảnh, xanh-đỏ-xanh, 1 sao vàng (không phải xanh, đỏ, 1 sao vàng, của lũ cộng sản nằm vùng, trá hình „Lực lượng Liên minh dân tộc dân chủ hòa bình“ do những tên Thích Đôn Hậu, Lê Văn Hảo làm chủ tịch) được cắm trên kỳ đài Thành Nội Huế trong xuốt thời gian quân cộng sản tạm cưỡng chiếm thành phố. 10 ngàn quân cộng sản trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ đã núp bóng dưới lá cờ giả hiệu của Thích Đôn Hậu để bắn giết. Hàng loạt các „ủy ban quân quản, tự vệ khu phố“, các „toàn án nhân dân“, „chính quyền cách mạng“…, do những tên giáo sư, sinh viên và đủ loại tầng lớp nằm vùng cho cộng sản được đồng loạt dựng lên chớp nhoáng trên đường phố. Và các màn xử tử hình bắn giết trả thù vô cùng dã man oan nghiệt diễn ra ngay tại chỗ, khắp nơi trong thành phố Huế. Các tên như Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, Thích Chánh Trực, Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Lê Thị Đoan Trinh…, là một trong những tên tội phạm, sát thủ khét tiếng của cộng sản trong vụ thảm sát này.
Dân chúng Huế đã phải bỏ chạy trong kinh hoàng, tuyệt vọng đau thương. Hàng ngàn dân thường trong đó có cả trẻ em, người già và phụ nữ bị bắt trói từng đoàn từng nhóm bằng giây điện thoại và bị cưỡng bức giải đi ra các miền ven đô hoang vắng của Huế. Nơi đó họ đã bị các toán cán bộ cộng sản hành quyết tập thể một cách đặc biệt dã man mọi rợ.
Để „tiết kiệm đạn“, phần đông trong số họ đã bị giết chết bằng các vật dụng thô sơ như cuốc xẻng, mà trước đó họ đã phải dùng để đào huyệt cho chính mình. Hàng loạt đạn bắn vào những loạt người đứng trước, họ đã ngã xuống trong tiếng gào rú rùng rợn cùng cực thê thảm của hàng loạt những người khác cùng bị trói phải ngã theo xuống huyệt, để cùng bị vùi lấp, bị chôn sống và chết thảm. Cảnh tượng thật rùng rợn thê lương, ngẹn nghào không bút mực nào tả xiết. Theo thống kê của cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa năm 1968 tại Huế thì đã có ít nhất 5365 thường dân Huế bị sát hại dã man bằng những hình thức thảm sát tập thể này. Trong đó có 3 giáo sư bác sỹ y khoa người Đức được chính phủ Tây Đức gửi đến trường đại học Y khoa Huế giảng dậy trong khuôn khổ giao tế dân sự và nhân đạo. Các giáo sư trên cũng đã bị sát hại bằng những phát súng bắn trực tiếp vào đầu sau khi họ bị cưỡng bức phải đào huyệt cho chính mình. Nơi họ bị cộng sản hành quyết chính là sân sau của chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của những cán bộ cs trá hình Phật giáo. Sau đây là tên các giáo sư bác sỹ bị sát hại: Prof. Dr. Raimund Discher, Prof. Dr. Alois Alteköster, Prof. Dr. Horst-Günter Krainick và người vợ của ông Elisabeth.
Ein Nachruf auf die deutschen Ärzte von Hué
Von H. C. Nonnemann
Zwei von vielen Massengräbern der
Massaker, gefunden in Hue im Februar 1968, in dem über 5327 Hue Bewohner durch den Vietcong gewaltsam ermordet wurden. Foto von LIFE Magazin im 01. April. 1969.
Massaker, gefunden in Hue im Februar 1968, in dem über 5327 Hue Bewohner durch den Vietcong gewaltsam ermordet wurden. Foto von LIFE Magazin im 01. April. 1969.
*
Trên đây là hai trong nhiều hố chôn tập thể của của cuộc thảm sát tập thể, được tìm thấy vào tháng 2. 1968 tại Huế, trong đó hơn 5327 nạn nhân bị Việt cộng tàn sát dã man. Ảnh của thời báo LIFE Magazin ngày 01.Tháng Tư. 1969.
Thích Đôn Hậu ( Diêp Truong Thuan), tên cộng sản trá hình trong áo „ tăng thống Phật giáo“ – Một trong những tên thủ phạm nguy hiểm nhất của cuộc thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Hơn 5327 thường dân đã bị tàn sát dã man bởi quân đội cộng sản trá hình , núp dưới lá cờ „ Liên minh các lực lượng đân chủ hòa bình hòa giải dân tộc“ của đảng csvn do những tên Thích Đôn Hậu và Lê Văn Hảo làm chủ tịch. Trong số nạn nhân có 4 bác sỹ giáo sư người Đức, được chính phủ Tây Đức gửi tới trường đại học y khoa Huế giảng dậy trong chương trình viện trợ giao tế dân sự. Các nạn nhân trên bị hành quyết bởi những nhát súng bắn trực tiếp vào đầu, được tìm thấy dưới hố chôn sau chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của đám cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo. Tên các vị bác sỹ bị giết hại là:
Dr. Raimund Discher.
Dr. Horst-Günter Krainick, và người vợ của ông Elisabeth.
Dr. Alois Alteköster.
Dr. Horst-Günter Krainick, và người vợ của ông Elisabeth.
Dr. Alois Alteköster.
![]() |
Tội phạm sát nhân Lê Văn Hảo |
![]() |
Tội phạm sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường |
![]() |
Tội phạm sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Phan |
![]() |
Tội phạm sát nhân Nguyễn Đắc Xuân |
Im Bild: Von links nach rechts: Le Van Hao, Hoang Phu Ngoc Tuong, Hoang Phu Ngoc Phan (geb. Hoang Ngoc Hop), Nguyen Dac Xuan, die kaltblütigsten Hinrichtungskommando Führer der vietn. KP im Hue Massaker 1968. Aktuelle Fotos.
*
Trong ảnh: Là các hình ảnh hiện nay của một trong những tên đầu xỏ sát thủ trực tiếp tàn ác nhất của đảng csvn trong vụ thảm sát đồng bào tại Huế năm 1968. Từ trái sang là Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan (Hoàng Ngọc Hợp), Nguyễn Đắc Xuân,
1- Linkes Bild: Ankunft in Ulan Bator, Flughafen, 1969.
KP - Thich Don Hau im Mönchsgewand und KP Kader Ton That Duong Tiem schlagen die Werbetrommel für die UBCV und die verdeckten Kampffronten der KP in der kommunist. Mongolei.
2- Rechtes Bild: Thich Don Hau plaudert mit dem KP General der Volks-Befreiungsarmee Vo Nguyen Giap im Jahr 1976.
0 comments:
Post a Comment