THÍCH NHẤT HẠNH – TÊN VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐỘI LỐT PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG VỆT MÁU TỘI ÁC CỦA „GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT“ - KHỐI ẤN QUANG
Seattle, August. 2012
Phần Audio của bài viết do Chính Khí Việt

61. Cái nhãn hiệu „Thiền sư“ (!) của Thích Nhất Hạnh cũng như vô số những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo khác, xét về những thủ đoạn thực thi chẳng khác gì cách làm của Mao Trạch Đông và đảng cs „Trung quốc“ trong cái gọi là „cách mạng văn hóa“(!) qua bàn tay của đảng cs vn. Ngay từ những năm 1962, khi Thích Nhất Hạnh thay mặt đảng cs vn, trá hình trong lớp áo cà sa „tăng sỹ“ Phật giáo GHPGVNTN đi làm nhiệm vụ „ngoại giao tôn giáo vận“ tại nước ngoài, thì các „đồng chí chuyên trách“ của GHPGVNTN đã chọn ngay cho y một cái tước hiệu „Thiền sư“ vang như chuông, rất „thời thượng“. Loại bỏ ngay từ đầu, và „cách mạng văn hóa“ luôn cách chọn danh xưng khả xứng, cẩn trọng khiêm tốn tối thiểu, ví dụ như „Đại đức“, „chú tiểu“, „Tỳ khưu“, „Sadi“, „Sa môn“ v.v… có vẻ „quê mùa“ dành cho một người „nương náu cửa Phật“ ở độ tuổi của hắn tại Việt Nam vào thời điểm đó.
Dùng „danh xưng khả xứng“ chỉ là một phần nhỏ nhưng bất khả phân, những tinh túy của Giới, Luật trong Giáo Pháp của Đức Phật do Chư Tổ sư nhiều đời hằng truyền thừa, đã trở thành truyền thống trân quý dành cho giới tăng ni, tu sỹ Phật giáo, xuất gia hoặc tại gia khắp nơi trên thế giới. Nhưng đảng cs vn và Thích Nhất Hạnh suy luận cách khác: Nếu „tấm áo cà sa không làm nên một tăng sỹ, vậy thêm cái danh hiệu chắc phải thừa đủ“. Thật là cay đắng cho một số đông giới quần chúng ưa chuộng cầu vọng Phật giáo tại phương Tây, đã từng, và vẫn còn nhẹ dạ cho tới tận hôm nay, vẫn chưa thể hiểu „vì nguyên cớ gì, cách đây trên 2500 năm, Đức Phật Thế Tôn đã không mang cái danh hiệu „Thiền sư“ kêu như chuông kia, đi „đăng ký bản quyền“ tại một sở phát minh sáng chế nào đó cho yên chuyện“.
Như đã dẫn ở trên, bằng những thủ đoạn thâm nhập, đánh lạc hướng và lèo lái một cách có hệ thống những nguồn tin của giới truyền thông, học thuật… ngay trong lòng thế giới phương Tây, đảng cs vn qua tay Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phần nào từng tạo ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch của một phần không nhỏ khối quần chúng tại Phương Tây về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua.
Theo hoạch định của „bộ chính trị“ đảng cs vn tại Hà nội, để có một lực lượng trù bị dồi dào theo sách lược „biển người“ (do các „cố vấn“ đảng cs Tầu „chỉ đạo“, gọi là „chiến tranh nhân dân“), hậu thuẫn cho „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ trong giai đoạn đó, thì sự cần thiết phải hình thành các hội đoàn, „đảng phái chính trị“ trá hình để có thêm nhiều lá phiếu „hợp pháp“, làm sao che đậy được dã tâm xâm lược của đảng cs vn, có ảnh hưởng càng mạnh càng tốt, để khống chế trực tiếp nghị trường thượng hạ viện Việt Nam Cộng Hòa là một thủ đoạn chước kế không thể thiếu.
Nhưng do áp lực căm thù, khát vọng xâm lược dồn nén, „bộ chính trị“ đảng cộng sản vn đành phải tự tay cắt bớt giây thần kinh xấu hổ của chính mình và các đồng chí cs trá hình Phật giáo trước khi đẩy chúng vào „mặt trận“ này. Cho nên sự trơ trẽn bỉ ổi hết còn biết xấu hổ đã trở thành một dị chứng do khuyết tật giải phẫu, không thể và bất cần giấu diếm của đảng cs vn. Khi chúng muốn qua tay GHPGVNTN thể hiện mối „quan tâm Phật Pháp thế quyền“ tại chính trường Việt Nam Cộng Hòa, mà không quên nhấn mạnh „động cơ chính trị“ của một „đảng chính trị Phật giáo“ do chúng giàn dựng đề cử. „Đảng chính trị Phật giáo“ này đã được giàn dựng để ra mắt, đại diện bởi Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh ở bề nổi, và do tên cs trá hình Phật giáo Thích Trí Quang „chỉ đạo“. Cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“ này, tất nhiên, chỉ là xảo kế che đậy dã tâm, nằm trong chương trình xâm lăng của đảng cộng sản Bắc- Việt tại Hà Nội.
Sau đây là một trong những bằng chứng cụ thể, nói về thời điểm manh nha hình thành của cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“, một trong những phiên bản đầu tiên của cái gọi là „Đạo Bụt dấn thân“ hành động, vì một lý tưởng…cộng sản trá hình, do Thích Nhất Hạnh là „chế tác giả“ vào những năm 1966 – 1969:
Theo nguồn: Nguyên ngữ tiếng Anh: King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.
„Đạo“ có thể „làm“, có thể „chỉ“ chẳng phải „Đạo“ chân thật! Vậy „đạo Bụt“ („của tên Thích Nhất Hạnh“) là một thứ không những có thể „làm“, mà hơn thế, hắn và đảng cs vn cứ thả sức tùy tiện „làm mới“ được, là cái gì ? Vậy nên những cái dù „được“ hay „bị làm mới“ kia, rõ ràng là một thứ „đạo đức cách mạng“ trá hình của đảng cộng sản vn! Vì đảng cs vn hiện nay vẫn đang từng ngày cưỡng bức „chỉ đạo“ toàn dân chui vào cũi „mặt trận tổ quốc“, trong đó có GHPGVN trong nước, và, qua „viện hóa đạo“ của GHPGVNTN trá hình tại hải ngoại. Vì thế, đảng csvn „chỉ đạo“ „viện hóa đạo“ GHPGVNTN bao nhiêu, càng chất chứa thêm nhiều tội ác bấy nhiêu. Trá hình tà đạo tội ác đã không thể rửa. Trá hình Phật giáo để gây tội ác thì dù vô lượng kiếp, trời, đất, thiên, nhân bất khả dung.
Những toan tính thủ đoạn của đảng cộng sản vn không hề dừng lại; „Đạo Bụt nhập thế“ sẽ rất „thức thời“, và hợp với thế giới phương Tây tự do, hiện đại“. Nên đảng csvn vẫn có thể đỡ lưng Thích Nhất Hạnh tiếp tục lừa đảo rao bán Phật giáo, và đám quần chúng Phương Tây cầu vọng Phật giáo nhiệt thành nhưng mê muội kia, sẽ chẳng có thể biết được một thứ gì khác, chừng nào họ còn chưa biết, hoặc không muốn biết sự thật, khác với những gì họ bị tẩy não về cuộc chiến tranh tại Việt Nam vừa qua. Trước hết cứ bị lừa vào tròng đã, còn lại bất cần là lý luận của những kẻ hết còn biết gì là trơ trẽn nói trên. Chỉ có đảng cs vn tin rằng các vệt máu tội ác tanh bẩn đã được lau chùi sạch sẽ. Hiện nay Thích Hộ Giác vẫn thường diện thử chiếc mũ „tăng thống“ cho GHPGVNTN tại Mỹ, và Thích Nhất Hạnh lừa lái „đạo Bụt nhập thế“ của đảng csvn trồi lên thụt xuống, theo sát những dòng thời sự tại phương Tây, như „đạo Bụt và ý thức môi sinh“ hoặc „đạo Bụt và ý thức trách nhiệm chính trị“.
Trong tháng 11. 2005 này, Thích Nhất Hạnh đầu tư hàng chục nghìn Dollar (45.000 Dollar) dành để đăng tải hai kỳ quảng cáo cho một thời diễn giảng của hắn vào tối 25. 09. 2001, tại Thánh đường Riverside, trên tờ Thời báo nổi tiếng là tờ „New York Times“, trong đó có đăng đoạn trích dẫn nói trên. Vì chắc mẩm rằng cái giọng lưỡi rắn độc nói tiếng Anh bồi của hắn chỉ để dành cho những cái tai của người Anh, Mỹ và phương Tây nghe được, còn những người đang ở Việt Nam, một cái ngục tù không tường vách, đã bị đảng cộng sản vn “bịt tai rút lưỡi”, tẩy não sạch trơn rồi, thì làm sao mà nghe cho thấu những gì ở bên ngoài, nghe rồi, lấy gì mà hiểu mà nói cho được. Những người Tây phương kia ai biết được Bến Tre ở đâu? Ai hỏi lại làm gì? Nếu có thì y đã có thừa những thủ đoạn „á khẩu“ rành nghề lâu năm để đối phó.
Dân số thị xã thành phố Bến Tre hôm nay (năm 2012) chưa vượt quá 143.639 người. Và tất cả người Việt Nam biết rằng cái „sự kiện“ nêu trên, do tên Thích Nhất Hạnh xúc xiểm tuyên truyền, hoàn toàn là một thứ bịa đặt trắng trợn. Ngoại trừ tập đoàn văn bút trí nô tay sai của đảng cộng sản vn và GHPGVNTN vẫn ngoan cố tìm cách bào chữa chạy tội cho tên Việt gian cộng sản Thích Nhất Hạnh trá hinh Phật giáo này. Cái lưỡi rắn nước đôi của Thích Nhất Hạnh, nhìn cách nào cũng không thể che giấu, chính là của con rắn độc đảng cộng sản vn, với nó, đồng bào Việt Nam trong nước và khắp nơi trên thế giới đã có thật nhiều kinh nghiệm cay đắng và đau thương.
Cho nên, âm hưởng của người dân New York trong giờ phút kinh hoàng vì mất mát tổn thất sau vụ "khủng bố", đối lại những lời xúc xiểm đâm thọc và bịa đặt của Thích Nhất Hạnh thật rõ ràng: „Thích Nhất Hạnh, hãy cút đi! „ („Thich Nhat Hanh Go Home !“).
Đơn cử hai ví dụ: Một, là „Chùa Bái Đính“ mới hoàn thành tại Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam, về thực chất, chỉ là một bản sao của sự tham vọng, được thể hiện qua phong cách kiến trúc kiểu… Tầu. Đảng cộng sản vn hiện tại là kẻ „chủ đầu tư“ và „sở hữu“ nó, một khi đã học được cách „quản lý tôn giáo“ không thể chỉ dừng lại ở „khống chế“ mà phải „đầu tư tôn giáo“ để thủ lợi theo kiểu đảng cộng sản Tầu, dù „chậm lụt“, nhưng lòng tham lại vượt trội, tất nhiên cũng muốn đồng tiền đã cướp bóc được của nhân dân từ nhiều thập niên qua, bỗng chốc được nhân lên ấp bội. Cho nên ngôi „chùa“ này thực sự đã „vĩ đại“ hơn nhiều những ngôi xếp vào hàng „Đại tự“, trong „Tử Cấm Thành“, tại Bắc Kinh.
Hai, là „chùa Hồ“, một trong vô số những chứng tích tội ác của đảng cộng sản vn qua những thủ đoạn „thần thánh hóa“ tên đại Việt gian Hồ Chí Minh. „Chùa Hồ“ tại tỉnh Bình Dương, miền Nam Việt Nam đã phá vỡ nhiều „cơn sốt kỷ lục Phật giáo“. „Thượng tọa“ ở hàng trước, trên bệ thờ của „chùa“ là bức tượng quá cỡ của Hồ ngồi ghế mây, tất cả đều mạ vàng ròng 24 Karat. Khách hành hương muốn tỏ lòng kính ngưỡng lễ lậy Đức Phật và các vị Thần, Anh hùng Dân tộc, ngồi ở hàng sau, xin cứ tự nhiên! Lòng thành kính qua sự lễ lậy của những người dân đã bị tẩy não này trước hết, đã được đảng cộng sản vn lợi dụng dành cho hình tượng tên „bố già“ xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh và đám hậu sinh không thể từ bỏ được thói ăn trên ngồi trước kia, còn xác Hồ thì đang phải cười nham hiểm, loại nụ cười của những cái xác chết khô không được chôn cất, tại một nơi khác, nằm về phía Bắc Hà Nội. Vì trong „lăng Hồ“ tại Ba Đình, xác hắn đã được thay thế từ lâu bởi một hình nộm bằng sáp.
Phần nội thất của „Chùa Hồ“ được xây dựng đa phần bằng vật liệu quý hiếm, được bảo quản bằng máy điều hòa nhiệt độ và canh gác cẩn mật không kém cái „lăng Hồ“ nói trên tại Hà Nội. Những khách hành hương muốn giải trí và tiêu cho hết tiền sau khi lễ lậy Hồ thỏa thuê, còn muốn đi, để chiêm ngưỡng cho hết quần thể „chùa Hồ“, có loại hình „kiến trúc Disney Land“, thuộc loại kiến trúc ăn xổi ở thì của trào lưu „kiến trúc giả tạo“, nằm trong quần thể du lịch „Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến“, họ chỉ có thể dùng xe chạy điện do các công ty của đảng bao thầu, đang nhẫn nại mỉm cười, lừa lái đưa đón khách.
Cứ mỗi lần đảng cộng sản vn „đổi mới“, là con số những người bị bắt giam, cầm tù, quản chế vì thực sự lên tiếng vạch mặt tố cáo đảng cộng sản vn là một lũ Việt gian, lại tăng lên nhiều hơn. Cái thòng lọng tròng lên cổ đồng bào Việt Nam đang bị cai trị sẽ thắt chặt hơn, để quyền lực thống trị và cai trị của đảng cs vn bớt bị lung lay hơn.
Tất cả những gì thuộc về ý chí, tri thức, lòng yêu nước, và sức mạnh phản kháng của đồng bào Việt Nam… chỉ để bị đảng cs vn lợi dụng cướp trắng, hoặc hướng vào hết những „trận địa giả“ này, đến những „lễ hội tôn giáo mê hồn“ khác. Chỉ nhắc lại những luận điệu do đảng cs cò mồi, tẩy não, không thể nhận ra cái đại họa to lớn nhất của dân tộc trước mắt, chính là: Đảng cộng sản Việt Nam đã là một tập đoàn Việt-gian từ trong trứng nước và trong hiện tại! Chúng chính là kẻ nội thù số một và là kẻ thù trước mắt của dân tộc Việt Nam! Chúng đang từng ngày đàn áp nhân dân, để có thể bán hết đất nước, tài nguyên, lãnh thổ cho Tầu Hán và các thế lực tài phiệt quốc tế, giúp đảng cs Tầu đồng hóa dân tộc Việt Nam, xáp nhập Việt nam vào nước Tầu đại Hán „Trung cộng“. Chúng chính là kẻ Việt gian nội thù đại phản tặc, đáng phải bị trừng trị đập tan ngay trước nhất !
Nhưng tất cả những gì nêu ở đây, chỉ là một phần nhỏ của cái gọi là „tự do tôn giáo“ dưới ách cai trị của đảng cộng sản tại đất nước Việt Nam hôm nay.
68. Một trong những „nền tảng hạ tầng cơ sở“ của đảng cộng sản vn tại nước ngoài, dành làm môi trường ẩn náu cho các hoạt động của đám cán bộ cộng sản trong và ngoài GHPGVNTN hiện tại, phần nhiều, chính là do sự hình thành và phát triển của những „chi hội Phật tử Việt Nam tỵ nạn“ sau ngày 30.Tháng Tư. 1975 tại các nước có người Việt Nam xin tỵ nạn. Phần lớn những chi hội Phật tử này, đều có những „gia đình Phật tử“ kèm theo. Ngay từ những ngày thành lập, đã có sự trà trộn lèo lái của đám cán bộ cộng sản nằm vùng, và những tên tay sai Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, sau này còn có thêm „Việt Tân“ trá hình.
Theo dòng người tỵ nạn, trong những cái gọi là „Gia đình Phật tử“ và vô số các tổ chức vệ tinh tay sai của GHPGVNTN nói trên, chưa thấy phần đông những số người này có ý định muốn „từ bỏ giai cấp“ nô lệ nói trên. Vì không thể biết rằng, đảng cộng sản vn đã dầy công mang cái dịch vụ béo bở „xin được làm Tam Bảo Nô“ đó đến tận nơi nước sở tại, là nơi họ đang xin „tỵ nạn Việt gian cộng sản“. Để rồi, cũng đảng cộng sản Việt Nam, qua tay GHPGVNTN, Việt Tân và Thích Nhất Hạnh đã dùng chính công sức của những người tỵ nạn, dựng nên những ngôi „Chùa“ cho những đồng chí của đảng „trụ trì“, quảng bá khuyến khích người tỵ nạn đến „lậy lục xin xỏ“ và cứ „tùy tâm“ nộp „lệ phí“ cho cái „dịch vụ“ nêu trên qua hình thức „cúng dường tam bảo“. Thật đắt và cay đắng, cái giá của sự nô lệ tâm thức.
Một trong những gợi ý nhỏ dưới đây có thể là một ví dụ góp phần nào soi sáng mối quan hệ „nhân quả nghiệp báo“ của „hiện tượng nô lệ Tam Bảo“ nói trên. Ví dụ này có hai vế, nay chỉ nói một, đại ý như sau: „Tường ngục xây bằng đá, giam mãi cũng có ngày ra. Tường ngục xây bằng tâm thức thì bất khả“. Nói gần hơn: Một người tâm thức còn ở trong ngục, dù nói hay làm, vẫn thường tự trói mình, dù bản thân họ, từ lâu đã sống dưới trời tự do. „Tam Bảo Nô“ còn gọi là „Ba lần Nô lệ“. (Phần chi tiết, xin xem phần 2, nguyên ngữ tiếng Đức, sau bài viết này).
Những vị dân biểu địa phương, là công dân và có quốc tịch Mỹ (đa phần gốc Á Châu) được sự mồi chài giàn dựng của giới điệp báo Việt gian cs nằm vùng tại địa phương, hoặc hoạt động trên bề nổi, có an ninh Việt gian cộng sản trá hình đảng „Việt Tân“ hứa hẹn, sẽ được sự ủng hộ bởi một số lượng (không có thực) của những đông đảo cử tri Phật tử do GHPGVNTN „chỉ đạo“, nên họ có thể yên tâm ra ứng cử tại các đơn vị bầu cử chính quyền địa phương Tiểu bang. Sau đó, dù họ có thành đạt hay không, để có thể „tái tranh cử“, sẽ là những màn kịch „đi lại“ với lũ Việt gian cs trá hình Phật giáo trong những vai trò „cao tăng“ hoặc „tăng thống“ của GHPGVNTN.
Có những tên „dân biểu“ trá hình, là tay sai của Việt gian cộng sản đã bị lật tẩy, còn muốn lập hẳn một tuyến hàng không quốc tế từ Mỹ tới Việt Nam, để „đàm đạo“ trực tiếp với… đảng Việt gian cộng sản. Hoặc đảng Việt gian cộng sản có thể qua đó trực tiếp thông qua luật pháp Mỹ để „nhuộm đỏ“ cộng đồng người Việt Nam ty nạn tại hải ngoại. Bằng cách này, đại khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại hải ngoại, ít nhất là tại Mỹ cũng sẽ giống như ở Việt Nam quốc nội, bị đảng cs chặn họng bóp cổ mà chết.
Hàng loạt những sự móc nối câu kết giữa những tên Việt gian cộng sản trá hình và các vị tân dân biểu, nghị viên trong các cấp chính quyền địa phương tiểu bang và liên bang, tiêu biểu là tại Mỹ đều đã bị đồng bào Việt Nam tại hải ngoại tố giác và lật tẩy, cho thấy, những „nghị quyết“ trên từ xưa đến nay, chỉ là một trong vô số những thủ đoạn tội ác của đảng Việt gian cộng sản.
72. Những „hoạt động tôn giáo nổi bật“ tại các cơ sở của GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh tại hải ngoại, ví dụ như „Làng Mai“ tại Pháp, hoặc „chùa Điều Ngự“ của tên Thích Chánh Lạc, Thích Viên Lý tại Mỹ, hoặc „Viên Giác“, Phật Huệ“ .v.v. của tên Thích Như Điển tại Đức, đã tập trung „chuyên tu hóa“ vào những lĩnh vực „dịch vụ xã hội“. Để có thể kiếm được thật nhiều và rửa được thật nhiều tiền cho đảng Việt gian cộng sản, tất cả các cơ sở nêu trên đều đã tập trung mọi nhân lực tiềm năng và thời gian cho „nghề làm từ thiện“.
Để có thể móc thêm được nhiều tiền hơn nữa một cách „kín đáo“ từ hầu bao của người phương Tây hảo tâm nhẹ dạ, chúng đã không chừa một kế sách nào. Một trong những thủ đoạn quen thuộc mà kẻ hung thủ là đảng Việt gian cs thường khai thác tối đa, là đem các nạn nhân của nó: các trẻ em nghèo thương tật ra trình diễn sự thảm thương khốn khó, và lập lờ thêm vào sau danh từ „nạn nhân“ hai chữ „chiến tranh“ để đánh động lòng trắc ẩn. Theo những dữ liệu thống kê sơ bộ đặc biệt khiêm tốn vào năm 2010, thì mỗi năm người Việt Nam hải ngoại đã gửi về Việt Nam một số ngân khoản trên 2 tỷ Dollar. Đối với đảng Việt gian cộng sản và bộ máy nhà nước ngụy quyền bù nhìn, thì số ngân khoản trên thật như những quả sung rụng bằng vàng, vừa đủ để giữ cho nó khỏi bị chết chìm.
73. Cái gọi là “Phòng thông tin Phật giáo quốc tế“ „IBIB-International Buddhist Information Bureau“ http://www.queme.net/eng/news_detail.php?numb=812 với trụ sở tại Paris là đại diện chính thức của cái gọi là „Văn phòng 2 - Viện hóa đạo GHPGVNTN“ tại nước ngoài. Chỉ một chi tiết thật nhỏ sau đây đã thừa đủ cho thấy đám tay sai của đảng cs vn là GHPGVNTN tại Đức, từ trên xuống dưới đã tự đấu tố vạch mặt cái „lý lịch“ Việt gian cs của nhau khi „dịch“ chữ „Viện Hóa Đạo“ sang tiếng Đức (trích dẫn nguyên văn) là „Propaganda Institut“. Hai cơ sở „Lá bối“ và Quê Mẹ“ là một trong những nơi phát tán, thông tin độc hại của Thích Nhất Hạnh và người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, cùng hai tên Võ Văn Ái và Penelope Faulkner.
Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái không phải là một cái tên mới lạ. Hắn và Walter Fabian, một tên cộng sản Đông-Đức cũ, cả hai là những tên đầu xỏ, thường tổ chức những cuộc biểu tình phá rối ủng hộ cộng sản với những khẩu hiệu xách động trá hình „chống chiến tranh Việt Nam„ và đã từng bị cảnh sát Tây-Đức bắt giữ vào đêm ngày 8 rạng ngày 09.05.1967 tại Munich-Bavaria (München-Bayern). http://www.ebay.com/itm/1967-Press-Photo-demonstrators-organisation-against-war-Virtnam-/251066804539
75. Một trong những địa điểm chính, thường là nơi xuất phát các hoạt động đánh phá cộng đồng người Việt Nam ty nạn của hai tên Việt gian tay sai Võ Văn Ái và Pelelope Faulkner hiện nay là „ chùa Điều Ngự“ tại California - 92683, USA. Từ đây chúng dùng „văn phòng 2 viện hóa đạo - GHPGVNTN“ làm phương tiện phun nọc độc tuyên truyền cho đảng cộng sản vn, tô vẽ tên tuổi, đánh bóng xóa tội ác cho những tên Việt gian cộng sản trá hình „tăng thống Phật giáo“. Thích Quảng Độ hoặc Thích Nhất Hạnh thường là những tên được tập đoàn văn bút trí nô, tay sai Việt gian cộng sản tâng bốc, để mồi chài đánh lừa dư luận „đề cử“ những tên tội đồ này ra làm ứng viên „giải thưởng Nobel Hòa bình“.
Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái thường rêu rao lợi dụng vai trò „phát ngôn nhân“ „đại diện cho GHPGVNTN trong nước và hải ngoại“ để lừa lái dư luận tại phương Tây, hòng „hợp thức hóa“ tư cách trá hình „tỵ nạn“ cho hàng loạt lũ cán bộ do đảng Việt gian cộng sản từ Việt Nam gửi qua cài cắm, trong những vỏ bọc „nhà sư Phật giáo tỵ nạn“ đểu, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội…trá hình.
Nấp sau chiêu bài „tôn giáo“ và những cái „bẫy trận địa giả“ do đảng Việt gian cộng sản giàn dựng, Võ Văn Ái cũng như Thích Nhất Hạnh, gài bẫy, bòn rút tiền bạc, lòng tin của những người Việt Nam tỵ nạn mắc chứng „hay quên“, cùng người phương Tây hảo tâm „nhẹ dạ“, gửi về nuôi đảng Việt gian cs tại Việt Nam, qua những tổ chức „từ thiện xã hội“ trá hình. (Một trong số đó, ví dụ như „Maitreya Fond“.v.v.).
76. Tất cả những cái gọi là phong trào „đấu tranh“ trá hình, đòi hỏi „dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam“ do đảng Việt gian cs giàn dựng cho tay sai của chúng là GHPGVNTN, Nhất Hạnh, Quảng Độ, Võ Văn Ái và Việt Tân… thực thi, đều bị đại khối cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền vgcs tại hải ngoại phát giác lật tẩy, lên án và tẩy chay. Đại đa phần những vụ việc này đều đã được đăng tải công khai trên liên mạng thông tin toàn cầu „internet“ (được cập nhật từng ngày), cũng như bằng vô số những tác phẩm, ấn phẩm đủ mọi thể loại truyền thông văn hóa nghệ thuật… phong phú khác. Tất cả lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo, Thiên Chúa giáo…, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội xảo trá đủ loại và vô số tay sai, không xót một tên nào, do đảng vgcs gửi ra cài cắm bất kể là công khai hay bí mật tại hải ngoại, đều đã và sẽ cùng phải chung một số phận.
Vì giọng điệu và hành tung (…) của chúng dù có ngụy trang biến tướng cách gì cũng không thể che giấu được dã tâm và tội ác Việt gian bán nước, phản dân tộc của đảng cộng sản Việt Nam. Chúng câm lặng hoặc làm ngơ, hoặc cố tình lèo lái xuyên tạc bôi xóa, khỏa lấp một sự thật lịch sử là: Chính tập đoàn đcsvn và tay sai là những kẻ nội thù phản tặc, chính là hung thủ, là kẻ chủ phạm đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho đảng cộng sản „Trung quốc“, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng.
Đơn cử một ví dụ nhỏ trong hiện tại: Tất cả các phong trào, biểu tình và đòi hỏi chính đáng của đồng bào Việt Nam bị trị tại quốc nội, đặc biệt là giới trẻ vùng lên thể hiện ý chí yêu nước bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong các sự kiện biên giới, hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa do „Trung cộng“ xâm lược chiếm giữ, đều bị đảng csvn lợi dụng hoặc dùng tất cả mọi phương tiện, huy động lực lượng công an côn đồ và một số đông đảo lũ tội phạm hình sự bị khiển dụng, đàn áp khủng bố, bắt bớ, giam giữ và tra tấn một cách dã man. Không có lấy một tên Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo GHPGVNTN hoặc một tên „tăng thống“ nào có thể một lần tạm bỏ thói „á khẩu“ để nói, dù chỉ một câu cho trôi chẩy mà không biết mười mươi rằng: Những gì chúng nói ra, nếu không có đảng cs vn canh chừng bằng họng súng, thì chúng lấy chỗ nào để đứng mà nói. Nếu có thì phải „độn thổ“ ngay sau khi nói, nếu không muốn bị đồng bào Việt Nam khắp nơi trên thế giới đồng thời vả vào mồm chúng sau mỗi một câu chúng nói ra.
Vì lực lượng „bảo kê“ của đảng cs vn vẫn kè kè bên cạnh, nên Thích Quảng Độ chẳng những giám liều chết dại mồm xảo ngữ kinh niên, mà còn thi thoảng chế tác ra lời kêu gọi: „Bất tuân dân sự“, “Biểu tình tại gia“. Theo đó mỗi người Việt Nam muốn thể hiện sự chống đối xin hãy „ở nhà, đóng cửa và làm việc đó ở trong chăn cho kín đáo“. Bởi vậy, tên Thích Quảng Độ vẫn thường phải khoa chân múa tay che miệng nhỡ ăn phải vả, khó toàn bộ răng tuổi già là vì thế, vì ngày „độn thổ“ của hắn đã hết hạn từ lâu.
Seattle, August. 2012
Thái A
Diễn Đàn Sức Mạnh Sự Thật - Yahoo Group thực hiện:
(Từ đoạn 1 đến 82)
Anh Đào tựa dịch từ nguyên bản tiếng Đức
với sự đồng ý của nguyên tác giả Thái A.
Theo nguồn: Vietnam - Buddhist
Khi nhận được bản dịch tiếng Anh chúng tôi sẽ bổ khuyết
Trân trọng
Moderator
Theo nguồn: Vietnam - Buddhist
Khi nhận được bản dịch tiếng Anh chúng tôi sẽ bổ khuyết
Trân trọng
Moderator

Bức cận ảnh của „Nguyễn Xuân Bảo ở độ tuổi 30, đầu tóc xanh rờn“ đã tự nó đấu tố cái chi tiết „đi tu từ năm 16 tuổi…“ (mười sáu tuổi) trong „tiểu sử lý lịch“ của Thích Nhất Hạnh và cũng khai ra luôn ai là tác giả của „tiểu sử lý lịch“ này. Phần chi tiết xin xem phần 2 sau bài viết này.
61. Cái nhãn hiệu „Thiền sư“ (!) của Thích Nhất Hạnh cũng như vô số những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo khác, xét về những thủ đoạn thực thi chẳng khác gì cách làm của Mao Trạch Đông và đảng cs „Trung quốc“ trong cái gọi là „cách mạng văn hóa“(!) qua bàn tay của đảng cs vn. Ngay từ những năm 1962, khi Thích Nhất Hạnh thay mặt đảng cs vn, trá hình trong lớp áo cà sa „tăng sỹ“ Phật giáo GHPGVNTN đi làm nhiệm vụ „ngoại giao tôn giáo vận“ tại nước ngoài, thì các „đồng chí chuyên trách“ của GHPGVNTN đã chọn ngay cho y một cái tước hiệu „Thiền sư“ vang như chuông, rất „thời thượng“. Loại bỏ ngay từ đầu, và „cách mạng văn hóa“ luôn cách chọn danh xưng khả xứng, cẩn trọng khiêm tốn tối thiểu, ví dụ như „Đại đức“, „chú tiểu“, „Tỳ khưu“, „Sadi“, „Sa môn“ v.v… có vẻ „quê mùa“ dành cho một người „nương náu cửa Phật“ ở độ tuổi của hắn tại Việt Nam vào thời điểm đó.
Dùng „danh xưng khả xứng“ chỉ là một phần nhỏ nhưng bất khả phân, những tinh túy của Giới, Luật trong Giáo Pháp của Đức Phật do Chư Tổ sư nhiều đời hằng truyền thừa, đã trở thành truyền thống trân quý dành cho giới tăng ni, tu sỹ Phật giáo, xuất gia hoặc tại gia khắp nơi trên thế giới. Nhưng đảng cs vn và Thích Nhất Hạnh suy luận cách khác: Nếu „tấm áo cà sa không làm nên một tăng sỹ, vậy thêm cái danh hiệu chắc phải thừa đủ“. Thật là cay đắng cho một số đông giới quần chúng ưa chuộng cầu vọng Phật giáo tại phương Tây, đã từng, và vẫn còn nhẹ dạ cho tới tận hôm nay, vẫn chưa thể hiểu „vì nguyên cớ gì, cách đây trên 2500 năm, Đức Phật Thế Tôn đã không mang cái danh hiệu „Thiền sư“ kêu như chuông kia, đi „đăng ký bản quyền“ tại một sở phát minh sáng chế nào đó cho yên chuyện“.
Như đã dẫn ở trên, bằng những thủ đoạn thâm nhập, đánh lạc hướng và lèo lái một cách có hệ thống những nguồn tin của giới truyền thông, học thuật… ngay trong lòng thế giới phương Tây, đảng cs vn qua tay Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phần nào từng tạo ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch của một phần không nhỏ khối quần chúng tại Phương Tây về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua.
62. Cũng như cụm từ „Kommunismus“ đã dẫn ở trên, „Đạo Bụt dấn thân“, sau này được „biến thoái“ thành „đạo Bụt nhập thế“ (!). “Engaged Buddhism“ hoặc „Engagierte Buddhismus, xuất phát bởi cụm từ gốc (ở tiếng Đức là „Engagement“ : „Trách nhiệm“, „nhiệt tình“ „dấn thân“, „hành động“…vì một „lý tưởng nào đó“). Cụm từ này đã được giọng lưỡi của Thích Nhất Hạnh và GHPGVNTN khai thác lợi dụng tối đa, từ đầu những năm 1960 cho đến tận ngày hôm nay.
Cũng như vô số các „phong trào“ trá hình khác của GHPGVNTN và „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“ vào những năm 1963 và những năm sau đó, cái gọi là „đạo Bụt dấn thân“ do tên Thích Nhất Hạnh tái chế (vào thời điểm này còn là „Đạo Phật dấn thân“) thực sự là một thứ khẩu hiệu tuyên truyền tẩy não lợi hại của đảng cs vn trên „mặt trận ngoại-giao – tôn-giáo“, một trong các „mặt trận“ của đảng cs vn trong cuộc chiến xâm lăng VNCH. Món bả độc này được pha trộn kỹ trong từng xuất cơm chay tươi sắc mầu „Phật giáo“ của các miền „gia đình Phật tử Việt Nam“, dùng làm động cơ để đoàn ngũ hóa, khiển dụng các tầng lớp thanh thiếu niên Phật tử háo hức nhẹ dạ, tập hợp lực lượng trù bị này cho những cuộc xuống đường biểu tình, gây rối phản loạn của những „lực lượng PG tranh thủ cách mạng“, „Phật giáo tranh đấu, bảo vệ Pháp nạn“,“chiến đoàn Phật tử Trần Đại Thức“ v.v., đánh phá chính quyền trung ương VNCH, do những tên cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ… xách động.
Theo hoạch định của „bộ chính trị“ đảng cs vn tại Hà nội, để có một lực lượng trù bị dồi dào theo sách lược „biển người“ (do các „cố vấn“ đảng cs Tầu „chỉ đạo“, gọi là „chiến tranh nhân dân“), hậu thuẫn cho „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ trong giai đoạn đó, thì sự cần thiết phải hình thành các hội đoàn, „đảng phái chính trị“ trá hình để có thêm nhiều lá phiếu „hợp pháp“, làm sao che đậy được dã tâm xâm lược của đảng cs vn, có ảnh hưởng càng mạnh càng tốt, để khống chế trực tiếp nghị trường thượng hạ viện Việt Nam Cộng Hòa là một thủ đoạn chước kế không thể thiếu.
Nhưng do áp lực căm thù, khát vọng xâm lược dồn nén, „bộ chính trị“ đảng cộng sản vn đành phải tự tay cắt bớt giây thần kinh xấu hổ của chính mình và các đồng chí cs trá hình Phật giáo trước khi đẩy chúng vào „mặt trận“ này. Cho nên sự trơ trẽn bỉ ổi hết còn biết xấu hổ đã trở thành một dị chứng do khuyết tật giải phẫu, không thể và bất cần giấu diếm của đảng cs vn. Khi chúng muốn qua tay GHPGVNTN thể hiện mối „quan tâm Phật Pháp thế quyền“ tại chính trường Việt Nam Cộng Hòa, mà không quên nhấn mạnh „động cơ chính trị“ của một „đảng chính trị Phật giáo“ do chúng giàn dựng đề cử. „Đảng chính trị Phật giáo“ này đã được giàn dựng để ra mắt, đại diện bởi Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh ở bề nổi, và do tên cs trá hình Phật giáo Thích Trí Quang „chỉ đạo“. Cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“ này, tất nhiên, chỉ là xảo kế che đậy dã tâm, nằm trong chương trình xâm lăng của đảng cộng sản Bắc- Việt tại Hà Nội.
Sau đây là một trong những bằng chứng cụ thể, nói về thời điểm manh nha hình thành của cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“, một trong những phiên bản đầu tiên của cái gọi là „Đạo Bụt dấn thân“ hành động, vì một lý tưởng…cộng sản trá hình, do Thích Nhất Hạnh là „chế tác giả“ vào những năm 1966 – 1969:
Theo nguồn: Nguyên ngữ tiếng Anh: King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.
Thich Ho Giac, Thich Thien Minh und Thich Tri Quang, die KP Agenten im Mönchsgewand, bei der Bekanntmachung der Parteigründung ihrer „Buddhistischen Politischen Partei –Vietnamese Buddhist Force“
*
(Trong ành: Hàng trước, từ trái sang) Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh, và Thích Trí Quang, những tên cộng sản trá hình trong lớp áo tăng sỹ Phật giáo trong lễ ra mắt thành lập đảng: „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam – Vietnamese Buddhist Force“.
Bởi vậy, xét về thực chất, cũng như tất cả các tôn giáo và truyền thống tâm linh khác tại Việt Nam bị đảng cs vn lợi dụng, „đạo Bụt dấn thân“ chỉ là cái „mặt nạ mới“ của một trong vô số những thủ đoạn cũ được tân trang, hòng làm biến thoái „Đạo Phật“ để tiếp tục khiển dụng. Bất kể được che đậy bằng những mặt nạ tinh vi như thế nào, cũng không thể che giấu được một sự thật là: Chừng nào đảng cs vn còn chưa bị đập tan, thì chừng đó các tôn giáo (ở đây là „Đạo Phật“) tại Việt Nam, hay những đại diện trá hình của nó tại nước ngoài, còn là một thứ công cụ ngụy trang hữu hiệu, che chắn bảo vệ quyền lực của đảng cộng sản vn.
„Đạo“ có thể „làm“, có thể „chỉ“ chẳng phải „Đạo“ chân thật! Vậy „đạo Bụt“ („của tên Thích Nhất Hạnh“) là một thứ không những có thể „làm“, mà hơn thế, hắn và đảng cs vn cứ thả sức tùy tiện „làm mới“ được, là cái gì ? Vậy nên những cái dù „được“ hay „bị làm mới“ kia, rõ ràng là một thứ „đạo đức cách mạng“ trá hình của đảng cộng sản vn! Vì đảng cs vn hiện nay vẫn đang từng ngày cưỡng bức „chỉ đạo“ toàn dân chui vào cũi „mặt trận tổ quốc“, trong đó có GHPGVN trong nước, và, qua „viện hóa đạo“ của GHPGVNTN trá hình tại hải ngoại. Vì thế, đảng csvn „chỉ đạo“ „viện hóa đạo“ GHPGVNTN bao nhiêu, càng chất chứa thêm nhiều tội ác bấy nhiêu. Trá hình tà đạo tội ác đã không thể rửa. Trá hình Phật giáo để gây tội ác thì dù vô lượng kiếp, trời, đất, thiên, nhân bất khả dung.
63. Vì cưỡng lệnh đảng, tên Thích Thiện Minh đã bị các đồng chí của đảng cs trừng phạt loại bỏ, bị tra tấn đến chết trong tù năm 1978. Thích Hộ Giác và Thích Nhất Hạnh vẫn ngoan cố đeo đuổi sự nghiệp Việt gian của đảng cộng sản Việt Nam, là tiếp tục giăng bẫy phát triển „đường lối chính trị“ của „đảng chính trị Phật giáo“ này tại phương Tây. Cùng với người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, Thích Nhất Hạnh đã trở thành giới „lãnh đạo“ của đảng này tại phương Tây, nhưng dưới cái tên trá hình trái khoáy, khiên cưỡng: „Đạo Bụt nhập thế “. Nhưng với thế giới Phương Tây tự do thì bất kỳ thứ gì, một cơ hội để trở thành „hợp thời“, kể cả những món bả độc cộng sản mầu mè trá hình Phật giáo trên đây, cũng chỉ là vấn đề thời gian.
64. Theo nghĩa này, một „cơ hội“ đặc biệt „hợp thời“ cho Thích Nhất Hạnh cũng đã đến, khiến y không thể không lợi dụng để thi thố công khai nơi công cộng cái „ý thức, trách nhiệm chính trị“ đểu giả có một không hai của đảng cs vn qua cách thể hiện trơ trẽn khả ố của „đạo Bụt nhập thế“, là thừa dịp vụ tấn công của quân "khủng bố" vào hai tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới ngày 11. 09. 2011 tại New York, USA.
Nhân một thời nói chuyện trong một Thánh đường tại New York, hắn nêu ra một „sự kiện“ khác, cố tình gán ghép „sự kiện“ đó với cuộc tấn công "khủng bố" đặc biệt nghiêm trọng này. Đó là con số „300.000 (ba trăm nghìn) nạn nhân Việt Nam“ của một thị xã, nay là thành phố Bến Tre, „bị bom Mỹ sát hại“ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trích dẫn nguyên văn: …"I wrote this poem during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300.000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound". Trích dịch, theo nguồn “Google”: “… Tôi đã viết bài thơ này trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam sau khi được nghe thành phố Bến Tre bị bỏ bom hủy diệt. Thành phố 300,000 ngàn dân đã bị hủy diệt chỉ vì bẩy du kích bắn năm ba tràng đạn phòng không một cách không hiệu quả rồi bỏ đi. Lòng đau đớn của tôi thật tột cùng.“
Trong tháng 11. 2005 này, Thích Nhất Hạnh đầu tư hàng chục nghìn Dollar (45.000 Dollar) dành để đăng tải hai kỳ quảng cáo cho một thời diễn giảng của hắn vào tối 25. 09. 2001, tại Thánh đường Riverside, trên tờ Thời báo nổi tiếng là tờ „New York Times“, trong đó có đăng đoạn trích dẫn nói trên. Vì chắc mẩm rằng cái giọng lưỡi rắn độc nói tiếng Anh bồi của hắn chỉ để dành cho những cái tai của người Anh, Mỹ và phương Tây nghe được, còn những người đang ở Việt Nam, một cái ngục tù không tường vách, đã bị đảng cộng sản vn “bịt tai rút lưỡi”, tẩy não sạch trơn rồi, thì làm sao mà nghe cho thấu những gì ở bên ngoài, nghe rồi, lấy gì mà hiểu mà nói cho được. Những người Tây phương kia ai biết được Bến Tre ở đâu? Ai hỏi lại làm gì? Nếu có thì y đã có thừa những thủ đoạn „á khẩu“ rành nghề lâu năm để đối phó.
Dân số thị xã thành phố Bến Tre hôm nay (năm 2012) chưa vượt quá 143.639 người. Và tất cả người Việt Nam biết rằng cái „sự kiện“ nêu trên, do tên Thích Nhất Hạnh xúc xiểm tuyên truyền, hoàn toàn là một thứ bịa đặt trắng trợn. Ngoại trừ tập đoàn văn bút trí nô tay sai của đảng cộng sản vn và GHPGVNTN vẫn ngoan cố tìm cách bào chữa chạy tội cho tên Việt gian cộng sản Thích Nhất Hạnh trá hinh Phật giáo này. Cái lưỡi rắn nước đôi của Thích Nhất Hạnh, nhìn cách nào cũng không thể che giấu, chính là của con rắn độc đảng cộng sản vn, với nó, đồng bào Việt Nam trong nước và khắp nơi trên thế giới đã có thật nhiều kinh nghiệm cay đắng và đau thương.
Cho nên, âm hưởng của người dân New York trong giờ phút kinh hoàng vì mất mát tổn thất sau vụ "khủng bố", đối lại những lời xúc xiểm đâm thọc và bịa đặt của Thích Nhất Hạnh thật rõ ràng: „Thích Nhất Hạnh, hãy cút đi! „ („Thich Nhat Hanh Go Home !“).
65. Có một thực tại trâng tráo nhưng là sự thật, đó là Phật giáo nói chung, và đặc biệt là Thiền nói riêng đã từ lâu, chỉ được đảng cộng sản vn, GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh coi như một thứ gì đó để lợi dụng, bất kể gọi nó là thứ gì. Nhưng Thiền càng ngày được coi là một thứ „thương phẩm tâm linh“ chiến lược béo bở, lợi hại, và giờ đây nhất thiết phải được „làm mới“, quảng bá rao bán theo những phương thức quản trị kinh doanh kinh tế thị trường hiện đại, tinh vi hơn, lại là một điều hoàn dễ hiểu và không có gì lạ. Vì điều này (lợi dụng Phật giáo tinh vi hơn) cũng vừa vặn nằm trong những nghị quyết, những thủ đoạn chiến lược bẩn thỉu của đảng cộng sản Việt Nam, gọi là „đảng đổi mới“ ( nói gọn là „Đổi mới“). Vi sau khi „Liên bang xô-viết“ sụp đổ, để duy trì quyền lực độc tài, đảng cs vn phải „đổi mới“,“ đổi mới“ để tiếp tục cai trị.
66. Nhưng, cái gọi là „đảng cộng sản Việt Nam“ đã từng có biết bao nhiêu lần „đổi mới“? Mỗi lần biến tướng, thay mặt nạ, chỉ để „đổi mới“ cái bản mặt, còn bản chất Việt gian cố cựu thì bất khả thay đổi. Nên đảng cs vn đều có dự trữ sẵn những cái roi để „tự trừng phạt“, luôn cả dàn ca kịch „tự tố khổ“, „vạch sai lầm“, „sám hối“ để „sửa sai“ rất khả ố, giờ đây còn thêm màn xì xụp „lên đồng rước đám“ lưu manh, mịt mù khói hương, càng thêm buồn nôn ngẹn thở. Mỗi lần đảng csvn „đổi mới“ các „chùa tự“ do đảng cs vn „đầu tư gửi gắm“, tạo dựng kiến thiết càng mọc thêm nhiều hơn, thêm cao hơn và thêm tầm „vĩ đại“ hơn. Nhưng người dân Việt Nam bị trị thực sự càng trở nên nghèo hơn, vì các thùng „Ai bảo cúng dường“(?) này, cũng phải tương xứng nhân lên nhiều hơn, to hơn, đầy hơn và tất nhiên kiên cố hơn. Tại những nơi mịt mù hương khói đó chưa bao bao giờ là những thùng „Tam Bảo Cúng Dường“, vì trên thực tế nó là những cái két bạc có khóa („Tresoren“), kẻ giữ chìa khóa là đảng cộng sản vn, nên việc những két bạc đó phải thuê thêm người canh gác, thật không có gì là khó hiểu.
Đơn cử hai ví dụ: Một, là „Chùa Bái Đính“ mới hoàn thành tại Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam, về thực chất, chỉ là một bản sao của sự tham vọng, được thể hiện qua phong cách kiến trúc kiểu… Tầu. Đảng cộng sản vn hiện tại là kẻ „chủ đầu tư“ và „sở hữu“ nó, một khi đã học được cách „quản lý tôn giáo“ không thể chỉ dừng lại ở „khống chế“ mà phải „đầu tư tôn giáo“ để thủ lợi theo kiểu đảng cộng sản Tầu, dù „chậm lụt“, nhưng lòng tham lại vượt trội, tất nhiên cũng muốn đồng tiền đã cướp bóc được của nhân dân từ nhiều thập niên qua, bỗng chốc được nhân lên ấp bội. Cho nên ngôi „chùa“ này thực sự đã „vĩ đại“ hơn nhiều những ngôi xếp vào hàng „Đại tự“, trong „Tử Cấm Thành“, tại Bắc Kinh.
Hai, là „chùa Hồ“, một trong vô số những chứng tích tội ác của đảng cộng sản vn qua những thủ đoạn „thần thánh hóa“ tên đại Việt gian Hồ Chí Minh. „Chùa Hồ“ tại tỉnh Bình Dương, miền Nam Việt Nam đã phá vỡ nhiều „cơn sốt kỷ lục Phật giáo“. „Thượng tọa“ ở hàng trước, trên bệ thờ của „chùa“ là bức tượng quá cỡ của Hồ ngồi ghế mây, tất cả đều mạ vàng ròng 24 Karat. Khách hành hương muốn tỏ lòng kính ngưỡng lễ lậy Đức Phật và các vị Thần, Anh hùng Dân tộc, ngồi ở hàng sau, xin cứ tự nhiên! Lòng thành kính qua sự lễ lậy của những người dân đã bị tẩy não này trước hết, đã được đảng cộng sản vn lợi dụng dành cho hình tượng tên „bố già“ xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh và đám hậu sinh không thể từ bỏ được thói ăn trên ngồi trước kia, còn xác Hồ thì đang phải cười nham hiểm, loại nụ cười của những cái xác chết khô không được chôn cất, tại một nơi khác, nằm về phía Bắc Hà Nội. Vì trong „lăng Hồ“ tại Ba Đình, xác hắn đã được thay thế từ lâu bởi một hình nộm bằng sáp.
Phần nội thất của „Chùa Hồ“ được xây dựng đa phần bằng vật liệu quý hiếm, được bảo quản bằng máy điều hòa nhiệt độ và canh gác cẩn mật không kém cái „lăng Hồ“ nói trên tại Hà Nội. Những khách hành hương muốn giải trí và tiêu cho hết tiền sau khi lễ lậy Hồ thỏa thuê, còn muốn đi, để chiêm ngưỡng cho hết quần thể „chùa Hồ“, có loại hình „kiến trúc Disney Land“, thuộc loại kiến trúc ăn xổi ở thì của trào lưu „kiến trúc giả tạo“, nằm trong quần thể du lịch „Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến“, họ chỉ có thể dùng xe chạy điện do các công ty của đảng bao thầu, đang nhẫn nại mỉm cười, lừa lái đưa đón khách.
Cứ mỗi lần đảng cộng sản vn „đổi mới“, là con số những người bị bắt giam, cầm tù, quản chế vì thực sự lên tiếng vạch mặt tố cáo đảng cộng sản vn là một lũ Việt gian, lại tăng lên nhiều hơn. Cái thòng lọng tròng lên cổ đồng bào Việt Nam đang bị cai trị sẽ thắt chặt hơn, để quyền lực thống trị và cai trị của đảng cs vn bớt bị lung lay hơn.
Ho ist überall KP-Vorsitzender, auch in der „Ho Pagode“ in Binh Duong, Vietnam. Mit hochkarätigem Gold überzogen, sitzt seine Statue vor der Buddha Statue. Daneben ist die KP Flagge gehisst.
*
Là chủ tịch muôn năm của đảng cộng sản vn, ăn trên ngồi trước đã là một cái đặc quyền của Hồ, cho nên, trong „chùa Hồ“tại Bình Dương, Việt Nam, đảng vẫn dành cho hắn cái đặc quyền ăn trên ngồi trước cả dân tộc và hơn thế nữa. Bức tượng mạ vàng ròng 24 Karat của hắn „thượng tọa“ trước tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bên cạnh lá cờ đỏ máu của đảng cộng sản vn.
67. Theo như đã dẫn ở trên, một trong những câu để đời của tên tổ „cộng sản“ Karl Marx, được coi như những „nghị quyết“ của đảng cộng sản vn: „Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân“ (nguyên ngữ trong tiếng Đức :“Religion ist das Opium des Volkes“), và đã từng bị bài trừ loại bỏ. Nhưng thuốc phiện là một thứ thảo dược đặc biệt quý hiếm, nên trong hiện tại, theo những thủ đoạn „đổi mới“ kiểu „biến tướng“ có tên „nghị quyết này nọ“ nói trên, thứ „thuốc phiện tôn giáo“ này lại được đảng cs vn „gieo trồng“ một khối lượng lớn hơn bao giờ hết (bằng thủ đoạn „tôn giáo, lễ, hội“ triền miên, lòe loẹt, tốn kém và lố bịch). Qua bàn tay của GHPGVN, GHPGVNTN cùng Thích Nhất Hạnh và tay sai, là những tên cộng sản trá hình Phật giáo, một lũ con buôn hiện đại, dùng „thuốc phiện tôn giáo“ đầu độc nhân dân, nguồn thu lợi tức của đảng cộng sản vn từ thứ „thuốc phiện là tôn giáo của nhân dân“ này, càng ngày càng lớn hơn bao giờ hết. Thử hỏi rằng, liệu nhân dân Việt Nam đã bị „say thuốc quá liều“ cho đến có thể bị „ngộ độc“ bởi thứ „thần chết đỏ“ nói trên hay không, thì cũng nên hỏi, ở đâu và có bao giờ, những kẻ buôn bán thuốc phiện lại quan tâm đến chuyện đó.
Vì một trong những cái đích đã được nhắm tới của sự mê hoặc dân chúng bằng „tôn giáo đỏ“ theo nghĩa này, chính là: Làm sao để tất cả các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trẻ, có tri thức, bị đánh lạc hướng, sẽ trở nên nông cạn, mê muội, đồi trụy, bạc nhược, sợ hãi, cầu an…, mất sức đề kháng, dẫn đến vong bản, thui trột ý thức dân tộc, quên đi nỗi nhục mất nước…. Để rồi phải chấp nhận tất cả những gì là tội ác của đảng cộng sản vn: Đã và đang làm Việt gian, cai trị dân tộc trong ngôi vị chư hầu thái thú dài hạn cho đảng cs Tầu, đồng hóa bán đứng tổ quốc, dân tộc Việt Nam cho Tầu Hán phương Bắc...
Tất cả những gì thuộc về ý chí, tri thức, lòng yêu nước, và sức mạnh phản kháng của đồng bào Việt Nam… chỉ để bị đảng cs vn lợi dụng cướp trắng, hoặc hướng vào hết những „trận địa giả“ này, đến những „lễ hội tôn giáo mê hồn“ khác. Chỉ nhắc lại những luận điệu do đảng cs cò mồi, tẩy não, không thể nhận ra cái đại họa to lớn nhất của dân tộc trước mắt, chính là: Đảng cộng sản Việt Nam đã là một tập đoàn Việt-gian từ trong trứng nước và trong hiện tại! Chúng chính là kẻ nội thù số một và là kẻ thù trước mắt của dân tộc Việt Nam! Chúng đang từng ngày đàn áp nhân dân, để có thể bán hết đất nước, tài nguyên, lãnh thổ cho Tầu Hán và các thế lực tài phiệt quốc tế, giúp đảng cs Tầu đồng hóa dân tộc Việt Nam, xáp nhập Việt nam vào nước Tầu đại Hán „Trung cộng“. Chúng chính là kẻ Việt gian nội thù đại phản tặc, đáng phải bị trừng trị đập tan ngay trước nhất !
Nhưng tất cả những gì nêu ở đây, chỉ là một phần nhỏ của cái gọi là „tự do tôn giáo“ dưới ách cai trị của đảng cộng sản tại đất nước Việt Nam hôm nay.
68. Một trong những „nền tảng hạ tầng cơ sở“ của đảng cộng sản vn tại nước ngoài, dành làm môi trường ẩn náu cho các hoạt động của đám cán bộ cộng sản trong và ngoài GHPGVNTN hiện tại, phần nhiều, chính là do sự hình thành và phát triển của những „chi hội Phật tử Việt Nam tỵ nạn“ sau ngày 30.Tháng Tư. 1975 tại các nước có người Việt Nam xin tỵ nạn. Phần lớn những chi hội Phật tử này, đều có những „gia đình Phật tử“ kèm theo. Ngay từ những ngày thành lập, đã có sự trà trộn lèo lái của đám cán bộ cộng sản nằm vùng, và những tên tay sai Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, sau này còn có thêm „Việt Tân“ trá hình.
Những „hạ tầng cơ sở“ này („Chùa, tự“, „niệm Phật đường“) đã được GHPGVNTN qua những vệ tinh của nó là các „Gia đình Phật Tử Việt Nam“ xây dựng, bài thiết một cách khang trang. Để sau đó mở cửa cho hàng loạt những tên cộng sản trá hình Phật giáo khác từ trong nước sang dần dần thay thế chiếm giữ. Từ trên „bàn thờ Phật“, chúng cố giữ vẻ thâm trầm giả tạo, kìm giữ những nụ cười nhạt hơn nước cất, mục kích các tầng lớp „Phật Tử“ phủ phục, quỳ lậy lễ bái chúng sát đất. Sự cung kính của các Phật tử thuần thành nhẹ dạ này thật không thua kém sự cung kính ngưỡng mộ vừa nêu trên, của những người đi hành hương „chùa Hồ“, dành cho vị „thượng tọa trụ trì“ của nó. Nhưng, tất cả những gì lũ cộng sản trá hình này, từ dáng vẻ hình thức, theo thành ngữ tiếng Đức gọi là “aalglatt“, tức là đầu mắt đều tương tựa „trơn như lươn… đỏ“ này, còn thực sự quan tâm đến, lại chính là sự đầy vơi của những cái thùng „Cúng dường Tam Bảo“ vào lúc cuối ngày.
Tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“,hoặc „Tam Bảo Điền“, „Tam Bảo Nô“ là những thực trạng lịch sử không thể không nhắc đến trong dòng sử Việt. Nhưng, tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“ trá hình này thực sự đang ngày càng gia tăng một cách chóng mặt hơn trong chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại Việt Nam hôm nay. Hoặc những người Việt Nam trong nước đã bị tẩy não, hoặc những người tỵ nạn „nhẹ dạ chóng quên“ có tên „Phật tử thuần thành“ trên đây tại nước ngoài, thực sự đang là những con mồi béo bở cho những thủ đoạn tuyên truyền tẩy não, khống chế nhân dân làm nô lệ, qua chiêu bài „tôn giáo“ của đảng cộng sản Việt Nam. Tại Việt Nam trong quá khứ, những lớp người này được gọi là „Tam Bảo Nô“, trong hiện tại chỉ thêm hai chữ „hiện đại“.
Theo dòng người tỵ nạn, trong những cái gọi là „Gia đình Phật tử“ và vô số các tổ chức vệ tinh tay sai của GHPGVNTN nói trên, chưa thấy phần đông những số người này có ý định muốn „từ bỏ giai cấp“ nô lệ nói trên. Vì không thể biết rằng, đảng cộng sản vn đã dầy công mang cái dịch vụ béo bở „xin được làm Tam Bảo Nô“ đó đến tận nơi nước sở tại, là nơi họ đang xin „tỵ nạn Việt gian cộng sản“. Để rồi, cũng đảng cộng sản Việt Nam, qua tay GHPGVNTN, Việt Tân và Thích Nhất Hạnh đã dùng chính công sức của những người tỵ nạn, dựng nên những ngôi „Chùa“ cho những đồng chí của đảng „trụ trì“, quảng bá khuyến khích người tỵ nạn đến „lậy lục xin xỏ“ và cứ „tùy tâm“ nộp „lệ phí“ cho cái „dịch vụ“ nêu trên qua hình thức „cúng dường tam bảo“. Thật đắt và cay đắng, cái giá của sự nô lệ tâm thức.
Một trong những gợi ý nhỏ dưới đây có thể là một ví dụ góp phần nào soi sáng mối quan hệ „nhân quả nghiệp báo“ của „hiện tượng nô lệ Tam Bảo“ nói trên. Ví dụ này có hai vế, nay chỉ nói một, đại ý như sau: „Tường ngục xây bằng đá, giam mãi cũng có ngày ra. Tường ngục xây bằng tâm thức thì bất khả“. Nói gần hơn: Một người tâm thức còn ở trong ngục, dù nói hay làm, vẫn thường tự trói mình, dù bản thân họ, từ lâu đã sống dưới trời tự do. „Tam Bảo Nô“ còn gọi là „Ba lần Nô lệ“. (Phần chi tiết, xin xem phần 2, nguyên ngữ tiếng Đức, sau bài viết này).
69. Nhưng, các hội đoàn chân rết đủ loại, từ xã hội, văn hóa, từ thiện, đến tôn giáo…trá hình của đảng Việt gian cộng sản trong tay GHPGVNTN tại những quốc gia chủ nhà tại Tây phương, còn có thêm một vai trò quan trọng và nguy hiểm hơn nhiều. Được sự điều khiển trực tiếp bởi đảng Việt gian cộng sản và cả đảng cộng sản… Tầu. Thông qua các chi bộ đảng, là cánh tay tội ác nối dài của chúng cài cắm tại hải ngoại, nhân sự, danh xưng và tiềm năng của các tổ chức hội đoàn nói trên đã được đảng cs khiển dụng và lợi dụng như những phương tiện ngụy trang hữu hiệu, để thâm nhập vào các tổ chức, hội đoàn, cơ quan công quyền nhà nước và chính phủ của các nước phương Tây sở tại. Tất cả những sự thâm nhập này được lợi dụng làm bình phong ngụy trang mục đích, những mục đích ẩn náu đằng sau tất cả các mục đích khác, đó là sự „quan tâm tò mò“ của giới tình báo công nghiệp/kinh tế và quân sự của đảng cộng sản… Tầu.
Để các hoạt động của đảng cộng sản Tầu, là kẻ giấu mặt, giật dây khống chế đảng Việt gian cs, không bị lộ tẩy hoặc thiệt hại, lũ cán bộ tay sai đảng cs vn đã bị đảng cs Tầu khiển dụng đẩy ra làm vật thí, trong vai trò tay sai, khi dùng các cơ sở hội đoàn người Việt đi „tiền thám“ thăm dò hộ chúng. Mặc dù là hai „đảng cộng sản anh em“ (Hán-gian, Việt-gian), nhưng lũ Việt-gian cs chỉ được học cách quỳ lậy và cầm dao đằng lưỡi. Dù có thế nào, vẫn như hai tên cướp, mỗi tên bị xích một tay bởi luật rừng của hai đảng cộng sản, nên vẫn cho phép chúng hoạt động „tay trong tay“. (Ở đây sẽ không đi vào chi tiết).
Ein Bild – ersetzt tausend Worte:
Die Schießübung und der Umgang mit den modernsten Tötungswaffen gehört zur „buddhistischen Ausbildung“ der Kommunistischen Kader im Mönchsgewand, übernommen durch die Armee der Kommunistischen Partei.
*
Một bức ảnh thay thế nghìn lời nói:
Học bắn giết và xử dụng thành thạo các loại vũ khí sát thương hiện đại là „bài học căn bản“ trong chương trình „đào tạo chuyên tu Phật Giáo“ của các tên cộng sản trá hình giả danh Phật giáo này. Bài học „thực hành tác xạ“ được hướng dẫn bởi những tên sỹ quan ngụy quân đảng cộng sản đảm nhiệm.
( Trong ảnh: trên trường bắn của một học viện quân sự Tầu)
70. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của đám an ninh Việt gian cộng sản đang hoạt động trá hình tại hải ngoại (ví dụ như đảng „Việt Tân“), là cộng tác chặt chẽ với những tên Việt gian cs trá hình như Thích Nhất Hạnh và GHPGVNTN, dùng tất cả mọi phương tiện để tập hợp đoàn ngũ hóa đại khối người Việt Nam tại hải ngoại về một mối để khống chế và lợi dụng. Để thực thi thủ đoạn này, đảng Việt gian cộng sản đã cho ra nhiều „nghị quyết“, trong đó có „nghị quyết 36“. Nội dung của nó, cũng như tất cả những „văn kiện, nghị quyết„ do „bộ chính trị“ đảng Việt gian cộng sản đã từng đưa ra, là những bằng chứng tội ác cụ thể nhất của đảng Việt gian cộng sản đối với dân tộc Việt Nam, và tự nó xác nhận những tội ác này đã được che đậy trâng tráo bằng những từ ngữ lừa dối xảo trá tinh vi như thế nào. Những tội ác tầy trời này, nếu liệt kê ra sẽ dài ít nhất là bằng chiều dài sự tồn tại của đảng cs vn, nhưng, những hệ lụy hậu quả tàn phá của nó gây ra thì trong muôn thế hệ mai sau cũng không gì có thể tẩy rửa cho được.
71. Đặc biệt là tại Mỹ, nơi có một số đông người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản cư ngụ, những tên cộng sản trá hình Phật giáo trong và ngoài GHPGVNTN đều biết rằng: Thật là một cơ hội có tính quyết định, nếu tất cả những „Phật tử thuần thành“ mê muội nhẹ dạ kia, được gom hết về một mối để chúng „chỉ đạo“, thì những „nghị quyết“ của đảng Việt gian cs cũng sẽ có một „cơ hội“ nào đó được thực hiện. Vì theo những toan tính thủ đoạn của đảng Việt gian cs được thể hiện ra cái „nghị quyết“ có đủ 36 mưu ma chước quỷ kia, thì bản thân con số những người kể trên thực sự đã là một khối „cử tri“ có khối lượng đầu phiếu đáng kể. Và trên chính trường dân chủ của Mỹ, đối với những vị dân biểu địa phương khi bắt đầu bước vào con đường „chính trị thực tiễn“ thì mỗi mỗi lá phiếu bầu, bất kể từ đâu đến, đều là những „cơ hội“ có sức hấp dẫn không thể bỏ qua.
Những vị dân biểu địa phương, là công dân và có quốc tịch Mỹ (đa phần gốc Á Châu) được sự mồi chài giàn dựng của giới điệp báo Việt gian cs nằm vùng tại địa phương, hoặc hoạt động trên bề nổi, có an ninh Việt gian cộng sản trá hình đảng „Việt Tân“ hứa hẹn, sẽ được sự ủng hộ bởi một số lượng (không có thực) của những đông đảo cử tri Phật tử do GHPGVNTN „chỉ đạo“, nên họ có thể yên tâm ra ứng cử tại các đơn vị bầu cử chính quyền địa phương Tiểu bang. Sau đó, dù họ có thành đạt hay không, để có thể „tái tranh cử“, sẽ là những màn kịch „đi lại“ với lũ Việt gian cs trá hình Phật giáo trong những vai trò „cao tăng“ hoặc „tăng thống“ của GHPGVNTN.
Có những tên „dân biểu“ trá hình, là tay sai của Việt gian cộng sản đã bị lật tẩy, còn muốn lập hẳn một tuyến hàng không quốc tế từ Mỹ tới Việt Nam, để „đàm đạo“ trực tiếp với… đảng Việt gian cộng sản. Hoặc đảng Việt gian cộng sản có thể qua đó trực tiếp thông qua luật pháp Mỹ để „nhuộm đỏ“ cộng đồng người Việt Nam ty nạn tại hải ngoại. Bằng cách này, đại khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại hải ngoại, ít nhất là tại Mỹ cũng sẽ giống như ở Việt Nam quốc nội, bị đảng cs chặn họng bóp cổ mà chết.
Hàng loạt những sự móc nối câu kết giữa những tên Việt gian cộng sản trá hình và các vị tân dân biểu, nghị viên trong các cấp chính quyền địa phương tiểu bang và liên bang, tiêu biểu là tại Mỹ đều đã bị đồng bào Việt Nam tại hải ngoại tố giác và lật tẩy, cho thấy, những „nghị quyết“ trên từ xưa đến nay, chỉ là một trong vô số những thủ đoạn tội ác của đảng Việt gian cộng sản.
Và cũng ở đây, sự „ăn hại đái nát“ đã là một khuyết tật bất khả chữa trị của những tay cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN tại hải ngoại.
72. Những „hoạt động tôn giáo nổi bật“ tại các cơ sở của GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh tại hải ngoại, ví dụ như „Làng Mai“ tại Pháp, hoặc „chùa Điều Ngự“ của tên Thích Chánh Lạc, Thích Viên Lý tại Mỹ, hoặc „Viên Giác“, Phật Huệ“ .v.v. của tên Thích Như Điển tại Đức, đã tập trung „chuyên tu hóa“ vào những lĩnh vực „dịch vụ xã hội“. Để có thể kiếm được thật nhiều và rửa được thật nhiều tiền cho đảng Việt gian cộng sản, tất cả các cơ sở nêu trên đều đã tập trung mọi nhân lực tiềm năng và thời gian cho „nghề làm từ thiện“.
Để có thể móc thêm được nhiều tiền hơn nữa một cách „kín đáo“ từ hầu bao của người phương Tây hảo tâm nhẹ dạ, chúng đã không chừa một kế sách nào. Một trong những thủ đoạn quen thuộc mà kẻ hung thủ là đảng Việt gian cs thường khai thác tối đa, là đem các nạn nhân của nó: các trẻ em nghèo thương tật ra trình diễn sự thảm thương khốn khó, và lập lờ thêm vào sau danh từ „nạn nhân“ hai chữ „chiến tranh“ để đánh động lòng trắc ẩn. Theo những dữ liệu thống kê sơ bộ đặc biệt khiêm tốn vào năm 2010, thì mỗi năm người Việt Nam hải ngoại đã gửi về Việt Nam một số ngân khoản trên 2 tỷ Dollar. Đối với đảng Việt gian cộng sản và bộ máy nhà nước ngụy quyền bù nhìn, thì số ngân khoản trên thật như những quả sung rụng bằng vàng, vừa đủ để giữ cho nó khỏi bị chết chìm.
73. Cái gọi là “Phòng thông tin Phật giáo quốc tế“ „IBIB-International Buddhist Information Bureau“ http://www.queme.net/eng/news_detail.php?numb=812 với trụ sở tại Paris là đại diện chính thức của cái gọi là „Văn phòng 2 - Viện hóa đạo GHPGVNTN“ tại nước ngoài. Chỉ một chi tiết thật nhỏ sau đây đã thừa đủ cho thấy đám tay sai của đảng cs vn là GHPGVNTN tại Đức, từ trên xuống dưới đã tự đấu tố vạch mặt cái „lý lịch“ Việt gian cs của nhau khi „dịch“ chữ „Viện Hóa Đạo“ sang tiếng Đức (trích dẫn nguyên văn) là „Propaganda Institut“. Hai cơ sở „Lá bối“ và Quê Mẹ“ là một trong những nơi phát tán, thông tin độc hại của Thích Nhất Hạnh và người tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, cùng hai tên Võ Văn Ái và Penelope Faulkner.
Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái không phải là một cái tên mới lạ. Hắn và Walter Fabian, một tên cộng sản Đông-Đức cũ, cả hai là những tên đầu xỏ, thường tổ chức những cuộc biểu tình phá rối ủng hộ cộng sản với những khẩu hiệu xách động trá hình „chống chiến tranh Việt Nam„ và đã từng bị cảnh sát Tây-Đức bắt giữ vào đêm ngày 8 rạng ngày 09.05.1967 tại Munich-Bavaria (München-Bayern). http://www.ebay.com/itm/1967-Press-Photo-demonstrators-organisation-against-war-Virtnam-/251066804539
74. Đeo đuổi sự nghiệp Việt gian bán nước phản dân tộc của đảng cộng sản vn, tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái vẫn sát cánh cùng lũ Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ, Thích Chánh Lạc…, GHPGVNTN và „Việt Tân“, tiếp tục cuộc „đấu tranh trường kỳ“ của đảng cộng sản vn nhắm vào khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền VGCS tại hải ngoại. Nấp sau những khẩu hiệu „đấu tranh“ trá hình, trước sau như một đầy tội ác mà như hắn đã từng gây ra từ đầu những năm 1960 đến nay, nhưng giờ đây thay vào đó là những „trận địa giả“ cùng những cái bánh vẽ cò mồi „Tự do, dân chủ, và nhân quyền cho Việt Nam“. Từ năm 2004 đến 2009 Võ Văn Ái đã nhận được một số tiền 548.000 Dollar, tài trợ cho những hoạt động phá hoại của hắn từ một tổ chức trá hình có tên: NED („The National Endowment for Democracy“).
75. Một trong những địa điểm chính, thường là nơi xuất phát các hoạt động đánh phá cộng đồng người Việt Nam ty nạn của hai tên Việt gian tay sai Võ Văn Ái và Pelelope Faulkner hiện nay là „ chùa Điều Ngự“ tại California - 92683, USA. Từ đây chúng dùng „văn phòng 2 viện hóa đạo - GHPGVNTN“ làm phương tiện phun nọc độc tuyên truyền cho đảng cộng sản vn, tô vẽ tên tuổi, đánh bóng xóa tội ác cho những tên Việt gian cộng sản trá hình „tăng thống Phật giáo“. Thích Quảng Độ hoặc Thích Nhất Hạnh thường là những tên được tập đoàn văn bút trí nô, tay sai Việt gian cộng sản tâng bốc, để mồi chài đánh lừa dư luận „đề cử“ những tên tội đồ này ra làm ứng viên „giải thưởng Nobel Hòa bình“.
Tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái thường rêu rao lợi dụng vai trò „phát ngôn nhân“ „đại diện cho GHPGVNTN trong nước và hải ngoại“ để lừa lái dư luận tại phương Tây, hòng „hợp thức hóa“ tư cách trá hình „tỵ nạn“ cho hàng loạt lũ cán bộ do đảng Việt gian cộng sản từ Việt Nam gửi qua cài cắm, trong những vỏ bọc „nhà sư Phật giáo tỵ nạn“ đểu, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội…trá hình.
Nấp sau chiêu bài „tôn giáo“ và những cái „bẫy trận địa giả“ do đảng Việt gian cộng sản giàn dựng, Võ Văn Ái cũng như Thích Nhất Hạnh, gài bẫy, bòn rút tiền bạc, lòng tin của những người Việt Nam tỵ nạn mắc chứng „hay quên“, cùng người phương Tây hảo tâm „nhẹ dạ“, gửi về nuôi đảng Việt gian cs tại Việt Nam, qua những tổ chức „từ thiện xã hội“ trá hình. (Một trong số đó, ví dụ như „Maitreya Fond“.v.v.).
76. Tất cả những cái gọi là phong trào „đấu tranh“ trá hình, đòi hỏi „dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam“ do đảng Việt gian cs giàn dựng cho tay sai của chúng là GHPGVNTN, Nhất Hạnh, Quảng Độ, Võ Văn Ái và Việt Tân… thực thi, đều bị đại khối cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền vgcs tại hải ngoại phát giác lật tẩy, lên án và tẩy chay. Đại đa phần những vụ việc này đều đã được đăng tải công khai trên liên mạng thông tin toàn cầu „internet“ (được cập nhật từng ngày), cũng như bằng vô số những tác phẩm, ấn phẩm đủ mọi thể loại truyền thông văn hóa nghệ thuật… phong phú khác. Tất cả lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo, Thiên Chúa giáo…, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội xảo trá đủ loại và vô số tay sai, không xót một tên nào, do đảng vgcs gửi ra cài cắm bất kể là công khai hay bí mật tại hải ngoại, đều đã và sẽ cùng phải chung một số phận.
Vì giọng điệu và hành tung (…) của chúng dù có ngụy trang biến tướng cách gì cũng không thể che giấu được dã tâm và tội ác Việt gian bán nước, phản dân tộc của đảng cộng sản Việt Nam. Chúng câm lặng hoặc làm ngơ, hoặc cố tình lèo lái xuyên tạc bôi xóa, khỏa lấp một sự thật lịch sử là: Chính tập đoàn đcsvn và tay sai là những kẻ nội thù phản tặc, chính là hung thủ, là kẻ chủ phạm đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho đảng cộng sản „Trung quốc“, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng.
Đơn cử một ví dụ nhỏ trong hiện tại: Tất cả các phong trào, biểu tình và đòi hỏi chính đáng của đồng bào Việt Nam bị trị tại quốc nội, đặc biệt là giới trẻ vùng lên thể hiện ý chí yêu nước bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong các sự kiện biên giới, hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa do „Trung cộng“ xâm lược chiếm giữ, đều bị đảng csvn lợi dụng hoặc dùng tất cả mọi phương tiện, huy động lực lượng công an côn đồ và một số đông đảo lũ tội phạm hình sự bị khiển dụng, đàn áp khủng bố, bắt bớ, giam giữ và tra tấn một cách dã man. Không có lấy một tên Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo GHPGVNTN hoặc một tên „tăng thống“ nào có thể một lần tạm bỏ thói „á khẩu“ để nói, dù chỉ một câu cho trôi chẩy mà không biết mười mươi rằng: Những gì chúng nói ra, nếu không có đảng cs vn canh chừng bằng họng súng, thì chúng lấy chỗ nào để đứng mà nói. Nếu có thì phải „độn thổ“ ngay sau khi nói, nếu không muốn bị đồng bào Việt Nam khắp nơi trên thế giới đồng thời vả vào mồm chúng sau mỗi một câu chúng nói ra.
Vì lực lượng „bảo kê“ của đảng cs vn vẫn kè kè bên cạnh, nên Thích Quảng Độ chẳng những giám liều chết dại mồm xảo ngữ kinh niên, mà còn thi thoảng chế tác ra lời kêu gọi: „Bất tuân dân sự“, “Biểu tình tại gia“. Theo đó mỗi người Việt Nam muốn thể hiện sự chống đối xin hãy „ở nhà, đóng cửa và làm việc đó ở trong chăn cho kín đáo“. Bởi vậy, tên Thích Quảng Độ vẫn thường phải khoa chân múa tay che miệng nhỡ ăn phải vả, khó toàn bộ răng tuổi già là vì thế, vì ngày „độn thổ“ của hắn đã hết hạn từ lâu.
KP Kader und UBCV Oberhaupt „Patriarch“ Thich Quang Do (geb. Dang Phuc Tue)
0 comments:
Post a Comment