(Nếu quý bạn đọc muốn biết thêm những thằng VGCS mặt mẹt này gồm những ai xin tham khảo ở phần tài liệu đính kèm ở dưới).
Sau khi đọc xong lá thư ngỏ của đám được cho là “nhân sỹ, trí thức, lãnh đạo trung cao cấp”, Chính Khí Việt có những nhận xét như sau:
Nhận Xét 1: Tất cả 127 thằng đó, đều là đảng viên VGCS. Thế thì trong sinh hoạt, dù có về hưu, chúng cũng còn có cái “bổn phận” sinh hoạt ở chi bộ VGCS đường phố nơi chúng cư trú…. vậy tại sao chúng không đưa ý kiến trong đảng bộ của chúng mà chúng lại làm trò hề trong cái gọi là “Thư Ngỏ Gởi Bộ Chính Trị” được chúng truyền bá trên các cơ quan truyền thông lề phải, lề trái. Nếu đã như thế thì phải đề: “Thư ngỏ gởi Đảng CSVN và toàn dân Việt Nam”, thì mới tỏ ra còn có chút trí thức chưa hoàn toàn là “cục phân” như họ Mao đã gọi! Riêng trò hề rẻ tiền này cũng cho chúng ta thấy, đây là mục đích tuyên truyền và mơ hồ hoá sự hiểu biết của người dân Việt Nam bị trị nói riêng và Cộng đồng người Việt Tỵ Nạn VGCS nói chung.
Nhận Xét 2: Qua lá thư ngỏ này 127 tên đảng viên VGCS cũng nhắm đến việc đánh lừa dư luận thế giới, tức đánh lừa người dân các nước trên thế giới. Vì thiếu thông tin trung thực cho nên họ phải dựa vào các cơ quan truyền thông như RFA, BBC… vì thế họ cũng không hiểu được gì nhiều về tập đoàn VGCS là một lũ phản quốc, buôn dân bán nước!
Nhận Xét 3: Nội dung thư ngỏ của chúng là thay đổi tên đảng CSVN và tên nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
- Thứ nhất, vấn đề không phải là thay đổi tên đảng, tên nước, bởi vì VGCS đã từng đổi tên nước , tên đảng nhiều lần. Về đảng, tập đoàn VGCS đã từng có những tên như Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Cộng Sản Đông Dương, Đảng Lao Động Việt Nam (1951), ở phía Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra. Ở Miền Nam, trong bộ phận nằm vùng hoạt động theo phương thức “hợp pháp, nửa hợp pháp” trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thì chúng thành lập ra Đảng Nhân Dân Cách Mạng…
- Thứ hai, về tên nước, chúng đã từng đổi tên nước Việt Nam thành “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”. Và sau khi chiếm trọn vẹn Việt Nam Cộng Hoà năm 1976, một lần nữa chúng lại đổi tên từ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” thành cái gọi là “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” .
Như vậy tất cả những lần đổi tên đảng, tên nước thì Việt Nam có khá lên được tí nào không hay vẫn chỉ là dâng đất, dâng biển, dâng tất cả tài nguyên cho Tàu bành trướng.Nếu xưa kia chỉ có binh lính Tàu bành trướng sang làm đường và một số các công trình giao thông, kể cả một số chuyên gia trong vai trò giám sát, thì ngày nay, dù có thay đổi tên nước, tên đảng, chúng có dám không duy trì “Một vành đai hai hành lang”, có dám huỷ bỏ toàn bộ những giao kèo cho phép Tàu bành trướng thành lập những Khu Kinh tế Tàu, đặc biệt là Đặc Khu kinh tế Vũng Áng, một vị trí chiến lược của Việt Nam. Liệu chúng có dám cho ngưng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên…., chúng có dám không thi hành những hiệp ước, thoả hiệp BẤT BÌNH ĐẲNG mà VGCS ký kết với ông chủ Tàu bành trướng của chúng không??? (về những vấn đề này quý bạn đọc có thể tham khảo thêm trong quyển thứ 3, chương 1, viết về “Âm Mưu Hán Hoá Của Tập Đoàn VGCS” đối với Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam.)

(Công Nhân Tàu Cộng Khai Thác Bauxite Ở Tây Nguyên)
Nhận Xét 4: Về đề nghị xóa bỏ Chủ Nghĩa Marx và Lenin.
Những tên gọi là “nhân sỹ, trí thức” này thật là bỉ ổi khi chúng tưởng rằng người dân bị trị không biết gì chăng về cái chủ nghĩa bá láp đó, cho nên chúng đã lưu manh đề nghị xoá bỏ chủ nghĩa Marx Lenin. Đó là một lối chạy tội VIỆT GIAN của tập đoàn có tên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nếu chú ý chúng ta sẽ thấy rằng tập đoàn VGCS từ khi được cho ra đời cho đến nay đã vừa tròn 85 năm. Chẳng lẽ 85 rồi, chúng mới phát hiện ra việc đất nước và nhân dân Việt Nam phải bị như hiện nay là do chủ nghĩa Marx Lenin chăng?
127 đứa chúng bay hẳn phải nghiên cứu về cái gọi “chủ nghĩa Marx Lenin", chúng bay thử chỉ ra xem trong đoạn nào, câu nào, chữ nào chủ nghĩa Marx đề cập đến việc xây dựng đất nước theo con đường phản quốc, buôn dân, bán dân, bán tài nguyên cho ngoại bang???
Những việc làm dẫn giắt dân tộc và Tổ Quốc Việt Nam đến cảnh ngộ như hiện nay là do cái Đảng Cộng Sản của chúng bay, là một tổ chức việt gian, phản quốc, bán nước cho các thế lực thực dân mang các màu sắc khác nhau. Những thế lực thực dân đó đều có mục đích giống nhau là muốn làm bá chủ thiên hạ, nhưng chúng vì hoàn cảnh địa lý, trình độ văn hoá, khoa học, công nghệ… đặc biệt là công nghệ sản xuất vũ khí ở những trình độ khác nhau, nên chúng cũng lựa chọn con đường làm bá chủ thế giới có chút khác nhau.
1/ Chủ nghĩa Lenin chính là chủ nghĩa thực dân đỏ, nó không hề và chưa bao giờ là chủ nghĩa Marx, hoặc là sự phát triển của của chủ nghĩa Marx như tên đầu lãnh thực dân đỏ là Lenin nhận định. Chúng có thể sử dụng một số chữ nghĩa của chủ nghĩa Marx để bao che cho cái nội dung của chủ nghĩa thực dân đỏ. Thí dụ cụ thể:
- Chủ nghĩa thực dân đỏ Leninist cũng sử dụng khái niệm “thế giới đại đồng”, nhưng thử hỏi trong cái gọi “thế giới đại đồng” đó thì AI LÀ CHỦ NHÂN và ai là đầy tớ? Hay nói cách khác ai là KẺ CAI TRỊ và ai là người bị trị???
- 127 thằng ma cô “bài tây ba lá” có biết rằng, nếu như Đảng cộng sản Nga Xô có mục đích là phải trở thành kẻ thống trị của cái “thế giới đại đồng” đó thì cái gọi là Đảng Cộng Sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng Sản Đông Dương vào năm 1930) chỉ là công cụ phát triển và bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ Leninist vào ngay chính đất nước Việt Nam, rồi sang hai nước Cambodia và Lào, cũng như có thể bành trướng thuộc địa cho Nga Xô ở bất kể nơi nào mà Nga Xô cần đến. Thí dụ như ở Congo với Lumumba.- Có một vấn đề là: một trong những nguyên nhân thực dân đỏ Nga Xô Leninist bị bể bụng là do chúng quá tham lam, nên đã ngu xuẩn muốn nuốt luôn cả một siêu cường (đang nằm ngủ) là Tàu đại Hán bành trướng!
Chính thế lực đại Hán bành trướng, một thứ thực dân kiểu Ba Tàu, cũng có mộng tưởng làm bá chủ thiên hạ.
2/ Đối với các thế lực thực dân khác cũng có mộng tưởng đặt quyền lực cai trị của mình ra khỏi biên giới đất nước họ càng xa, càng nhiều càng tốt.
- Thí dụ Nhật Bản với thuyết “Đại Đông Á” thì thử hỏi cái “Đại Đông Á” đó ai làm chủ, ai làm đầy tớ???
- Chủ nghĩa Phát Xít Hitler của Đức cũng vậy. Trong thế giới của chủ nghĩa phát xít Đức, ai là ông chủ và ai là đầy tớ???- Chủ nghĩa Apatheid ở Nam Phi cũng thế, trong chủ nghĩa Apatheid đó thì ai là chủ, ai là đầy tớ???
3/ Trước kia chủ nghĩa thực dân ở Châu Âu đã đi xâm chiếm các nước trên toàn thế giới thì thử hỏi ai là chủ, ai là đầy tớ???
Thực tế chủ nghĩa thực dân đó không thể tồn tại được bởi vì gốc gác chỉ là một nước diện tích không rộng, dân số không đông cho nên cuối cùng bị bội thực vì lòng tham không đáy!!!
4/ Ngày nay thế giới đi vào "toàn cầu hoá" vậy thì trong cái “toàn cầu hoá” đó AI LÀ CHỦ, ai là đầy tớ hoặc TAY SAI???
KẾT LUẬN
Để kết luận về lá “thư ngỏ” của 127 tên VGCS, nay được phép tập hợp lại để tiếp tục gây nhiễu thông tin trung thực, làm mơ hồ hoá người dân bị trị Việt Nam trong nước và người dân Việt Nam ở hải ngoại do thiếu thông tin trung thực, lại thêm tôn thờ cái TÔI, để cả ngày chỉ soi gương, tự đánh phấn bôi son, mặc áo thụng tự vái mình và vái nhau. Cho nên dù có một bồ kiến thức nhưng cũng vô dụng, bởi điều cần thiết lúc này là phải có kiến thức về chính tập đoàn VGCS và có đủ dũng khí vạch những sự thật đó ra cho nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân thế giới nói chung biết được sự thật.
United Nations Security Council
Consejo de Seguridad deمجلس أمن الأمم المتحدة (tiếng Ả Rập) 联合国安全理事会 (tiếng Trung) Conseil de sécurité des Nations unies (tiếng Pháp) Совет Безопасности Организации Объединённых Наций (tiếng Nga) las Naciones Unidas (tiếng Tây Ban Nha) | |
Phòng Na Uy, phòng họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ở New York
|
Cho nên những điều mà 127 thằng cơ hội, làm nhiễu thông tin trung thực, thì nhân dân Việt Nam nói chung -đã từng là nhân chứng và nạn nhân trong xã hội Việt Nam từ những năm 1930 đến nay- để có thể đưa ra ý kiến rằng NÊN ĐỔI TÊN ĐẢNG CHÍNH TRỊ là gì, ĐỔI TÊN NƯỚC là gì? Và nên theo chủ nghĩa nào, lý thuyết nào, mới GIỮ ĐƯỢC TỔ QUỐC TOÀN VẸN LÃNH THỔ, LÃNH HẢI, HẢI ĐẢO, KHÔNG PHẬN, TÀI NGUYÊN và làm cho TOÀN DÂN ĐƯỢC ẤM NO HẠNH PHÚC. GIỮ VỮNG ĐƯỢC MỌI TRUYỀN THỐNG ĐẶC THÙ CỦA DÂN TỘC VÀ TỔ QUỐC VIỆT NAM.
Xét như vậy thì:
1/ VỀ TÊN ĐẢNG: Phải giải tán toàn bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong bước đầu tiên, tất cả những tên đảng viên Cộng Sản Việt Nam nằm trong các chi bộ; các cấp uỷ từ bậc cơ sở thôn xã lên tới tận trung ương. Kể cả các cấp uỷ trong bộ máy nhà nước nguỵ quyền VGCS cũng không được phép tham gia hoạt động chính trị cho đến khi một nước Việt Nam mới ra đời bằng sự thống nhất, đoàn kết của toàn dân Việt Nam để tạo ra các cơ quan mới phục vụ cho việc quản lý toàn diện đất nước Việt Nam. Chính sách với những kẻ bị cấm hoạt động chính trị như vậy sẽ do nhân dân Việt Nam sau này quyết định.
Nên lấy một tên đảng chính trị là: ĐẢNG CẦN LAO NHÂN VỊ, hoặc một đảng phái nào đó như đảng Nhân Dân chẳng hạn, nhưng nội dung của tổ chức Đảng Chính Trị đó là QUẢNG BÁ VÀ THỰC THI LÝ THUYẾT CẦN LAO NHÂN VỊ.
2/ VỀ TÊN NƯỚC:
Sở dĩ có sự lựa chọn như trên là bởi vì sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân Pháp và Phát Xít Nhật ở Việt Nam, thì chỉ có Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà mới giữ được sự Độc Lập của Tổ Quốc, vì quyền lợi của Dân Tộc mà phục vụ.
Còn nhiều vấn đề nữa để chúng ta lựa chọn Việt Nam Cộng Hoà Nền Đệ Nhất với sự soi sáng của Lý Thuyết Cần Lao Nhân Vị do những tính chất:
Vì Tổ Quốc Việt Nam
Vì Hạnh Phúc của toàn dân Việt Nam
Vì gìn giữ hoà bình và hữu hảo với toàn thế giới, đặc biệt vấn đề tôn giáo được tôn trọng.
Mong các vị trưởng thượng và các bậc cao minh của Việt Nam đã từng sống và nghiên cứu về thời gian 9 năm tồn tại của Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà, hãy vì thế hệ tương lai của Việt Nam mà tham gia đóng góp những bài vở với tính cách là chứng nhân của lịch sử. Nếu chúng ta, đừng vì tự ái cá nhân (loại trừ lũ VGCS nằm vùng và tay sai) thì phải thấy rằng khi chúng ta cùng thống nhất dựa vào những tài liệu của VGCS với những Cương Lĩnh Chính trị, tin tức truyền thông, những sự việc cụ thể, những nạn nhân… bằng cả văn bản lẫn hình ảnh để thấy rằng tập đoàn Cộng Sản Việt Nam là một tổ chức Việt Gian Phản Quốc, buôn dân bán nước thì các điều quan trọng bậc nhất sẽ dễ dàng giải quyết, đó là việc Tàu bành trướng đã cướp đất liền, hải đảo, lãnh hải, tài nguyên… cùng với những cơ sở kinh tế quân đội (trá hình) của Tàu bành trướng đang đóng trên đất nước Việt Nam. Bởi tất cả những vấn đề đó đều vô giá trị trước luật pháp quốc tế vì nó được ký kết giữa một tập đoàn phản quốc, buôn dân bán nước với Tàu bành trướng!!!
Riêng với nhóm 127 tên hoặc tự nhận, hoặc được ai đó phong cho là “nhân sỹ, trí thức” với “lá thư ngỏ” gởi cho lũ VGCS đầu lãnh. Đương nhiên những kẻ đó đều là đảng viên VGCS, nghĩa là những kẻ tối thiểu cũng trên 40 năm LÀ VIỆT GIAN PHẢN QUỐC, BÁN NƯỚC, BUÔN DÂN.
Khi đã được VGCS đào tạo để trở thành “nhân sỹ, trí thức” thì cần nhớ rằng đó là “nhân sỹ, trí thức” của cái gọi là “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam". Mà theo cách định nghĩa của quan thày tên đại tội đồ Hồ Chí Minh là Mao Trạnh Đông, với những suy nghĩ của hắn đã được VGCS đưa vào cương lĩnh chính trị từ Đại Hội II của VGCS (1951), tức là Đại Hội đã đổi cái tổ chức có tên “Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Marx” thành Đảng Lao Động Việt Nam. Một trong những suy nghĩ của họ Mao là “Trí Thức Không Bằng Cục Phân”!!! Cho nên chúng ta phải hiểu rằng dù cho nhóm 127 là đồng tác giả “lá thư ngỏ”, tự nhận là “nhân sỹ, trí thức”, hoặc do ai đó phong cho họ, thì theo đúng cương lĩnh chính trị Khoá 2 VGCS, nhóm 127 người này CHỈ LÀ NHỮNG “CỤC PHÂN” không hơn không kém!!! Vì vậy, những điều họ viết ra dù chưa xem đã THẤY BỐC MÙI VGCS RỒI!!!
Chính Khí Việt
Ngày 19 Tháng 12, 2015
Ngày 9 tháng 12 năm 2015
Thưa quý vị,Chúng tôi, những người ký tên dưới đây, hết sức trăn trở, lo âu về vận mệnh đất nước, thấy cần gửi tới Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI cùng các đại biểu dự Đại hội XII và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam một số suy nghĩ và yêu cầu bức thiết phù hợp với ý nguyện của đông đảo nhân dân trong nước và người Việt ở nước ngoài.
1- Qua 30 năm đổi mới, Việt Nam từ một nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển ở trình độ trung bình thấp với những tiến bộ về kinh tế và đời sống nhân dân, về thực hiện các “Mục tiêu thiên niên kỷ” do Liên Hiệp Quốc đề ra. Tuy nhiên, so với nhiều nước, nhất là các nước trong khu vực (trong đó có những nước cách đây không lâu còn ở trình độ phát triển ngang hoặc kém nước ta), Việt Nam đã tụt hậu xa hơn cả về kinh tế, khoa học công nghệ và giáo dục, đặc biệt là về năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực trạng kinh tế đang có nhiều bất ổn (nổi lên là ngân sách và cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nặng kéo dài, nợ công tăng quá nhanh); nhiều tài nguyên bị khai thác cạn kiệt; môi trường bị tàn phá và ô nhiễm nghiêm trọng; văn hóa xuống cấp; đạo đức xã hội bị băng hoại; nhân dân ngày càng mất lòng tin vào thể chế chính trị.
Mặt khác, Trung Quốc ngày càng ngang nhiên thực hiện mưu đồ bành trướng, hòng biến nước ta thành một chư hầu kiểu mới, liên tục xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ của nước ta cả trên biên giới đất liền và biển đảo, tăng sự uy hiếp và chi phối đối với nước ta trên nhiều mặt. Thời gian gần đây, trong khi vẫn dùng những lời hoa mỹ về hòa bình, hữu nghị, nhà cầm quyền Trung Quốc đã có những bước leo thang thực hiện mưu đồ bành trướng trên Biển Đông bất chấp luật pháp quốc tế, không chỉ trắng trợn xâm phạm chủ quyền của Việt Nam mà còn gây bất ổn cho hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước đều mong muốn và ủng hộ Việt Nam độc lập, phồn vinh, ngăn chặn có hiệu quả các mưu đồ bành trướng của Trung Quốc. Nhiều nước, kể cả những nước phát triển nhất, đã cam kết cùng Việt Nam trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện. Mới đây, hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) thu hút Việt Nam tham gia từ đầu đã được ký kết; khối ASEAN mà Việt Nam là thành viên đã nâng cấp sự liên kết thành Cộng đồng. Sự hội nhập quốc tế ở tầm cao hơn đặt ra thách thức mới, song chưa bao giờ Việt Nam có được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ cả tinh thần lẫn vật chất của nhân dân và các quốc gia trên thế giới như ngày nay. Đó là cơ hội quý báu, tạo thuận lợi cho sự phát triển hợp tác bình đẳng, hữu nghị giữa nước ta với các nước, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Một nước Việt Nam có thế và lực mạnh trên cơ sở đoàn kết toàn dân tộc, gắn bó giữa nhà nước và nhân dân, là con đường duy nhất để nước ta duy trì hòa bình, hữu nghị và hợp tác cùng có lợi với Trung Quốc và các nước trên thế giới một cách bình đẳng.
Các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương chuẩn bị trình Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam mặc dù viết rất dài nhưng nặng về nhận định và chủ trương sáo mòn, chưa nhìn đúng sự thật, chưa nêu rõ thực trạng hiểm nguy mà đất nước và nhân dân ta đang đối mặt, đặc biệt là chưa phân tích thẳng thắn nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó.
Sự phát triển của đất nước bị kìm hãm chủ yếu là do Đảng Cộng sản Việt Nam từ nhiều năm nay dẫn dắt cả dân tộc đi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên con đường đó, trong vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam bám giữ thể chế độc tài toàn trị với bộ máy cầm quyền hết sức nặng nề, thiên về dùng bạo lực và dối trá, vi phạm nhiều quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo thuận lợi cho tệ tham nhũng, ức hiếp dân và sự thao túng của các nhóm lợi ích bất chính. Đường lối sai lầm theo ý thức hệ cùng với bộ máy cầm quyền nhiều khuyết tật cũng không dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc để có đối sách đúng đắn bảo vệ độc lập, chủ quyền chống mưu đồ và hành vi bành trướng của Trung Quốc.
Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong nhiều năm qua về thực chất đã từ bỏ những nguyên lý cơ bản về xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Vậy mà các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn nhấn mạnh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kiên định theo con đường xã hội chủ nghĩa, đặt độc lập dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường phải gắn với chủ nghĩa xã hội.
2- Trong bối cảnh quốc gia và quốc tế hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết và dựa hẳn vào nhân dân, tự giải thoát khỏi ý thức hệ giáo điều, tự giải phóng chính mình khỏi tình trạng tha hóa của một đảng độc quyền toàn trị, dứt khoát từ bỏ đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ động tiến hành cải cách chính trị triệt để và toàn diện theo con đường dân tộc và dân chủ. Hơn lúc nào hết, nước ta vừa có điều kiện, vừa bắt buộc phải tiếp thu và vận dụng sáng tạo các giá trị của văn minh nhân loại để xây dựng Việt Nam thành một nước phát triển trên nền tảng dân chủ với kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự, phát huy sức mạnh đoàn kết, hòa giải dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ, bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ quốc gia.
Đại hội XII là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có trách nhiệm, vừa có thẩm quyền đề xướng cuộc cải cách chính trị trong hòa bình, với tinh thần khép lại quá khứ, không hồi tố, phát huy dân chủ với tất cả sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Ý chí quyết tâm chuyển đổi thể chế chính trị của Đại hội XII cần được biểu thị bằng những hành động cụ thể như đổi tên đảng (không gọi là Đảng Cộng sản); đổi tên nước (không gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa); trả lại tự do cho những người khác chính kiến đang bị giam giữ; chấm dứt sự trấn áp và ngăn chặn nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ theo Hiến pháp. Đó là những việc có thể làm ngay, quy tụ được lòng người, khơi dậy niềm tin và khí thế đồng tình ủng hộ của nhân dân đối với công cuộc đổi mới chính trị và kinh tế ở tầm cao hơn.
3- Sự nghiệp chuyển đổi thể chế chính trị gắn với đổi mới kinh tế để Việt Nam trở thành nước phát triển trên nền tảng dân chủ đòi hỏi phải tiến hành từng bước với nhiều công việc nặng nề và phức tạp như sửa đổi Hiến pháp; xây dựng mới và hoàn thiện hệ thống luật (đặc biệt là luật bảo đảm thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân đi liền với xây dựng kỷ cương xã hội, luật về đảng chính trị và đảng cầm quyền, luật về đất đai theo chế độ đa sở hữu…); xây dựng bộ máy cầm quyền tinh gọn với ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp và tư pháp) độc lập, trong đó Quốc hội được bầu cử thật sự dân chủ, có thực quyền và chuyên trách; hoàn thiện các định chế của một nền kinh tế thị trường đầy đủ với môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; cải cách để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ; đồng thời, có đối sách đúng đắn để giữ gìn và phát triển quan hệ hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng và các nước khác, đặc biệt là các nước phát triển cao, ngăn chặn mưu đồ bành trướng của Trung Quốc, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc cả về kinh tế và chính trị, xã hội.
Để hoạch định và thực thi có hiệu quả những công việc đó, yếu tố quyết định là những người đảm nhiệm cương vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước, trước hết là những chức vụ chủ chốt, phải là những người có tinh thần kiên quyết đổi mới thể chế cả về chính trị và kinh tế, có năng lực chỉ đạo xây dựng và điều hành thực hiện các chương trình và biện pháp hình thành thể chế mới; có bản lĩnh kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia. Muốn vậy, công tác nhân sự tại Đại hội XII phải thật sự dân chủ. Các đại biểu Đại hội, với cương vị và trách nhiệm là thành viên của cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam cần làm đúng quyền hạn của mình, bãi bỏ những quy định của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về công tác nhân sự không đúng Điều lệ đảng dẫn tới sự chi phối, thậm chí áp đặt của cấp ủy sắp mãn nhiệm đối với nhân sự của cơ quan lãnh đạo nhiệm kỳ mới; yêu cầu Đại hội được bầu trực tiếp Tổng bí thư, và danh sách đề cử không chỉ có một người. Đại hội XII phải bầu được Ban Chấp hành Trung ương khóa mới đủ sức đưa đất nước vượt qua những khó khăn thách thức để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. Kiên quyết không giao phó trọng trách cho những người mang nặng tư tưởng bảo thủ, giáo điều, đặt lợi ích riêng lên trên vận mệnh dân tộc, tham nhũng hoặc tài sản giàu có bất minh, thiếu bản lĩnh, không có khả năng xử lý những vấn đề do thực tiễn của cuộc sống đất nước đặt ra.
Tuy đối mặt với những thách thức mới rất gay gắt, nhưng với sự cổ vũ và bài học chuyển đổi thể chế độc tài sang dân chủ một cách hòa bình ở nhiều nước, đặc biệt là ở Myanmar mới đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đang có cơ hội thuận lợi hơn bao giờ hết để đưa đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Khi chuẩn bị Đại hội VI, dù thời gian họp đã cận kề, cơ quan lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thời ấy đã kiên quyết viết lại báo cáo chính trị theo tinh thần đổi mới, mở đường cho đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và có bước phát triển mới. Bài học đó cần được vận dụng để thay đổi cách chuẩn bị và tiến hành Đại hội XII đáp ứng được yêu cầu của đất nước và mong đợi của nhân dân. Đó là trách nhiệm của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI và toàn thể các đại biểu dự Đại hội XII trước vận mệnh của dân tộc.
Xin gửi đến quý vị lời chào trân trọng!
DANH SÁCH KÝ TÊN
1. Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng khóa Ba, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến 1987, Hà Nội
2. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
3. Hoàng Tụy, GS, Hà Nội
4. Nguyễn Mạnh Can, nguyên Phó ban Tổ chức Trung ương, Hà Nội
5. Nguyễn Quang A, TS, Hà Nội
6. Nguyễn Đình An, nguyên Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Quảng Nam - Đà Nẵng, Đà Nẵng
7. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM8. Nguyễn Văn An, cán bộ hưu trí, TP HCM
9. Trần Bang, cựu chiến binh, kỹ sư, TP HCM
10. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
11. Nguyễn Nguyên Bình, nhà văn, Hà Nội
12. Nguyễn Trọng Bình, nguyên Hiệu trưởng Đại học Tại chức Hải Phòng, Hà Nội
13. Bùi Văn Bồng, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà báo, nguyên Trưởng ban Đại diện báo Quân đội Nhân dân khu vực miền Tây Nam bộ, Cần Thơ
14. Phạm Minh Châu, GSTS Đại học Paris 7 và Đại học Khoa học & Công nghệ Pháp Việt USTH, Hà Nội
15. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
16. Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội
17. Nguyễn Kim Chi, nghệ sĩ ưu tú, Hà Nội
18. Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, TP HCM
19. Nguyễn Đình Cống, GS TS, Hà Nội
20. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn, Lâm Đồng
21. Nguyễn Đức Dân, GS TS, TP HCM
22. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM
23. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ Nha khoa, TP HCM
24. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
25. Lê Đăng Doanh, TS, Hà Nội
26. Nguyễn Thị Xuân Dung, cán bộ hưu trí, TP HCM
27. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
28. Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo, Huế
29. Phùng Liên Đoàn, TS, Hoa Kỳ
30. Minh Đường, TS, Giám đốc Trung tâm Xây dựng Môi trường Văn hóa mới, Viện trưởng Viện Nghiên cứu SENA, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
31. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM
32. Nguyễn Thanh Giang, TS, cán bộ hưu trí, Hà Nội
33. Nguyễn Thu Giang, nguyên Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, TP HCM
34. Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo về hưu, Pháp
35. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng Công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
36. Trần Hải Hạc, nguyên PGS Đại học Paris 13, Pháp
37. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội
38. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
39. Đặng Thị Hảo, TS, nguyên Phó Ban Ban Văn học Cổ cận đại Viện Văn học, Hà Nội
40. Nguyễn Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
41. Nguyễn Trọng Hiền, nhà Vật lý, Jet Propulsion Laboratory, California Institute of Technology, Hoa Kỳ
42. Lại Thị Ánh Hồng, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, TP HCM
43. Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt
44. Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn), nhà báo, Đà Nẵng
45. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
46. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Đà Nẵng
47. Diệp Đình Huyên, nguyên giám đốc đài Phát thanh Truyền hình tỉnh Lâm Đồng, hưu trí, Đà Lạt
48. Phạm Xuân Huyên, GSTS, Đại học Paris Denis Diderot và Viện John Von Neumann, Đại học Quốc gia TP HCM
49. Hoàng Hưng, nhà thơ, TP HCM
50. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège, Bỉ, TP HCM
51. Nguyễn Thị Xuân Hương, cán bộ hưu trí, TP HCM
52. Lê Phú Khải, nhà báo, TP HCM
53. Vũ Trọng Khải, PGS TS, TP HCM
54. Nguyễn Sỹ Kiệt, TS Khoa học Kỹ thuật, TP HCM
55. Tương Lai, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, TP HCM
56. Nguyễn Ngọc Lanh, Nhà giáo Nhân dân, nguyên GS Đại học Y Hà Nội, Hà Nội
57. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
58. Hồ Uy Liêm, PGS TS, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
59. Vũ Linh, nhà giáo, Hà Nội
60. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TP HCM
61. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Thư ký của đ/c Mai Chí Thọ, TP HCM
62. Nguyễn Khắc Mai, nhà nghiên cứu, Hà Nội
63. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), Đại biểu Quốc hội khóa 6, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, TP HCM
64. Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn
65. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
66. Ngô Minh, nhà thơ, Huế
67. Bửu Nam, PGS TS, Huế
68. Trần Tố Nga, nhà giáo về hưu, TP HCM, hiện đang ở Paris
69. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn giải phóng, TP HCM
70. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An
71. Hạ Đình Nguyên, cựu tù Côn Đảo, TP HCM
72. Phạm Đức Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp, Đại học Xây dựng, Hà Nội
73. Nguyễn Minh Nguyệt, nguyên cán bộ giảng dạy Đại học Tổng hợp Hà Nội, TP HCM
74. Trần Minh Nguyệt, cán bộ hưu trí, TP HCM
75. Trương Duy Nhất, nhà báo độc lập, Đà Nẵng
76. Hoàng Ý Nhi, nhà thơ, TP HCM
77. Nguyễn Nhiên, nguyên Giám đốc Trung tâm Quan hệ Quốc tế của thành phố Huế, Huế
78. Hồ Ngọc Nhuận, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, TP HCM
79. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ, Hội An
80. Nguyễn Thị Phương, cán bộ hưu trí, TP HCM
81. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá Công an, Hà Nội
82. Trần Đức Quế, cán bộ Bộ Giao thông Vận tải, đã nghỉ hưu, Hà Nội
83. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, Đà Lạt
84. Trần Minh Quốc, nhà giáo, TP HCM
85. Sương Quỳnh (Ngô Kim Hoa), thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, TP HCM
86. Tạ Cao Sơn, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2, Hà Nội
87. Nguyễn Kim Sơn (tức Huy Văn), Đại tá, cựu Đội viên Cứu quốc quân, Hà Nội
88. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
89. Trần Ngọc Sơn, bút hiệu Nguyễn Trung Chính, kỹ sư, Pháp
90. Jacques Nguyễn Thái Sơn, Président Interface de la Francophonie, Cố vấn Viện Địa Chính trị Paris (AGP), Pháp
91. Văn Tạo, GS, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, Hà Nội
92. Lê Văn Tâm, TS, Nhật Bản
93. Hoàng Thúc Tấn, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội
94. Tạ Đình Thính, nguyên Vụ Trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội
95. Trần Công Thạch, nhà giáo, nguyên cán bộ Thành đoàn TP HCM, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, TP HCM
96. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
97. Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
98. Huỳnh Kim Thanh Thảo, cử tri, TP HCM
99. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
100. Nguyễn Quang Thân, nhà văn, TP HCM
101. Giuse Maria Lê Quốc Thăng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn
102. Đinh Hoàng Thắng, TS, Thư ký Chương trình “Minh triết làm chủ Biển Đông”, Trung tâm Minh triết, Hà Nội
103. Đào Tiến Thi, ThS, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
104. Phạm Tư Thanh Thiện, nhà báo về hưu, Pháp
105. Trần Văn Thọ, GS TS, Đại học Waseda, Nhật Bản
106. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
107. Nguyễn Bá Thuận, TS, nhà giáo về hưu, TP HCM
108. Đào Công Tiến, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên Hiệu trưởng truờng Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
109. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
110. Nguyễn Thị Ngọc Toản, GS, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Khoa Sản Viện Quân Y 108, Hà Nội
111. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn nghệ, Hà Nội
112. Mạc Văn Trang, PGS TS, Hà Nội
113. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, TP HCM
114. Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội
115. Thanh Tùng, họa sĩ, TP HCM
116. Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá, cán bộ tiền khởi nghĩa, Hà Nội
117. Đoàn Sự, Đại tá, nguyên Cục phó thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội
118. Lưu Trọng Văn, nhà văn, nhà báo, TP HCM
119. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng
120. Hồ Trí Việt, nhà báo, nhà văn và phê bình văn học, TP HCM
121. Trần Đại Vinh, nhà nghiên cứu, Huế
122. Hà Quang Vinh, hưu trí, TP HCM
123. Trần Ngọc Vương, GS TS, Hà Nội
124. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
125. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hoá Huế, Huế (đại sát thủ VGCS, kẻ đã nhúng tay vào máu của hơn 5327 đồng bào vô tội Huế Tết Mậu Thân 1968 - CKV)
126. Phạm Xuân Yêm, GS TS, Pháp
127. Nguyễn Đông Yên, GS TS, Hà Nội
0 comments:
Post a Comment