TỪ PHỤC QUỐC
CỦA ISARIEL, NGHĨ VỀ VIỆT NAM CỘNG HÒA
(BÀI 1)
Cách ngôn
Tây phương có câu: "Phải chi thanh niên được giàu kinh nghiệm, phải chi kẻ
già-cả được giàu sức-lực" (Si jeunesse savait, si vicillesse pouvait).
Tinh thần Âu-Mỹ hay văn minh Tây phương, với khả năng hoạt động của nó không
khác nào sức mạnh cân đối của thanh niên. Còn tinh thần Á Đông hay văn minh
Đông Phương, với khả năng trầm-tư mặc-tưởng và đạo đức của nó không khác nào
kinh nghiệm lão-thành, tuy khác nhau về bản chất nhưng hai tinh thần đó vẫn
luôn cần thiết cho nhau.
Phần đông tuổi
trẻ theo nhà tâm lý học C.G.Jung, là tuổi dễ bị Âu-Mỹ hóa thích hoạt động và
cách mạng. Họ có những khả năng vật chất dồi dào hơn tuổi lão thành, nhưng về
kinh nghiệm việc đời thì họ thiếu hẳn. Do đó, cái học của hai nền văn minh đó
ngày nay, thực ra cũng là sự tranh chấp giữa hai thế-hệ. Nhưng nếu còn tuổi trẻ,
người Việt tỵ nạn nên học tinh thần Isariel chứ đừng theo tinh thần Âu-Mỹ,
"chọn cái hay của người tốt mà theo, chọn cái dở của người không tốt mà sửa"
(trạch kì thiện giả...kì bất thiện giả).
Chúng tôi
không ưa những trang sử của Isariel từ những năm 1963 đến 1975, bởi đó là một
trong vài cái "bất thiện" của họ đối với Tổ quốc Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH). Nhưng ngoài chuyện đó, họ có những tấm gương mạo hiểm - kiên nhẫn, và
hy sinh đáng cho người Việt tỵ nạn chúng ta noi theo, về những kinh nghiệm định
cư - khuếch trương giáo dục - tổ chức các cộng đồng phục quốc.
Nhưng điều
đáng quý hơn hết, là họ gián tiếp vạch cho ta thấy cái tai hại của sự tin tưởng
vào các chính phủ Âu-Mỹ. Họ trước đây, cũng như chúng ta ngày nay, những người
Việt tỵ nạn lưu vong đang bị thế giới coi là một bọn mất gốc, lang thang và
"cực đoan". Nhưng khi Theodor Herzl (1860-1904) hô hào dân Isarile
lưu vong phải tự cứu lấy mình, thì họ đã tự biết cứu lấy mình.
Càng đọc lịch
sử VNCH và Isariel, chúng ta càng thấy đi theo Âu-Mỹ thì luôn "lợi bất cập
hại". Phải là một lãnh tụ tài ba, có thực lực và đức hạnh như Tổng Thống
Ngô Đình Diệm mới không bị họ lợi dụng. Thế nhưng, nếu lỡ gắn bó với họ rồi bị
họ lôi kéo vào chiến tranh như nền đệ nhị VNCH, thì không sớm thì muộn thế nào
cũng khốn đốn và điêu tàn với họ.
Có lẽ, chính
Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng hiểu như vậy...nên từ năm 1959 đến năm 1963, người
đã để ngỏ Chương Trình Chiêu Hồi (Open Arms Program) mà ý nghĩa là thương thuyết
trực tiếp với bọn việt gian cộng sản (VGCS) - "sự trở về của những đứa con
phiêu bạt", mà không muốn đem nước Việt Nam ra làm quân tốt cho hai khối Tự
Do và Cộng Sản trên bàn cờ thế giới.
Nội chỉ điều
đó thôi, đã cho chúng ta nhận ra Tổng Thống Ngô Đình Diệm trí tuệ hơn lũ trí thức
Châu Âu nhiều. Người đã hiểu rõ thế nào là Tư Bản và Cộng Sản, và phải chống lại
sự lôi kéo của HỌ can đảm sống lối sống riêng của mình. Nhưng đó là chuyện sau
khi nền Đệ Nhất VNCH tại miền Nam đã cáo chung. Còn sau này, trong khi chống lại
tập đoàn VGCS chuyên gây tội ác thì đệ nhị VNCH lại bị thế giới coi khinh và kẻ
thù VGCS mỉa mai là NGỤY, là TAY SAI. Tại sao thế?
Kể từ sau Thế
chiến II, hai khối Tự Do và Cộng sản đua nhau chế tạo vũ khí cho thật nhiều -
thật tinh xảo có sức tàn phá ngày càng khủng khiếp. Năm nào cũng có những phát
minh mới, thành thử ra vũ khí nào tối tân nhất, cũng chỉ vài năm hóa ra cổ lỗ. Vậy
thì hàng núi vũ khí cổ lỗ đó họ dùng vào đâu? Họ có phá hủy nó không? Họ có quăng
(liệng) nó xuống biển không? Hay họ tìm cách "tiêu thụ" mà "tiêu
thụ" nó ở đâu? Có "tiêu thụ" trên đất họ không?
Đành rằng
thân phận bi đát của các nước nhược tiểu, do tình thế bắt buộc không thể không
đứng vào phe này hay phe khác. Và tuy người dân miền Nam VNCH trí tuệ, nhưng họ
bị lôi kéo phải bám víu vào bọn tư bản, một thế lực tàn bạo khác không kém gì
CS để chống cộng. Lắm lúc chúng tôi tự hỏi, nếu như Tổng Thống Ngô Đình Diệm
không bị bọn "cấu tướng nô tài" sát hại - các ấp chiến lược
(kibboutz) không bị bỏ ngỏ - các cơ quan tình báo chống VGCS xâm nhập vẫn còn hữu
hiệu nước VN ta đã không bị lôi kéo vào chiến tranh, với những vũ khí cổ lỗ mà
hai khối Tự Do và Cộng sản cung cấp.
Nếu như nền
Đệ Nhất VNCH vẫn còn, người dân miền Nam VN vẫn còn tự lực trồng lúa lấy mà ăn
- tự dệt vải lấy mà mặc - sống riêng lối sống của mình và trên những đồng quê
mơn mởn của miền Nam, hàng ngày vẫn vang lên tiếng hò tiếng hát, chứ đâu có tan
tành - hoang tàn - thấm đầy máu - vùi đầy xương...như cuộc chiến tranh đẫm máu
thời đệ nhị VNCH.
Có lẽ quý bạn
đọc sẽ trách chúng tôi là không tưởng và thiên vị Đệ Nhất VNCH. Chúng tôi không
dám cãi, nhưng dân tộc Do Thái đã cho chúng tôi thấy vài cái không tưởng biến
thành sự thật. Họ chỉ hơn chúng ta - người Việt tỵ nạn, là nhờ biết đoàn kết với
nhau. Họ cũng trí tuệ như Tổng Thống Ngô Đình Diệm là không thể tin tưởng được
gì ở Tư Bản. Vậy thì, sở dĩ chúng ta cho là không tưởng, chỉ vì không biết đoàn
kết chăng? Hay chúng ta vẫn còn u mê, mơ tưởng rằng bọn tư bản Mỹ đang giúp
chúng ta chống cộng? Bài học về sự phục quốc của dân tộc Isariel cũng vô tình
đưa chúng ta - người Việt tỵ nạn, trở về thời lập quốc của tổ tiên - các anh
hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Lê Lợi..v.v..
_ _
Từ thế kỷ thứ
nhất, ở Palestine, sự cai trị của La Mã (LM) ngày càng tàn khốc, khiến dân Do
Thái (DT) càng nổi loạn nhiều lần, và đền Jérusalem bị tàn phá thêm 2 lần nữa.
Người LM cấm họ xây lại đền ở nền cũ, dân tộc DT chính thức mất quốc giamvà
phiêu bạt trên khắp thế giới (giống VNCH)
Mới đầu, họ
tản mác qua miền Tiểu Á (Asie Mineure), rồi qua châu Âu - Bắc Phi – Ethiopie chỉ
còn số ít ở lại trong xứ.
Trước thời
Chúa Jésus sinh ra (Trung cổ), tình cảnh của họ tương đối dễ chịu hơn. Đi tới
đâu, tuy họ cũng bị nghi kỵ - khinh khi bởi người ta nhận ra được tôn giáo của
họ, và cả nét mặt của họ nữa nhưng tất cả thổ dân lúc đó đều không hiếp đáp họ,
và họ cũng trung thành với quốc gia mà họ ở. Nhờ đoàn kết và chịu cực khổ, họ
phát đạt và hợp thành những đoàn thể khá thịnh vượng.
Thời Mohamed
sáng lập ra Hồi giáo, DT cũng sống chung với các dân tộc Ả rập và chính đây là
nguyên nhân, khiến Hồi giáo cũng ảnh hưởng ít nhiều của Do Thái giáo. Mohamed
tuy có trừng trị người dân DT đang sống trên đất Ả rập vì họ đứng về phe
Coréischite, nhưng ông ta cũng coi họ như mọi dân tộc "dị giáo"
khác...nên không kỳ thị dân tộc DT. Do đó, người dân DT sống trên đất Ả rập đã
tham gia vào quân đội của Ả rập để giúp họ xâm lăng các quốc gia phía Tây Nam
châu Âu như Tây ban Nha.
Và cho đến
cuối thế kỷ thứ 19, tình trạng của dân tộc DT ở các quốc gia Hồi giáo cũng không
đến nổi bị kỳ thị quá nhiều bởi vì nguyên nhân là kinh tế, không như tình trạng
bi đát như ở châu Âu.
Những người
châu Âu theo đạo Ky Tô giáo cho rằng dân tộc DT đã giết Chúa Jésus, nên họ thù
ghét dân tộc DT cả hơn ngàn năm. Vào năm 1096, người Pháp và Ý rủ nhau đi giải
mộ cho Chúa Jésus ở Jérusalem và trước khi làm cái việc thiêng liêng đó, họ đã
trả món thù mà hơn 1000 năm trước, dân tộc DT phải chịu trách nhiệm về cái chết
của Chúa Jésus.
Ở Worms, chỉ
trong 2 ngày người ta đã giết hơn 800 người DT, bất kể là đàn ông - đàn bà -
già - trẻ cứ hễ là DT mà không bỏ đạo DT, theo đạo Ky Tô là bị chém bằng gươm -
giáo - cuốc..v.v..
Ở Mayence, cảnh
còn rùng rợn hơn nhiều...bởi người DT chống cự lại, rồi như người dân DT quá
say máu họ quay lại giết chính người cùng đạo DT với họ, giết cả vợ con họ! Quả
thật kinh khủng! Có những bà mẹ đang cho con bú, đã lấy dao hay gươm để cắt cổ
con nhằm cho chúng chết để không về tay của Ky Tô giáo, 700 người DT đã chết
trong vụ đó.
Tổng cộng 2
vụ là 1.500 mạng, đã tạo cho dân tộc DT một tư tưởng mới họ biết rằng không thể
sống chung với người Ky Tô giáo được nữa, bởi vì người Ky Tô giáo càng quyết đổi
đạo họ thì họ càng quyết giữ đạo, giữ truyền thống dân tộc họ. Người Ky Tô giáo
châu Âu thấy vậy, lại càng khắc nghiệt hơn với họ...bắt họ phải mang áo có hình
bánh xe hoặc hình sao David 6 cánh như là tội nhân mang áo dấu vậy.
Đời sống của
dân tộc DT rất bấp bênh, bởi các chính phủ châu Âu muốn trục xuất họ lúc nào
cũng được. Năm 1290, Anh trục xuất họ. Năm 1381, Pháp trục xuất họ. Năm 1492 ra
khỏi Tây ban Nha. Năm 1495 ra khỏi Lithuanie. Năm 1498, ra khỏi Bồ Đào Nha. Kế
đó, họ bị tàn sát đến nổi tại các quốc gia ở bờ biển Đại Tây Dương đã sạch bóng
người dân DT.
Dân tộc DT cứ
đi lang thang, bị trục xuất ở nước này thì qua nước khác, không ở châu Âu được
thì qua Tây Á - Trung Á, và nếu có phương tiện đi lại thì qua Trung Hoa - Mã
Lai - Bắc Mỹ..v.v..Nhưng bất kỳ ở đâu, họ cũng hướng về Jérusalem và mỗi ngày cầu
nguyện 3 lần: "Xin Chúa cho con được thấy cái ngày Chúa trở về Sion"
(Sion là một ngọn đồi ở Jérusalem). Và gần 2000 năm, năm nào họ cũng đều chúc
nhau: "Sang năm về Jérusalem". Bất cứ ai trong người dân DT cũng mong
trở về và đặt chân lên đất Israel, bởi họ tin là sống ở Jérusalem chết sẽ lên
Thiên Đàng.
Theodor
Herzl và cuốn sách Quốc Gia Do Thái
Cho đến thế
kỷ thứ 18, nhờ có một số triết gia tiếng tăm có tinh thần khoáng đạt như
Voltair - Diderot – Montesquyeu đả đảo tinh thần kỳ thị DT giáo và bênh vực họ,
nên tình cảnh của họ ở châu Âu được cải thiện nhiều. Họ được nhập tịch vào các
quốc gia Anh - Pháp - Đức...và thành các công dân bình quyền với các tín đồ Ky
Tô giáo.
Ở Pháp năm
1791, hội nghị lập hiến đã xóa bỏ hết các đạo luật gây bất công với họ.
Napoléon tổ chức lại sự thờ phụng cho họ. Một số người Ky Tô giáo còn giúp đỡ họ
tranh đấu vì quyền lợi, người dân DT phấn khởi họ bèn gây một phong trào, để hô
hào đồng bào DT hãy đồng hóa với dân tộc châu Âu. Người dân DT lúc này đã vui vẻ,
tận lực làm ăn và nhiều người có địa vị, có danh tiếng đã làm vẻ vang cho dân tộc
nào tiếp nhận họ như: Freud - Einstein - Herzl - Spinoza - Heine - Bergson...
Nhưng, ở các
nước Đông Âu...người dân DT vẫn còn bị kỳ thị, nên có một số người Ky Tô giáo
tìm cách đưa họ về Palestine bằng cách: hối lộ với Thổ Nhĩ Kỳ và xin Đức Giáo
Hoàng can thiệp, hoặc vận động dân DT bỏ tiền ra mua đất ở Palestine. Dân Đông
Âu nghĩ rằng, mình không ưa họ thì cho họ về quê hương của họ, chứ giữ họ lại
làm gì? Quê hương của họ là một miền đất cằn cỗi, họ về đó khai phá sẽ có lợi
cho Thổ, và chắc Thổ sẽ đồng ý mà chịu bán cho một giá rẻ.
Thi sỹ Pháp
- Lamartine, mấy lần đi du lịch ở Jérusalem về...cũng hô hào châu Âu hãy tìm
cách trả lại Palestine cho DT. Napoléon lúc còn ở Saint Jean d'Acre, cũng đã
tìm cách tái lập lại một quốc gia DT ở Palestine. Thi sỹ Anh - Byron, cũng than
thở cho thân phận của họ: "khổ hơn những con thú không có hạng". Dư
luận ở châu Âu lúc đó như sách - báo - diễn thuyết cũng khuyến khích dân DT hồi
hương, và yêu cầu chính phủ của các quốc gia châu Âu ủng hộ phong trào.
Thế là hội
Hovévé Tsione (hội những người yêu Sion) được thành lập. DT ở Nga bị ngược đãi
nhiều nhất, nên họ hưởng ứng trước tiên. Họ trở về Palestine và lập được mấy vườn
cam. Năm 1870, họ dựng được một trường canh nông ở Mikvé. Một tỉ phú ở châu Âu
gốc DT - Edmond de Rothschild, một chủ ngân hang đã giúp vốn cho họ mua đất.
Tóm lại, phong
trào hồi hương đã rục rịch nhưng không phát triển mạnh, vì sự kỳ thị lúc đó ở
châu Âu, dù sao cũng còn tương đối dễ chịu, và cũng bởi vì dân DT ở châu Âu
không muốn từ bỏ sự nghiệp ở Pháp - Anh - Đức để về làm ruộng ở Palestine.
Nhưng rồi một biến cố xẩy ra đã làm thay đổi hẳn tư tưởng của họ thêm một lần nữa!
Vụ án
Dreyfus năm 1894 ở Paris.
Bộ quốc
phòng Pháp nghi ngờ Dreyfus, một sỹ quan Pháp gốc DT làm tình báo cho Đức nhưng
không có bằng cớ chắc chắn, nên tòa án cũng không thể xử ông ta tội lưu đày.
Tuy nhiên, dân chúng Paris lại phẫn nộ đòi: "diệt tụi DT"? Hóa ra,
cái tinh thần kỳ thị DT đã nhiễm vào óc họ, hòa trong máu họ cả hơn 1000 năm,
không dễ gì mà gột rửa được! Dreyfus nhất mực kêu oan, với vẻ bề ngoài rất
thành thực và thê thảm đã làm một số người động lòng trắc ẩn, trong đó có nhà
văn Emily Zola. Nhà văn tin rằng Dreyfus vô tội, đã can đảm viết một bài báo bất
hủ với nhan đề là J'accuse (Tôi vô tội), để buộc chính phủ Pháp phải xét lại.
Vụ án
Dreyfus đã làm sôi nổi dư luận châu Âu. Tờ Neue Freie Press ở Vienne (Áo) đã
phái một ký giả nổi tiếng bấy giờ, Théodore Herzl (gốc DT) qua Paris dự cuộc lột
lon của Dreyfus để viết bài tường thuật. Khi thấy Dreyfus mặt mày tái xanh, giọng
nói vô cùng thiểu não thét ra câu: "Tôi vô tội", rồi lại nghe quần
chúng hò hét: "giết chết tụi DT đi"...Théodore Herzl kinh hoảng, toát
mồ hôi!
Kể từ đó, một
ý tưởng đã ám ảnh ông Théodore Herzl rằng dân tộc Pháp có tinh thần khoáng đạt,
trọng tự do và bình đẳng nhất châu Âu, thế mà đối với dân DT còn như vậy, thì
dân DT sống ở đâu mà cho yên được bây giờ? Chỉ còn cách tạo một quốc gia DT được
thế giới công nhận, rồi dắt tất cả nhau về đó mà ở thì mới khỏi bị xua đuổi,
oán thù và nguyền rủa mà thôi!
Nghĩ vậy,
ông liền viết cuốn L'Etat juif (quốc gia DT) xuất bản năm 1896, nội dung trong
đó ông hô hào đồng bào ông thành lập một quốc gia cho riêng mình như sau:
- "Quốc
gia DT là cần thiết cho thế giới, vậy thì thế nào nó cũng sẽ được thành lập(...).
Người DT nào mà muốn có một quốc gia cho riêng mình, thì sẽ có quốc gia và xứng
đáng có quốc gia(...). Chỉ có mình tự cứu lấy mình được thôi, và vấn đề DT...phải
do người DT giải quyết lấy"
(còn tiếp)
QUAN TRUONG
NGÀY 7 THÁNG
4, 2020
0 comments:
Post a Comment