CHÍNH KHÍ VIỆT

Thursday, November 16, 2017

(CHƯƠNG 7, 8, 9) Sự Tích Con Yêu Râu Xanh


Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam


Việt Thường

Bài 7.

Tụi này được lựa chọn trên cơ sở “giai cấp” và “tính đảng (mafia)” và đào tạo theo kiểu “thủ công” nghĩa là học tắt và học nửa chương trình bậc phổ thông. Thí dụ: Nếu chúng được cho đi học về ngành xã hội thì chúng chỉ học tóm tắt kiến thức bậc phổ thông về văn, sử và địa lý, không học các môn toán, vật lý, hóa học, sinh vật. Còn nếu theo học về ngành khoa học tự nhiên thì ngược lại. Vả chăng, đứa nào đã được “đảng” chọn đi học là coi như đương nhiên phải đỗ. Thầy, cô giáo nào mà chấm thi để chúng trượt sẽ bị phê bình là “mất lập trường giai cấp”. Dưới chế độ mafia đỏ đây là một trọng tội! Thí dụ cụ thể: Hạ bá Nền nguyên là giao liên thời chống Pháp, vì có họ xa với Hoàng quốc Việt (tên thật là Hạ bá Cang) nên được cho đi học bổ túc công nông rồi vào học đại học tổng hợp văn ở Hà-nội. Suốt 3 năm học đại học, Hạ bá Nền chỉ làm có ba việc là: hoạt động hiệu đoàn của trường; là bí thư chi bộ đảng mafia đỏ của lớp; có thì giờ thì vào thư viện sưu tập thơ của các bút nô “ca ngợi” Hồ chí Minh (sau được in thành tập gọi là “Sáng tháng năm”). Vì thế khi thi tốt nghiệp để giấy trắng và giáo sư Hoàng như Mai đành phải đánh trượt. Hạ bá Nền làm đơn kiện giáo sư Hoàng như Mai gửi đảng đoàn mafia đỏ ở bộ đại học và trung học chuyên nghiệp. Kết quả: Giáo sư Hoàng như Mai bị khiển trách, phải xin lỗi Hạ bá Nền và bộ đại học và trung học chuyên nghiệp đã gửi “bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp văn” cho Hạ bá Nền!!!
Các tổ chức trường lớp ăn ở, sinh hoạt, học tập lẫn lộn các thành phần nói trên là biện pháp của tập đoàn lãnh đạo mafia đỏ muốn thuần hóa ngay từ đầu tầng lớp “trí thức tương lai” của cái gọi là “chế độ xã hội chủ nghĩa” y hệt kiểu các cụ xưa thường nói rằng:
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về
.

Cho dù sẽ là “trí thức xã hội chủ nghĩa tương lai”, nhưng vì có cái gốc trí thức nên vẫn bị nghi kỵ. Bởi vì đường lối đào tạo của “quốc tế cộng sản” (tức mafia đỏ quốc tế) đối với trí thức của thuộc quốc (như Việt Nam dưới chế độ mafia Hồ chí Minh) là biến họ thành trí nô, hoàn toàn khác với cách đào tạo ở mẫu quốc (Nga-xô).
Về vật chất:
Được là sinh viên, phải là đoàn viên thanh niên cộng sản (cánh tay mặt của đảng mafia đỏ), là qua được một cửa ải. Tuy nhiên, loại trừ số gốc gác từ binh lính, công an, cán bộ ra, số xuất thân từ học sinh cấp 3 phổ thông chính quy vẫn còn bị chia loại thành con em họ hàng mafia đỏ gộc; con em “liệt sỹ”, thương binh; con em đảng viên mafia và con em những gia đình “quần chúng tốt” (nghĩa là gia đình không có ai là đảng viên mafia mà cũng không có ai là phản động hoặc đối tượng bị phân biệt đối xử) tất nhiên bản thân phải là đoàn viên thanh niên lao động, để quản lý, để đãi ngộ có chút phân biệt. Cụ thể là: con em của mafia đỏ trung, cao cấp, con em “liệt sỹ”, thương binh khi vào đại học được thỏa mãn ngành nghề, được cho thêm điểm và được hưởng học bỗng toàn phần. Thí dụ về điểm: giả sử muốn thi vào trường y khoa, điểm đậu là 40. Con em quan lại đỏ và con em thương binh, “liệt sỹ” chỉ cần 35 điểm là cho đậu. Cá biệt còn ít hơn cũng được đậu. Còn con em đảng viên mafia đỏ thường và “quần chúng tốt” bắt buộc phải đủ 40 điểm mới cho đậu. Cá biệt có khi đủ 40 điểm vẫn phải chuyển qua học ngành khác mà tiêu chuẩn điểm số ít hơn, như bách khoa hay tổng hợp chẳng hạn, để “nhường” chỗ cho con em quan lại đỏ trung, cao cấp hay con em liệt sỹ, thương binh vào học dù điểm thi của chúng có thể dưới cả điểm “ưu đãi” là 35 điểm. Tóm lại là, trong thực tế không phải người giỏi được vào đại học và không được quyền chọn ngành học, trừ phi đó là con em quan lại đỏ cao cấp.
Ở tập thể tất nhiên cũng phải ăn tập thể. Những sinh viên được học bỗng cũng chia làm ba hạng: Loại được toàn phần học bỗng; loại nửa học bỗng và loại 1/3 học bỗng. Con em quan lại đỏ đương nhiên được hưởng học bỗng toàn phần, đủ đóng tiền ăn tháng và giấy, bút, mực. Khẩu phần ăn của sinh viên dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh là khẩu phần đói nhất. Thí dụ: trước 1975, ở phía Bắc Việt Nam, trong khi tiêu chuẩn ăn của bếp dành dành cho nhân viên của trường là 18 đồng/tháng, thì của sinh viên là 15đồng/tháng. Khẩu phần ăn của sinh viên “có vẻ” đồng đều nhau, nhưng thực tế khác biệt rất xa. Vì, trong khi sinh viên nghèo chỉ ngày hai bữa theo tiêu chuẩn 15đồng/tháng, nghĩa là hai lưng cơm độn, tý nước canh rau và vài cọng rau già chấm nước muối ớt. Cả tháng may ra mới được ăn một bữa có một mẫu thịt hoặc hai lát đậu phụ, vì tiêu chuẩn thực phẩm phân phối của sinh viên chỉ có 0kg150 thịt hoặc mỡ trong một tháng (có thể bị thay thế bằng 0kg300 đậu phụ) và 0kg100 đường màu cánh gián (đường Cuba sản xuất) hoặc thay thế bằng mật mía để nấu chè khoai lang hoặc sắn lấy từ chất độn trong khẩu phần lương thực mà dân thường là 13kg500 (cũng bị trừ 3kg). Trong khi đó, con cái quan lại đỏ cao cấp được gia đình cho thêm lương khô (hàng Trung cộng viện trợ cho binh lính mafia đỏ), thực phẩm như thịt kho, cá kho, pa-tê, gà vịt kho, bơ, sữa hộp, đường trắng (hàng mua trong cửa hàng cung cấp đặc biệt), thuốc bổ. Ngoài ra bọn chúng có tiền nên sáng, trưa, tối còn ra hàng quán quanh trường ăn quà như phở, bún, bánh kẹo, trái cây. Nhiều đứa hai bữa ăn chính còn được ô-tô của bố đến đón về nhà ăn cơm với gia đình. Cho nên phần cơm ở trường hầu như chúng đem cho các bạn thân hoặc loại “bạn tà-lọt”! Thành ra sinh viên xuất thân gia đình thương binh, “liệt sỹ”, cán bộ trung, sơ cấp, “quần chúng tốt” hầu như đói quanh năm. Vì thế mới xuất hiện chuyện “tiếu lâm thời đại” có tên “Nhà 5 tầng” trong đó nói đến việc tầng lầu dành cho sinh viên ở không cần nhà cầu (WC) vì sinh viên bị ăn đói nên có cứt đâu để ỉa mà cần nhà cầu!
Trong tổ chức của mafia đỏ ở các trường đại học, sinh viên phải luân phiên nhau “lao động chân tay” ở trường như làm phụ bếp, làm vệ sinh trường lớp. Tụi mafia đỏ dùng biện pháp “bỏ đói” để thuần dưỡng tầng lớp “trí thức tương lai” đã khiến công việc “lao động chân tay” đó thành đặc ân. Vì, sinh viên tranh nhau được “lao động chân tay” (chứ không phải học kiến thức) để được nhà bếp tăng thêm một chút trong khẩu phần ăn do xà xẻo từ khẩu phần của các sinh viên khác. Tất nhiên con em quan lại đỏ không bao giờ phải “lao động chân tay” vì đã có vô vàn sinh viên xuất thân hạ phong xin được thay thế để giành bữa ăn ưu đãi do “bóc lột” của các bạn học mà ra. Nghĩa là, loại trừ con cái quan lại đỏ, những “trí thức tương lai” của xã hội mafia đỏ thống trị đã được thuần dưỡng thành thói quen “giành giật từng vài muỗng cơm độn và vài cọng rau già hoặc lát đậu phụ “nhiều hơn các bạn”. Cho nên cái gọi là “trí thức xã hội chủ nghĩa” thực chất là trí nô. Họ đã bị vô liêm sỉ hóa trong lúc đào tạo.
Về tinh thần:
Trước hết về danh xưng, tụi mafia đỏ không dùng chữ sinh viên mà gọi là học sinh đại học. Vì thế cũng bị đối xử như học sinh ở bậc phổ thông. Tỷ như cũng phải tập hợp xếp hàng vào lớp. Vào đến lớp rồi, yên vị xong phải hát tập thể vài bài theo sự điều khiển của quản ca. Thông thường là các bài “Kết đoàn” (nhạc Trung cộng, lời Việt dịch từ Tàu ra); vài bài có nội dung thi đua sản xuất, công ơn “đảng” (mafia đỏ) và chống “Mỹ-Ngụy”. Từ cách lên lớp cho đến làm bài kiểm tra, hệt như ở bậc phổ thông, hoàn toàn khác với cách đào tạo trên thế giới, ngay cả Nga hay Đông Đức. Nghĩa là người sinh viên sau khi lên lớp nghe giảng bài thì về học và làm bài theo tổ, hoàn toàn không có sự độc lập suy nghĩ. Đây là biện pháp chống sinh viên có thể suy nghĩ (tức tư duy) khác với ý đồ của tập đoàn mafia đỏ đầu sỏ. Đồng thời, kiểu học theo tổ, theo nhóm cũng nhằm “kiểm soát tư tưởng” của sinh viên.
Sinh viên xưa kia được tôn trọng cả ngoài xã hội lẫn ở nhà trường; được làm quen với việc nghiên cứu cẩn trọng và độc lập tư duy (tức suy nghĩ) trên các tài liệu; được ba tháng hè một năm học và nếu có năng lực học tập có thể cùng lúc ghi tên học hai hoặc ba ngành (thí dụ như lưỡng khao tiến sỹ Nguyễn mạnh Tường, vừa học luật vừa học văn chương; hay “thần đồng” Trần đại Văn, khi học ở Albert Sarraut trước 1954, học 3ème (tức đệ tứ phổ thông) nhẩy thi tú tài Pháp phần 1, qua ba tháng hè thi tú tài Việt phần 1; năm sau thi tú tài Pháp phần 2, qua ba tháng hè thi tú tài Việt phần 2, nghĩa là có bốn bằng tú tài trong hai năm học và sau đó lên đại học Hà-nội (trước 1954) cùng theo học hai ngành là toán đại cương đại học (M.G) và lý, hóa, sinh (P.C.B) và đều đạt kết quả “rất giỏi”. Còn sinh viên dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh chỉ được phép học một ngành, trong đó thời gian học kiến thức rất ít, không có điều kiện nghiên cứu ngoài tài liệu được phép. Vì ở thư viện có sự phân loại sách vở, tài liệu gọi là lạc hậu phản động, chỉ dành cho người có thẻ đặc biệt do giấy giới thiệu của bộ trưởng bộ chủ quản người nghiên cứu ký bảo lãnh, còn các giáo viên, sinh viên chỉ được học, tham khảo sách báo, tài liệu đã được kiểm duyệt, đảm bảo không có sự bất lợi cho chế độ mafia đỏ trong nước cũng như quốc tế và cái gọi là triết học Mác-Lê (Marx-Lénine). Trong 9 tháng học tập, sinh viên dưới chế độ mafia đỏ phải học cái gọi là chính trị, có nghĩa là chấp nhận cái gọi là chủ nghịa Marx-Lénine, tư tưởng Mao trạch Đông và tác phong Hồ chí Minh mà nội dung chủ yếu phải thấm nhuần là:
- Chủ nghĩa quốc tế vô sản tức ưu tiên bảo vệ Nga-xô-viết; thực hiện chiến lược bá chủ toàn cầu của Nga-xô qua cái gọi là giúp đỡ các “đảng bạn”, giúp đỡ cái gọi là “cách mạng dân tộc dân chủ” cả cổ động tuyên truyền cả người, cả vật chất. Thí dụ như mafia đỏ Việt Nam giúp cho Lào cộng, Cam-bốt cộng. Congo thời Lumumba cầm quyền; hoặc kiểu Cuba đem lính qua châu Phi cũng như châu Mỹ La-tinh v.v…
- Đấu tranh giai cấp là động lực của cách mạng và bạo lực cách mạng. Nghĩa là phải thừa nhận việc tiêu diệt các thành phần giai cấp xã hội bị mafia đỏ qui là phi vô sản là duy nhất đúng và cần thiết cho xã hội tiến lên, cũng như phải giải quyết mọi cuộc “cách mạng” có tính chất đấu tranh giai cấp bằng biện pháp duy nhất hiệu quả là bạo lực, như kiểu cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
- Chủ nghĩa Marx-Lénine là đỉnh cao trí tuệ của loài người. Chủ nghĩa đế quốc tất yếu phải sụp đổ. Cách mạng vô sản sẽ thành công trên toàn thế giới là điều khẳng định.
- Phép biện chứng của tự nhiên và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tóm tắt tư bản luận của Marx và v.v…
Về trong nước Việt Nam thì phải học:
- Lịch sử cách mạng Việt Nam (tất nhiên đây là tài liệu xuyên tạc lịch sử chân thực của Việt Nam).
- Chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô chính phủ và phải thấy nền dân chủ tập trung ngàn vạn lần dân chủ hơn các nước ở thế giới tự do, Phải thấy tính ưu việt của chế độ ta (tức chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh) và chủ nghĩa tập thể.
- Các nghị quyết của đảng mafia đỏ Hồ chí Minh cùng việc nghe báo, đài hằng ngày và nghe báo cáo ngoại khóa (chủ yếu là xuyên tạc, tô hồng, bôi đen).
Cùng với học lý luận chính trị còn có sự kết hợp của cái gọi là “lý luận và thực hành”. Nghĩa là sinh viên phải tham gia “xây dựng trường lớp” để hiểu về cái gọi là “lao động sáng tạo ra của cải vật chất”; phải giúp nông dân trong các ngày thu hoạch, làm cỏ, tát nước v.v…; phải giúp công nhân tức làm vệ sinh công nghiệp ở các nhà máy; phải tham gia đầy đủ các cuộc mít-tinh chính trị tức rèn luyện lập trường cách mạng; phải tham gia sinh hoạt văn nghệ, thể thao nhằm rèn luyện thành cái gọi “con người mới xã hội chủ nghĩa”!!!
Đối với sinh viên, điểm học tập chính trị và lao động quan trọng hơn điểm kiến thức của ngành học. Nó còn là cơ sở cho việc duyệt tốt nghiệp và bố trí nơi công tác, cũng như đó là tiêu chuẩn để thành “cảm tình của đảng mafia đỏ” hoặc được kết nạp thành đảng viên mafia đỏ.
Ngoài môn chính trị kết hợp với phải lao động chân tay như đã trình bày ở trên, sinh viên còn phải tập quân sự. Nghĩa là sinh viên được đào tạo thành trí nô cùng lúc có thể sử dụng làm binh nô khi cần.
Bè lũ mafia đỏ Hồ chí Minh luôn luôn kêu gào rằng; “có áp bức thì có đấu tranh” để “chính nghĩa hóa” những hành động gây chiến tranh phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng toàn diện của đế quốc đỏ mà chúng là tay sai, cũng như những thủ đoạn bạo lực mà chúng thực thi trong cái gọi là “cách mạng long trời lở đất”. Chúng như thằng mù múa gậy vườn hoang nên không thể thấy rằng chính chúng là tập đoàn tiếm quyền thống trị và đàn áp tàn bạo nhất lịch trong sử loài người, còn hơn cả lũ xâm lược phương Bắc xưa kia và gần trăm năm đô hộ của thực dân Pháp. Vì thế các tầng lớp nhân dân Việt Nam nói chung, trí thức và “trí thức tương lai” (tức học sinh, sinh viên) của Việt Nam nói riêng, dù bị quản lý và khống chế chặt chẽ bằng tổng hợp mọi thủ đoạn đàn áp của lũ xâm lược, thực dân xưa kia kết hợp với phương pháp tẩy não khoa học của đế quốc đỏ dựa trên học thuyết Paplov, vẫn có 1001 cách đấu tranh khi công khai, khi ngấm ngầm đã có tác dụng bào mòn, làm hoen rỉ chế độ khát máu mafia đỏ Hồ chí Minh.
Cho nên, khoảng đầu năm 1970, Tố Hữu, ủy viên chính trị bộ kiêm ủy viên ban thư ký đảng mafia đỏ, phụ trách trưởng ban tuyên huấn đỏ đã chủ biên cho ra đời cuốn “Về bọn Nhân văn – Giai phẩm chống đảng”. Cuốn sách này phát hành nội bộ nhằm “nâng cao tinh thần cảnh giác đối với tầng lớp văn nghệ sỹ, trí thức” trong giới mafia đỏ cầm quyền của trung ương và các tỉnh, thành. Đồng thời, Tố Hữu cũng đưa ra “sáng kiến cò mồi” bằng cách giao cho trung tá nhà văn Nguyễn Khải, viết 9 bài “hơi tiêu cực” đăng trên báo Nhân dân. Kết quả chỉ có một giáo viên trẻ ở Gia-lâm (Hà-nội) mắc bẫy và được tên mật vụ Dương Thông hỏi thăm sức khỏe!
Tố Hữu bị đồng bọn trong chính trị bộ chê, hắn chối việc giật dây Nguyễn Khải. Hoàng Tùng, tổng biên tập báo Nhân dân, ngậm miệng nhận tội “mất cảnh giác”. Còn Nguyễn Khải, vội chạy vấn kế một “sư phụ” nên khi bị Trường Chinh hỏi tội đã nhận tất cả tội lỗi do lập trường bản thân giao động. Vì thế, sau một thời gian bị ngồi chơi xơi nước, bị bạn bè xa lánh, Nguyễn Khải được Tố Hữu thi ân cho đeo lon đại tá, giữ ghế phó tổng thư ký hội bút nô kiêm thường vụ đảng đoàn của mafia đỏ trong cái gọi là “Hội liên hiệp văn học nghệ thuật”!!! Thế là một bước từ việc chấp nhận thân phận “cò mồi” và trung thành bảo vệ “uy tín” cho Tố Hữu, Nguyễn Khải nhảy lên thành quan lớn văn nghệ đỏ: một trí nô bự!!! Tiếng nói của Nguyễn Khải còn nặng ký hơn cả tên trí nô “còng lưng bẩm sinh” Nguyễn đình Thi (lời Thi nhận tội với nhà văn Nguyễn Tuân. Chẳng là nhà văn Nguyễn Tuân trách Nguyễn đình Thi thấy trên là còng lưng xuống không dám nói sự thật về những báo cáo láo của Bảo định Giang. Thi đã trả lời đại ý: “Tôi vốn còng lưng bẩm sinh mà.” Thế là nhà văn Nguyên Tuân chỉ còn cách chép miệng bỏ đi mà thôi).
Những phần trên là điểm lại những nét chính yếu của tội ác ngụy quyền Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam, do đích thân Hồ chỉ đạo, vì hắn nắm trong tay những chức vụ chủ yếu của bộ máy cai trị của thực dân đỏ khi ấy:
- Chủ tịch đảng mafia đỏ (hay tập đoàn công dân búa liềm);
- Chủ tịch nước (một thứ thái thú của thực dân đỏ);
- Chủ tịch hội đồng quốc phòng (người có quyền lực cao nhất của các cơ quan chuyên chính).
Dưới đây, xin nêu lên tội ác và âm mưu thâm độc của Hồ đối với cả nước Việt Nam nói chung, phần miền Nam nói riêng.
Ngay từ 1930, lúc cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương” được thành lập với bảy tên toàn là người Việt Nam, không có một mống Lào hay Cam-bốt nào, khiến ta phải hiểu rằng, thực dân đỏ, thông qua quốc tế 3, đẻ ra công cụ bành trướng thuộc địa đỏ ở Đông-dương này, lậy tụi cộng sản Việt Nam làm chủ lực. Cho nên dù phương thức thực hiện có linh hoạt thay đổi theo từng thời kỳ, tùy theo thế và lực của mẫu quốc đỏ và công cụ bành trướng là “đảng cộng sản Đông-dương”; dù có thay đổi tên thành “lao động” hay “nhân dân cách mạng” hay “hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, thì mục tiêu tối hậu vẫn là biến ba nước Đông-đương (Việt Nam, Lào, Cam-bốt) thành thuộc địa đỏ, là tiền đồn của Nga-xô tiến tới xâm lược toàn vùng Đông-nam-á và bao vây đối thủ bá quyền của Nga-xô là Trung cộng (sau này) và đảng cộng sản Tàu trước đó.
Hồ được thực dân đỏ giao nhiệm vụ xây dựng phong trào “cộng sản ở Đông-nam-á”, giám sát một phần nào đó hoạt động của cộng sản Tàu, nhưng đối với “cộng sản Đông-dương” thì Hồ chỉ là người liên lạc giữa “quốc tế 3” và “cộng sản Đông-dương” mà thôi. Chưa bao giờ Hồ được coi là lãnh tụ của “cộng sản Đông-dương” như Trần Phú, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai, Hà huy Tập, Phùng chí Kiên v.v…
Quốc tế 3 (tức Nga-xô) chỉ sử dụng Hồ vì hắn tỏ ra mẫn cán, chịu khó chịu khổ và sẵn sàng làm bất kể những gì dù đồi bại, bẩn thỉu và tàn bạo. Nghĩa là Hồ được dùng chứ không được tin.
Sau này, khi nắm được quyền lực trong tay, Hồ đã vội vàng tự đánh bóng trước vào chính lúc biết bao công việc của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa bắt đầu. Vậy mà Hồ vẫn dành công sức để viết về bản thân, dưới cái tên Trần dân Tiên (1948) và T. Lan. Điều đó chứng tỏ nó rất quan trọng đối với Hồ. Và quả rằng thủ đoạn lưu manh đó của Hồ có đem lại nhiều kết quả.
1. Lũ bồi bút của Hồ ra công tô vẽ trên cái khung giả dối đó của Hồ, lòe hết thế hệ này đến thế hệ khác, đến mức có những tên biết rõ con người của Hồ mà cũng xoay ngòi bút 180 độ để ca ngợi Hồ như Trường Chinh, Trần huy Liệu, Nguyễn khánh Toàn, Trần văn Giàu v.v…
2. Các nhà báo, nhà văn, sử gia nước ngoài – kể cả loại có tiếng tăm – cắm đầu dựa vào núi tụng ca đó để vẽ rắn thêm chân, đến mức mấy “me-xừ quan liêu” ở UNESCO chút xíu tặng cho tên Việt gian số một, tên sát nhân, tên chó dái đụ bậy, tên đạo văn thành “danh nhân văn hóa thế giới!!! Cũng may, nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã ngăn chặn cái chuyện lố bịch đó kịp thời.
3. Lũ bút nô ở mẫu quốc đỏ chính thức tô vẽ, đánh bóng cho đứa con hoang đã từng bị hắt hủi, bỏ qua các hồ sơ lưu trữ tại mẫu quốc đỏ.
Một loạt những cái đầu, những ngòi bút thiếu trung thực, thiếu dũng cảm, vô lương tâm đó đã gây họa cho nhiều thế hệ của nhân dân Việt Nam. Vì, cho đến tận bây giờ, còn có những người Việt Nam ở hải ngoại (trong nước thì khỏi nói) viết sách “chống cộng” mà vẫn sao chép của giả, kê hết ông Tây này đến bà Đầm kia, không một lời phê phán, đối chiếu so sánh tài liệu nên tên sách thì chống đối mà nội dung thành chống đỡ cho họ Hồ. Chính lý do này mà đến nay tập đoàn Việt gian cộng sản và ngụy quyền mafia Hà-nội vẫn lấy cái thây ma Hồ chí Minh làm lá chắn, che thân.
Những báo cáo của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 hãy còn, trong đó có tố giác năm 1930, chưa chờ chỉ thị của quốc tế 3 mà Hồ đã mạo nhận “thừa lệnh” quốc tế 3 để thành lập “đảng cộng sản Việt Nam”, nên sau phải đổi lại là “đảng cộng sản Đông-dương”. Thư của Trần Phú gửi quốc tế 3 (cục lưu trữ trung ương đảng cộng sản Liên-xô cũ) có đoạn: “Quốc chỉ là liên lạc viên thôi, nhưng ở đâu cũng ra lệnh, cũng đòi báo cáo làm chúng tôi cực kỳ khó khăn.” Biên bản kiểm điểm Hồ và chê Hồ ngu của quốc tế 3 cũng còn đó. Việc Hồ bị xếp lương còn dưới Nguyễn khánh Toàn vẫn còn đó. Việc Hồ khi đã nắm được bộ máy cai trị ở Việt Nam, qua Nga-xô vẫn bị Stalin coi thường (đúng ra là vừa khinh vừa nghi) cũng còn đó. Tất cả những điều trên và vài sự kiện khác nữa cho phép ta kết luận rằng, nguyên nhân Nga-xô dùng Hồ mà không tin Hồ vì:
Hồ là người Việt Nam đầu tiên sang Nga-xô tự nguyện hiến dâng cuộc đời và tâm hồn cho mẫu quốc đỏ. Nên nhớ Nga-xô là một nước tồn tại bằng an ninh, tình báo, nên chắc chắn và phải có sự thẩm tra lý lịch của Hồ. Chắc chắn Nga-xô phải biết những điều sau về Hồ:
a) Trong đơn xin học trường thuộc địa ở Pháp, Hồ khai tên là “Nguyễn tất Thành” và năm sinh là 1892. Khi tới Nga-xô, Hồ lại khai tên Nguyễn ái Quốc và năm sinh là 1985;
b) Hồ cũng không khai là trước ngày qua Nga, Hồ có vợ người Pháp (có con với Hồ đặt tên là Louis Daguière);
c) Hồ cũng không khai là đã làm đơn xin học trường thuộc địa Pháp và hứa sẽ phục vụ mẫu quốc Pháp.
d) Hồ cũng không khai rằng “Nguyễn ái Quốc” là cái tên chung của nhiều người. Cũng như các bài báo ký tên “Nguyễn ái Quốc” không phải đều là do Hồ viết. Nếu có bài nào đó do Hồ viết thì cũng đã được những vị cách mạng Việt Nam khác chữa hộ, như các cụ Phan văn Hùm, Nguyễn thế Truyền, Nguyễn an Ninh.
e) Hồ cũng không khai rằng cha Hồ là một bậc khoa bảng đã tình nguyện được làm tay sai cho thực dân Pháp, sau bị thải hồi vì tính tình hung bạo, nghiện rượu, say sưa đã vô cớ đánh chết dân lành làm thú vui “giã rượu”!!!
Những sự việc nêu trên cùng với lối sinh hoạt của Hồ như đĩ bợm, thích đớp hít (lúc nào Hồ cũng phải hút thuốc lá thơm Craven A, đốt thuốc liên tục; ngay lúc kháng chiến chống Pháp, Hồ vẫn phải vài gói Craven A một ngày, nhưng để tránh tiếng lãng phí, xa xỉ, Hồ bịa rằng “trung ương ra lệnh Hồ phải hút thuốc là thơm”. Lưu manh số dzách thật!); giả dối cả những việc không đáng gì v.v… nên Nga-xô dùng Hồ như kiểu Stalin dùng Yagoda vậy. Nghĩa là vì Hồ hám danh, hám lợi, hám ăn, hám gái; bất nhân, tàn bạo (chắc do gene của cha đẻ). Sau này khi Hồ đã thành công như Hồ tự thú: “Gặp thời một tốt cũng thành công” thì mọi sự đen được đổi thành trắng.
Biết thân phận như vậy, nên 1948, dù biết là lố bịch nhưng không thể khác được, Hồ đành lấy bút danh Trần dân Tiên để tự bộc lộ có dụng ý:
1) Cho đàn em cứ mẫu đó mà phết son trát phấn, đừng đi tìm hiểu lòng thòng mà lộ vở;
2) Biểu lộ khéo léo quá trình khuyển mã đối với thực dân đỏ cũng như quyết tâm làm khuyển mã đến hơi thở cuối cùng (như di chúc của Hồ sau này).
Vì thế, ngay khi phải ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam thì Hồ đã chuẩn bị để vi phạm. Đó là lệnh cho cài người lại miền Nam để phá các chính phủ của Nam Việt Nam sau này, không cho rảnh tay xây dựng ấm no, hạnh phúc cho dân; để dụ khị những loại cơ hội, hám danh, hám quyền (lấy áo gấm yêu nước che đậy), tùy loại mà kẻ thì “trí thức yêu nước”; kẻ thì “thành phần thứ 3”; kẻ thì “du ca phản chiến”; kẻ thì “vào bưng làm bù nhìn”; kẻ thì “cạo đầu vào chùa”; và có nhiều tên vào nằm vùng ở các tổ chức quân, dân, chính, đảng ở miền Nam (sau tháng 4/1975, nhiều tên đã lộ mặt). Chứng cớ rõ ràng nhất là nội dung nghị định 23/1999/NĐ-CP ngày 15-4-1999 của ngụy quyền Hà-nội về chế độ đối với “quân nhân, cán bộ được đảng cử ở lại miền Nam sau hiệp định Genève năm 1954”(sic). Cũng như nội dung Nghị quyết của hội nghị 15 (khóa 2 mafia đỏ) tháng 1-1959, do Hồ chủ trì, quyết định xâm lược vũ trang miền Nam Việt Nam. Nghị quyết 15 này hạn chế phổ biến nhưng vẫn được lưu trữ. Thế là chỉ 13 tháng sau ngày Hồ cho ra nghị quyết 13 (12/1957) mà nội dung là nắm vững chuyên chính và miền Bắc phải tiến lên XHCN, nghĩa là tập trung toàn bộ nhân lực, tài lực của miền Bắc Việt Nam vào tay tập đoàn mafia cộng sản bằng biện pháp cưỡng chế bạo lực, để chuẩn bị thực hiện tiếp tục chính sách bành trướng của thực dân đỏ.
Tập đoàn mafia cộng sản, sau khi Hồ chết, muốn tận dụng hiệu quả các chuyện phịa về Hồ trước đây ở tầm cỡ quốc tế để làm lá chắn che đậy bộ mặt Việt gian, phản dân hại nước của chúng, nên chúng đã chỉ đạo việc chạy tội cho Hồ, và con dê tế thần đó là Lê Duẩn (có lẽ vì Duẩn tuổi Đinh mùi, cầm tinh con dê cụ). Cho nên ngay cả một số người rời hàng ngũ mafia đỏ, ra hải ngoại (chẳng biết vô tình hay hữu ý) cũng viết sách chạy tội cho Hồ, nào là Hồ không liên can gì đến việc vũ trang xâm lược miền Nam; nào là Hồ bị Lê đức Thọ ngăn không cho phát biểu về nghị quyết 9 (khóa 3), tức nghị quyết Mao-ít(!); nào là Hồ bị mất quyền vào tay Lê Duẩn, đến mức vụ tàn sát 1968 (Mậu Thân) ở Huế, Hồ chỉ được cho thu bài thơ chúc Tết, còn ngày giờ Hồ đâu có biết v.v… (tin dò rỉ từ Vũ Kỳ (thiếu tướng), thư ký riêng của Hồ). Thật lạ, phe cánh Duẩn, Thọ bịt được mồm Hồ mà không bịt nổi mồm me-xừ Vũ Kỳ!!! Thậm chí có cái loa rè còn bạo phổi đưa tin là chiều 2-9-1969, Hồ say rượu bất nhã với đại sứ Nga-xô, nên tối đó Lê Duẩn đã đem súng lục phệt bể sọ Hồ. Nghe tin thấy đúng là “kẻ bị tâm thần” học đòi nghề viết!

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

Việt Thường

Bài 8. Xin được phép phân tích như sau

Năm 1954, dù có vừa mù vừa điếc thì ai ai cũng biết rằng uy tín của Hồ, quyền lực của Hồ là tuyệt đối, Lê Duẩn khi đó còn ở dưới Trường Chinh. Sau Hồ thì uy tín cũng như quyền là thuộc về Võ nguyên Giáp. Vậy Lê Duẩn có dám chống Hồ và Giáp (chưa kể Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt và đàn em tin cẩn nhất của Hồ là Phạm văn Đồng) hay chấp hành lệnh của Hồ là cài người lại. Cũng có kẻ “tung tin” rằng Lê Duẩn “lén” cài người lại. Có thể lén cài những kẻ còn vô danh tiểu tốt như mấy anh trốn ra bưng sau này, nhưng làm sao lén được những cái tên như Nguyễn văn Linh, Nguyễn văn Sô, Võ chí Công, Nguyễn đức Thuận, Phan văn Đáng, Trần bạch Đằng, La văn Liếm, Nguyễn Chánh, Trần nam Trung v.v… Bọn chúng toàn là mafia kềnh chẳng lẽ ở lại mà không có lâu la, tà lọt dám trái lệnh Hồ ở lại làm cái gì, theo “địch” chăng? Hồ là kẻ chỉ có đi lừa và chơi gác người lại để cho đàn em qua mặt sao?
Những người “buôn tin giả” đó kể rằng tướng Giáp nhận được thư riêng của Khơ-rút-xốp không trình bộ chính trị nên bị qui chụp, sau nhờ Hồ nói: “Chú Giáp có đưa cho Bác xem rồi”, nên chuyện của Giáp mới được yên. Thật là lạ, nếu Hồ đã mất hết quyền mà chỉ một câu “Bác xem rồi” khiến cả bọn Lê Duẩn, Lê đức Thọ im re, cài số lùi thì “thánh” cũng không hiểu nổi mấy ông “buôn tin giả”, kiếm chuyện làm quà với đồng bào hải ngoại!!! “Chống cộng” mà vẫn lấy làm vạn hạnh vì được chụp ảnh chung với Hồ, được ngủ chung với Hồ, được huân chương của Hồ, là công thần của chế độ mafia cộng sản, là công dân số một v.v… thì quả rằng cần cân nhắc lại cái “động cơ chống cộng” là vì dân hay vì cái gì?
Vì sao lại có cái mâu thuẫn ấy? Xin phép được “mao tôn cương” tý chút. Đó là một mặt vì quyền lợi phe phái va chạm hoặc cũng có thể nhận thấy chất mafia Việt gian của tập đoàn ngụy quyền cộng sản nên ly khai, nhưng chưa phản tỉnh (duy nhất có cụ Nguyễn Hộ là có thái độ dứt khoát) vì thế cũng muốn núp sau cái thây ma của Hồ để ra cái điều “ta yêu nước từ chân tới tóc”, chứ chưa bao giờ mê anh cả Nga-xô hoăc anh hai Trung cộng.
- Ai đẻ ra mặt trận Liên Việt và xóa sổ mặt trận Việt Minh, tại sao?
- Ai đẻ ra mặt trận Tổ quốc và xoá sổ mặt trận Liên Việt, tại sao?
- Ai đẻ ra hiến pháp 1959 (thực ra được biên soạn xong từ 1958), tại sao?
- Ai đẻ ra “cải cách ruộng đất” rồi lại “sửa sai cải cách ruộng đất” mà người phát hiện sai lầm thì bị đuổi việc, đàn áp hết cả cuộc đời, còn kẻ có tội thì cứ lên như diều?
- Ai bỏ bộ tư pháp và khoa luật, rồi cai trị bằng sắc lệnh, tại sao?
- Ai tuyên bố dù có đốt cả dãy Trường-sơn, dù có 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa thì cũng phải “xâm lược” bằng được miền Nam Việt Nam?
- Ai đẻ ra cụm từ “ngụy quân, ngụy quyền” miền Nam? Và “Mỹ mà xấu”?
- Ai bắt tù đào “hồ suối Hai” để cải “long mạch” rồi chôn những chiếc răng sâu ở đó (để phát cho thằng con hoang)?

Hàng vạn câu hỏi như vậy, nhưng người ta vẫn giả điếc giả mù để trích dẫn ông Tây này bà Đầm nọ mà bỏ qua những sự thực họ đã và đang sống trong đó, chứ không phải “cưỡi ngựa xem hoa” như Tây và Đầm.
Đúng như bậc lão thành chống cộng, cụ Phan Khôi, đã nói: “Bạn đã cố tình tôi biết nói làm sao?” Chẳng làm sao cả, chỉ cần đừng đọc, đừng nghe, đừng để chúng có cơ hội tung hỏa mù. Muốn thế, những ngòi bút, những tiếng nói chính nghĩa cần hoạt động nhiều hơn nữa, phổ biến cả trong cộng đồng người Việt, cả cộng đồng quốc tế những sự thật không thể chối cãi về Hồ và cái tập đoàn Việt gian “công dân búa liềm” của hắn.
Nhân dân Việt Nam, vì là nạn nhân, rất sáng suốt khi thấy:
“Ba mươi năm ăn cướp, tướng Võ không còn Nguyên Giáp,
Cả cuộc đời bán nước, họ Hồ mất hết trí minh.”

Đến giờ phút này, loại trừ bọn tội phạm ngụy quyền cộng sản, chỉ có những kẻ “theo đóm ăn tàn”, cơ hội mánh mung hoặc thân phận “nửa tội phạm nửa nạn nhân” mới cố tình mơ hồ về những tội ác tàn bạo của tên Việt gian Hồ chí Minh là nguyên nhân đẩy đất nước Việt Nam xuống hạng áp chót của thế giới!!!
Sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ chiếm được miền Bắc Việt Nam, nhờ vẫn tiếp tục đội lốt của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, nhờ vẫn che đậy bằng ngọn cờ “giải phóng dân tộc” chống thực dân, nên trong và ngoài Việt Nam còn nhiều người mơ hồ, chưa nhận ra rằng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã bị thoái hóa thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.
Nhưng khi Hồ công khai vi phạm hiệp định Genève 1954 về Việt Nam; công khai đảo ngược nguyện vọng của toàn dân để thiết lập chế độ thực dân đỏ núp dưới mỹ tự là “xây dựng chủ nghĩa xã hội”; công khai vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam thì không có cách nào bào chữa cho dã tâm của Hồ là hắn bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam để thực hiện chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ.
- Việc Hồ ra lệnh cài nhân sự lại miền Nam Việt Nam ngay khi ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam;
- Việc Hồ ra lệnh thực thi chuyên chính ở miền Bắc Việt Nam nhằm nắm trọn vẹn cả người cả tài sản của miền Bắc Việt Nam để chuẩn bị chiến tranh bành trướng vào miền Nam.
- Việc Hồ ra nghị quyết về vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam (nghị quyết 15, tháng 1-1959), rồi tiến hành mở đường vào Nam, đặt thành bộ tư lệnh “công trường 59” và giao trách nhiệm cho tên sát nhân đồng bào Ba Làng, là Đồng sĩ Nguyên (tên thật là Nguyễn văn Đổng) làm tư lệnh; đưa người và vũ khí vào Nam;
- Việc Hồ triệu tập cái gọi là “hội nghị chính trị đặc biệt” (làm như kiểu Diên Hồng thời Trần) để động viên toàn lực xâm lược miền Nam Việt Nam; thăm dò dư luận quốc tế;
- Việc Hồ nặn ra cái gọi là “đảng nhân dân cách mạng” và chỉ định đại tướng ngụy quân Bắc Việt là Nguyễn chí Thanh vào làm bí thư, cũng như cho một lũ tướng ngụy quân ở Bắc vào như Hoàng văn Thái, Trần văn Quang, Hoàng Cầm, Trần Độ v.v… Cũng như dựng ra cái chính phủ phường chèo “giải phóng” mà Lữ Phương sau này được đóng “diễn viên loại 2” (vì mới được là thứ trưởng cái bộ văn hóa “ở trong bưng”!!!);
- Việc Hồ là kẻ đầu tiên đưa ra sử dụng cụm từ “ngụy quyền Sài-gòn” là cái chính phủ mà hắn đã thừa nhận tính hợp pháp và tính chính thống qua văn bản của hiệp định Genève 1954 về Việt Nam. Cũng như hắn công khai lên tiếng đòi lật đổ chính phủ hợp hiến ở miền Nam Việt Nam;
- Việc Hồ dùng những lời khát máu như “dù đốt cả dãy Trường-sơn” dù “5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa” cũng phải xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, bất cần hậu quả. Cần nhớ rằng miền Nam Việt Nam vẫn chỉ là người Việt Nam sinh sống. Không đếm xỉa gì đến hạnh phúc, lợi ích của nhân dân miền Nam. Không đếm xỉa đến nhân dân miền Bắc Việt Nam. Mục đích cuối cùng của Hồ chỉ là mở rộng bờ cõi của thực dân đỏ mà thôi. Dù là óc đất cũng thấy được diện mạo của Hồ đúng là một thằng đại Việt gian;
- Việc Hồ động viên, đề cao những kẻ ngu muội theo “con đường của Hồ” để giết hại nhân dân miền Nam Việt Nam, tàn phá các công trình kinh tế, xã hội của miền Nam Việt Nam chắc chắc không thể coi đó là hành động và suy nghĩ của một người Việt Nam bình thường chứ chưa nói đến là kẻ đang nắm quyền cai trị. Nhân dân và đất nước Việt Nam trong con mắt họ Hồ còn không bằng cách hành xử của một số thái thú thời Bắc thuộc như Nhâm Diên,Tích Quang hay lũ quan thực dân Pháp;
- Năm nào Hồ cũng làm vè đầu xuân để cổ động việc xâm lược miền Nam Việt Nam, kể cả vụ Tết Mậu Thân 1968. Chính Hồ là kẻ viết và đọc lệnh sau:
“Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào
Tiến lên chiến sỹ, đồng bào
Bắc-Nam sum họp Xuân nào vui hơn!”

Lập tức bài vè này của Hồ được tên bút nô Phạm Tuyên phổ nhạc và cho phát ông ổng cả ngày, cả đêm.
Kẻ nào “quả quyết” rằng Hồ không biết gì về vụ Tết Mậu Thân là “cố tình giả mù”. Hãy xem lại những thước phim về Hồ chủ tọa các cuộc họp quân sự. Hãy đọc lại hồi ký của các tướng cộng sản xem. Ngay tướng Trần Độ cũng viết rằng mỗi lần ở Bắc quay lại Nam đều được Hồ cho ăn cơm. Vậy chẳng lẽ Trần Độ biết mà Hồ vẫn mù tịt chăng? Phải nói rằng, chỉ có những đứa cố tình chạy tội sát nhân cho Hồ, những đứa “cuồng tín ngu xuẩn” mới tin lập luận rằng Hồ không biết gì về Tết Mậu Thân. Hồ là một thằng dám hạ lệnh giết và bỏ tù 5% dân số nông thôn miền Bắc Việt Nam; cho lệnh tiêu diệt vụ Ba-làng; cho giết hàng vạn đồng bào người Mèo ở Hà-giang (các huyện Mèo-vạc và Phó-bảng) và bao vụ như “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “chỉnh đốn tổ chức” v.v… thì cái chết của ba ngàn đồng bào ở Huế mà Hồ gọi là “ngụy” nào có nghĩa lý gì trong hồ sơ diệt chủng của Hồ!!!
- Năm nào Hồ cũng chủ trì hội nghị quân sự để chỉ ra nhiệm vụ mới cho ngụy quân cộng sản trong thực thi vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam và khen thưởng, nâng cấp, gắn huân chương, huy chương cho những tên có nhiều nợ máu với nhân dân miền Nam Việt Nam (có thể đọc lại các báo cáo của ngụy quyền Hà-nội lúc Hồ chưa bị đưa đi hỏa ngục, chưa bị phanh thây nhồi bông làm thú triển lãm ở Ba-đình (Hà-nội), cũng như các phim tư liệu về Hồ và về ngụy quân cộng sản);
- Trước năm 1954 đã đành, ngay sau khi làm “chủ” miền Bắc Việt Nam, Hồ đã và vẫn tiếp tục cho phá hoại các cơ sở tôn giáo, nếp sinh hoạt tinh thần của nhân dân miền Bắc Việt Nam;
- Hồ cho hủy hiến pháp 1946, đẻ ra hiến pháp 1959 không thèm trưng cầu dân ý. Hắn hoàn toàn làm ngược lại tất cả những gì mà hắn viết trong tuyên độc lập và v.v…
Tất cả những sự việc trên không thể nào đổ tội cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ được.
*****

Sự thật về đấu đá nội bộ mafia đỏ khi Hồ còn sống

Nhiều người viết về Hồ, cả trong nước và ngoại quốc (không kể lũ bồi bút cố tình nâng bi) đều mắc sai lầm cơ bản:
- Sai lầm vì dựa vào cái khung tài liệu do Hồ tự phịa về mình cùng với các sản phẩm giả mạo do ngụy quyền Hồ chí Minh sản xuất trong một thời gian lâu dài;
- Sai lầm vì dựa vào những sách, báo ngoại quốc do người viết bị dẫn dắt bởi quan điểm chính trị hơn là với tư cách nhà nghiên cứu; nên thiếu trung thực;
- Sai lầm vì nếu có người nào đó cố làm đúng với tính cách nhà nghiên cứu, biên khảo thì họ lại không bao giờ hiểu được rằng tập đoàn Hồ chí Minh (từ Hồ cho đến nay là Nông đức Mạnh – thằng con hoang của Hồ) bao giờ cũng viết một đằng làm một nẻo. Cho nên chỉ nằm trong chuồng mà nghiên cứu các văn bản, các nghị quyết, và, nếu có tham quan thì theo kiểu “chuồn chuồn đập nước”, hoàn toàn thiếu vốn thực tế tối thiểu, cho nên công trình nghiên cứu dù ít hay nhiều, đều lợi cho tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh;
- Sai lầm vì trước khi viết về Hồ thì đã bị ngộ độc bởi sản phẩm, dư luận do Hồ và đồng bọn cả trong và ngoài nước tung ra nên bị hồ đồ, không phân biệt được nổi thực và giả. Nhất là những ai xin gặp trực tiếp Hồ đều phần lớn bị Hồ đóng kịch qua mặt hết. Bản chất của Hồ cộng với quá trình làm nghề gián điệp lâu năm khiến Hồ lúc nào cũng đóng kịch, lúc nào cũng giả dối cả những cái không cần thiết; nắm bắt tâm lý đối tượng rất nhanh và ứng phó cũng rất nhanh. Tính cách của Hồ hệt như mấy tên bán thuốc giả, lừa con bệnh ở các bến xe, bến tàu v.v…
Đàn em của Hồ sau này, từ Lê Duẩn trở xuống, đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, thậm chí cả anh hoạn lợn Đỗ Mười cho đến cai đồn điền cao-su có nợ máu với công nhân là Lê đức Anh, về tầm cỡ so sánh giống hệt con voi con với con ma-mút già vậy.
Vốn “học đường” của Hồ thì kém, nhưng Hồ học ở trường đời nhiều; lăn lộn đủ các thứ nghề; bôn ba khắp mọi chỗ; giao du đủ mọi tầng lớp; chịu ảnh hưởng sách cổ của Tàu nên Hồ biết lúc chưa có cơ hội cũng dám ăn cứt như Câu Tiễn, và khi đắc thế thì tàn bạo còn hơn vua Trụ. Thí dụ cụ thể: Trong chiến dịch biên giới 1950, đường đường là chủ tịch một nước nhưng Hồ hết sức khúm núm với đại tướng Trần Canh của Trung cộng; cùng đi chung ô-tô, Hồ đội mũ, quấn khăn che râu, ngồi sau thùng xe tải, nhường cho Trần Canh ngồi ở ca-bin. Trần Canh ăn cơm xong, Hồ xun xoe đưa khăn cho Trần Canh lau mồm và bưng nước cho Trần Canh uống. Nhưng, đến 1962, giữa lúc cuộc đấu “xét lại” và “giáo điều” của Nga-xô và Trung cộng đang gay go, biết mình có giá, nên khi đoàn đại biểu bộ bưu điện và viễn thông của Trung cộng qua thăm Bắc Việt Nam, do cả bộ và thứ trưởng (là ủy viên trung ương đảng của Trung cộng) đến phủ chủ tịch chào Hồ, hắn mặc bộ đồ nông dân màu nâu phanh hết khuy áo, đoàn Trung công đến rồi hắn mới bắt đầu bỏ kéo tỉa lá sâu héo ở vườn đi ra, rất là “kẻ cả”. Thế rồi, đến lúc ốm nặng, sợ chết, hắn cho mời Lý Ban (thứ trưởng bộ ngoại thương, dự khuyết trung ương mafia đỏ) đến và năn nỉ: “Tiên sinh có thể xin với Chu thủ tướng cho tôi sang Trung quốc chữa bệnh được không?” (vì đối với Việt Nam thì Lý Ban giữ chức vụ như nói trên, nhưng ngoài ra Lý Ban là phái viên của cộng sản Tàu bên cạnh mafia cộng sản của Hồ). Nên nhớ Lý Ban còn rất trẻ so với Phạm văn Đồng mà Hồ đội lên là tiên sinh (chuyện này do Lý Ban viết đăng trên tờ Nhân dân của ngụy quyền Hà-nội).
Khi bị Trương phát Khuê bắt bỏ tù, hắn viết phản tỉnh xin được làm tay sai cho Khuê trong kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Hắn năn nỉ các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải Thần để được gia nhập Việt Minh và xin về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Khi gặp Trường Chinh, biết chưa thể lừa Trường Chinh được, hắn nâng bi Trường Chinh “một điều đồng chí tổng bí thư, hai điều đồng chí tổng bí thư”, và tỏ ra an phận nằm trong hang Pắc-bó (Cao-bằng) dịch sách, tạc tượng. Nhưng khi đắc thế, hắn lờ cụ Hồ học Lãm như không hề tồn tại trên đời và là ân nhân của hắn; tìm mọi cách tiêu diệt uy tín của cụ Nguyễn hải Thần. Còn với Trường Chinh, hắn dùng ngay chữ “bác” của Trường Chinh để ngồi ở bậc trưởng thượng của Trường Chinh. Rồi bày trò đặt tên để vừa hạ Trường Chinh vừa sử dụng Trường Chinh. Đó là việc hắn lấy khẩu hiệu “trương kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” đặt cho cái gọi là “những người phục vụ của “bác Hồ”, gồm:
Trường: là Trường Chinh;
Kỳ: là Vũ Kỳ, thư ký “thứ thiệt” của Hồ (vì còn nhiều thư ký chỉ dùng kiểu đối phó với hoàn cảnh chính trị lúc ấy. Tỷ dụ: dùng một người công giáo để làm “an lòng” đức cha Lê Hữu Từ; khi qua Pháp dùng cả thạc sỹ sử học Phạm huy Thông để dụ khị người Việt ở Pháp v.v…);
Kháng: là bảo vệ của Hồ, sau ra làm chỉ huy trưởng bộ tư lệnh cảnh vệ (tức chó berger hai chân);
Chiến: là bảo vệ kiêm lái xe; kẻ đưa đón cô Nông thị Xuân cho Hồ giải quyết sinh lý. Sau này giữ chức tổng cục trưởng tổng cục thể dục thể thao;
Nhất: là người giữ máy phát điện đài, sau cho làm phó tổng biên tập đài phát thanh trung ương, kiêm cục trưởng cục truyền hình;
Định: là tên thợ ảnh, sau cho làm chủ tịch hội nhiếp ảnh;
Thắng và Lợi: đều là cần vụ kiêm bảo vệ (đúng nghĩa là bồi).
Hồ thường dùng các trò tiểu xảo để “hạ bệ” đối phương bằng cách gặp ai cũng đặt tên, hoặc bí danh cho họ. Y như đặt tên cho “chó” vậy. Kẻ nào chấp nhận cái tên do Hồ đặt cho là tự nhiên tụt xuống hạ phong, thừa nhận “thân phận khuyển mã, gia nô” của Hồ!!!
Những phần trên cho thấy âm mưu của Hồ trong việc hạ phe Trường Chinh, nhưng tại sao chỉ hạ mà không tiêu diệt? Tại sao Hồ lại chọn Lê Duẩn thay ngôi vị của Trường Chinh mà không phải là Phạm văn Đồng hay Võ nguyên Giáp?
Muốn giải đáp được tất cả những điều đó cũng như muốn làm sáng tỏ những thêu dệt xung quanh Hồ, sau khi Hồ chết, tỷ như:
- Phe Lê Duẩn đã thay đổi ngày giờ chết của họ Hồ; đã sửa “di chúc” của Hồ; đã “làm sai nguyện vọng” của Hồ là hắn muốn được hỏa thiêu chứ không phải xây lăng;
- Phe Lê Duẩn “hiếu chiến” và là kẻ chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát ở Huế (Tết Mậu Thân), về xâm lăng miền Nam Việt Nam, về gây chiến ở Cam-bốt, mà trước đó thì thân Trung cộng nên đã đẻ ra cái gọi là nghị quyết 9 (khóa 3) tức là “Mao-ít” mà trong hội nghị Lê đức Thọ đã “lấn át” không cho Hồ phát biểu;
- Và có đúng như Lữ Phương viết rằng: “… nhưng từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất”.
Trước khi bàn về những điều nêu trên, tôi xin được lưu ý với bạn đọc rằng:
- Hồ là con người ích kỷthực dụng tàn bạo. Hắn là loại người mà tình cảm là món hàng xa xỉ. Thí dụ: Năm 1925, mới bước vào hoạt động thì đã bán cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp, vừa triệt người yêu nước chân chính, vừa có tiền ăn nhậu và lập tổ chức Việt gian phục vụ cho Nga-xô.
Tiếp theo là bán cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học.
Rồi hắn bán ngay cả những thanh niên do nhóm Trần Phú, Hà huy Tập giới thiệu qua Tàu gặp hắn. Mục đích của hắn là nếu những thanh niên đó và gia đình, bạn bè của họ bị Pháp bỏ tù, khủng bố, nghĩa là ở vào con đường cùng thì có lợi cho việc hắn tổ chức hoạt động của hắn sau này; vừa có tiền nhậu nhẹt, hút thuốc thơm, ở khách sạn “cực kỳ sang trọng” (hồi ký của Nguyễn lương Bằng) lại khoét sâu được tội ác của thực dân Pháp hơn lên. Làm như thế là hắn đẩy những nạn nhân đó của hắn vào con đường phải chống thực dân Pháp đến cùng. Thật là hiểm độc! Sau năm 1954, chị gái ruột của Hồ lặn lội từ Nghệ-an ra thăm hắn mà hắn không cho gặp. Ăn chực nằm chờ lâu quá, bà ta phải ra về, vừa đi vừa chửi Hồ. Khi làm thí điểm “cải cách ruộng đất” ở Thái-nguyên, hắn đã bỏ mặc cho bà Nguyễn thị Năm bị tử hình, mặc dù bà ấy đúng ra là trong “thành phần địa chủ kháng chiến yêu nước”, và là người đã nuôi Hồ và cả lũ đàn em của Hồ trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp. Đối với “tình yêu” cũng thế, hắn chỉ cần thỏa mãn tính dục còn hệt như Sở Khanh, như việc của Nguyễn thị Minh Khai, của Nông thị Xuân v.v… Ngay Võ nguyên Giáp, cúc cung tận tụy với hắn, nhưng hắn vẫn cảnh giác cho ngồi chung một chuồng với Nguyễn chí Thanh để hai bên tự giám sát nhau, không ai dám âm mưu phản hắn. Đó là cách dùng người của Hồ, dù ở bất cứ cơ quan nào, ngành nào.
Xin nêu vài thí dụ cụ thể nữa để rõ thêm. Như ở nông thôn, sau cải cách ruộng đất thì dù là “chính quyền” hay “đảng”, bao giờ cũng có hai phe kình chống nhau: a) phe tố láo, vu láo; b) phe là nạn nhân của tố láo được “sửa sai”.
Bộ công an giao Trần quốc Hoàn, ủy viên dự khuyết chính trị bộ mafia đỏ, giữ ghế bộ trưởng; có Lê quốc Thân, ủy viên trung ương mafia đỏ, làm thứ trưởng thứ nhất, Lê quốc Thân theo Hồ và làm bảo vệ của Hồ từ Vân-nam (Tàu). Trong khi đó, Hồ lại giao cho Trần hữu Dực, chỉ là ủy viên mafia đỏ thôi, giữ ghế phó thủ tường kiêm chủ nhiệm văn phòng nội chính phủ thủ tướng. Nghĩa là về “đảng” thì Dực dưới Hoàn, về “chính quyền” thì Dực trên Hoàn và làm cái việc giám sát Hoàn.
Ở tổ chức trung ương, trước kia Lê văn Lương là trưởng ban, Lê đức Thọ là phó ban. Sau “sửa sai” của “chấn chỉnh tổ chức” Hồ cho đảo ngược: Lê đức Thọ là trưởng ban, có Vũ Oanh, có Đặng thị Kỳ (vợ Văn tiến Dũng) làm tà lọt. Còn Lê văn Lương xuống làm phó cho Thọ, có Hà thị Quế cùng phe. Giúp Lê văn Lương cày nát nhân sự trong khu tư của “chấn chỉnh tổ chức”, trong khi Lương bị giáng chức thì hai tên trực tiếp phạm tội là Đặng Thí và Đặng việt Châu được Hồ thưởng cho cái ghế “ủy viên trung ương mafia đỏ”. Đặng việt Châu sau còn được cho lên ghế phó thủ tướng.
Ở ban tuyên huấn trung ương, Hồ cho Tố Hữu làm trưởng ban thay Trường Chinh, và cái ghế ủy viên bộ chính trị, nhưng các phó ban như Hà huy Giáp (ủy viên trung ương) thứ trưởng thứ nhất bộ văn hóa kiêm bí thư “đảng đoàn “ bộ văn hóa, kiêm bí thư “đảng đoàn” hội liên hiệp văn học nghệ thuật; và Trần quang Huy, dự khuyết trung ương mafia đỏ kiêm bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng văn giáo phủ thủ tướng lại là hai tay vừa khinh vừa ghét Tố Hữu. Còn Hoàng Tùng, dự khuyết trung ương mafia đỏ, tổng biên tập báo Nhân dân, tuy là phó của Tố Hữu nhưng cũng coi thường Tố Hữu. Lại thêm giữa Trần quang Huy và Hoàng Tùng, chúng ghét nhau như chó với mèo.
Ngay trong cái gọi là đại hội 2 của mafia đỏ, họp ở Việt-Bắc, cuối năm 1951, về nhân sự Hồ đã bố trí cho phù hợp với âm mưu lâu dài.
1. Hồ vẫn để Trường Chinh giữ ghế tổng bí thư vì chưa có cớ và chưa đúng thời cơ để lật Trường Chinh. Hơn nữa, Trường Chinh là tên thân Trung cộng, từ cái bí danh “Trường Chinh” cũng bắt nguồn của cuộc “trường chinh” của Mao. Tất cả các “tác phẩm” của Trường Chinh cũng là bắt chước Mao, như “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” được sao chép từ cuốn “Bàn về đánh lâu dài” hay “Đề cương văn hóa” là từ “Bài nói chuyện ở Diên-an” của Mao v.v… Vả lại, Hồ đang cần Trường Chinh trong tổ chức cuộc chiến ở miền Bắc lúc đó và sẽ dùng Trường Chinh và phe cánh Trường Chinh trong âm mưu về “cải cách ruộng đất” v.v…
2. Đưa Lê Duẩn vào ngôi vị thứ hai là chuẩn bị cho bước xâm lược miền Nam sau này.
Cũng nên nhớ rằng, ngay dưới thời Nguyễn văn Cừ làm tổng bí thư mafia đỏ, Lê Duẩn đã có bài viết ca ngợi “lãnh tụ Nguyễn ái Quốc (tức Hồ)”. Nghĩa là, Duẩn là tên mafia đỏ Việt Nam đầu tiên đã nâng bi Hồ từ lúc Hồ còn hàn vi! Cho nên sau cái gọi là “cách mạng tháng 8/1945”, trong lúc Trường Chinh sai Hoàng quốc Việt vào Nam để ngăn sự lộng hành của bọn Trần văn Giàu và Dương bạch Mai mà quên việc cho đón Lê Duẩn ở Côn-đảo về đất liền. Rồi khi Duẩn đã được về đất liền, thì chỉ được cho làm một chức rất khiêm tốn là “trưởng phòng dân quân Nam-bộ”! Phải nhờ Hồ cử Lê đức Thọ vào Nam để “chỉnh đốn” lại xứ ủy mafia đỏ miền Nam và tiến cử Lê Duẩn vào chức vụ “bí thư xứ ủy”. Rồi ở đại hội 2, Hồ đặt Duẩn ở vị trí chuẩn bị cho việc thay thế Trường Chinh.
3. Phạm văn Đồng được Hồ đặt ở vị trí số 3 trong hệ thống tổ chức mafia đỏ. Hồ rất tin Đồng, nhưng biết Đồng chỉ trung thành chứ không đủ mánh lới thực hiện những âm mưu của Hồ. Vì thế, khi Hồ kiêm ghế thủ tướng thì Đồng làm phó cùng giữ luôn ghế bộ trưởng ngoại giao. Sau khi vào Hà-nội (1954), Hồ cho Đồng cái ghế thủ tướng ngụy quyền Hà-nội. Hồ dùng Đồng làm “quả cân phụ” để giữ thăng bằng trong các cuộc họp chính trị bộ mafia đỏ, cũng như là người biểu lộ quan điểm của Hồ (khi Hồ cần ném đá giấu tay). Vì, Hồ muốn nếu có “xáo trộn” trong “đảng” thì “chính quyền” trong tay Đồng vẫn vận hành để cai trị dân có hiệu quả. Nên nhớ rằng, từ khoảng cuối 1962, trên thực tế là Phạm văn Đồng ăn ngủ tại “phủ chủ tịch” với Hồ cho đến lúc Hồ chết. Căn nhà riêng của Đồng ở đường Khúc Hạo chỉ dùng làm cảnh mà thôi.
4. Võ nguyên Giáp nhờ Hồ mà nhảy vọt vào chính trị bộ chính thức, cũng như từ trung đội trưởng lên như tên lửa thành đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương, bộ trưởng quốc phòng, phó thủ tướng. Nghĩa là Hồ cho Giáp thật rộng tay để hoàn thành mục tiêu quân sự. Nhưng chính Hồ đã từng căn dặn các đệ tử rằng: “Không được chia quyền lãnh đạo vũ trang”, “quân đội là xương sống của cơ quan chuyên chính”, “quân đội là trường học đào tạo cán bộ cho đảng, là chỗ dựa vững chắc của đảng”, thì đời nào hắn không “thủ cẳng” đối với Giáp. Cho nên giống hệt kiểu “Lưu Bang dùng Hàn Tín”, khi đã chiếm được nửa nước phía Bắc Việt Nam, Hồ để Nguyễn chí Thanh (vật đối trọng của Giáp ở ngụy quân) chặt hết chân tay thân cận của Giáp. Rồi sau đó cử Thanh vào chỉ đạo cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam vì: một là Thanh là phần tử thân Trung cộng, rất được Trung cộng tin, nên qua Thanh chỉ huy thì xin súng đạn và các viện trợ của Trung cộng cho việc xâm lược miền Nam dễ hơn; và hai là, Thanh sẽ ganh đua với Giáp, sẽ tận sức hoàn thành việc xâm chiếm miền Nam Việt Nam cho Hồ (nghĩa là thực hiện việc bành trướng của thực dân đỏ), cố gắng “vĩ đại” hơn Giáp.
Ngoài mấy tên nói ở trên được là ủy viên chính thức của chính trị bộ mafia đỏ khóa 2, thì còn lại hai tên thân cận của Trường Chinh, được Hồ cho cái ghế dự khuyết chính trị bộ. Đó là:
1) Lê văn Lương – còn kiêm thường trực ban bí thư – phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương;
2) Hoàng quốc Việt, trưởng ban dân vận trung ương.

Hồ cho hai tên này hai cái chức vụ đó để chuẩn bị cho âm mưu hạ chúng một cách “danh chính ngôn thuận”, vì Lê văn Lương sau sẽ chỉ đạo ngón đòn “chấn chỉnh tổ chức” của Hồ, và Hoàng quốc Việt phụ trách “thường trực ủy ban cải cách ruộng đất”.
Hồ chọn người để dùng là phải đảm bảo: một là hắn có thể tin được và hai là kẻ đó phải là người có thể hoàn thành nhiệm vụ mà Hồ giao phó. Đó là lý do không bao giờ Hồ nghĩ tới việc đặt Võ nguyên Giáp vào ghế tổng bí thư mafia đỏ như một số dư luận đã và đang tung ra.
Giờ ta thử tìm hiểu xem có phải Lê Duẩn và Lê đức Thọ đã cho Hồ “ra rìa trong quãng đời còn lại” như Lữ Phương đã viết không? Hay Hồ vẫn nghự trị cho đến tận lúc này là thằng con hoang – Nông đức Mạnh – của Hồ đang kế nghiệp Việt gian của Hồ.
Âm mưu của Hồ trong cải cách ruộng đất có thể nói là thành công mỹ mãn, ngay cả Trường Chinh và đồng bọn vẫn chưa biết đến thân phận của chúng sắp bị đem ra trả cho cái giá đã không chịu quy phục Hồ ngay từ ngày đầu gặp nhau ở biên giới Việt-Hoa. Đúng lúc đó, đại hội lần thứ 20 của đảng cộng sản Nga-xô họp. Tất nhiên, các đảng chư hầu đều phải có mặt. Đoàn mafia đỏ Việt Nam do Hồ – chủ tịch đảng – và Trường Chinh – tổng bí thư – đi phó hội. Ai ngờ ngày 25/2/1956 Krút-xốp đọc bản tố cáo “tệ sùng bái cá nhân Stalin” và nêu lên một số tội ác của Stalin. Hồ choáng váng mặt mày, vì Stalin là thần tượng của Hồ, là cái mẫu sống mà Hồ đang cố sao chép. Còn Trường Chinh, thì lại hồ hởi ra mặt, chẳng biết có phải vì tìm thấy chỗ dựa để tấn công Hồ qua cái gọi là “chống tệ sùng bái cá nhân” không, nhưng thái độ và nội dung mà Trường Chinh đã trả lời phỏng vấn của báo, đài ở Mát-xcơ-va chắc chắn làm Hồ lo ngại.
Về đến Hà-nội, mafia đỏ họp hội nghị trung ương từ 19 đến 24-4-1956 để nghe Trường Chinh phổ biến về nghị quyết 20 của Nga-xô. Khi còn ở Nga thì cả Hồ và Trường Chinh đều đã ký kết ủng hộ quan điểm của nghị quyết 20 của Nga-xô. Hồ phải ký là đương nhiên vì bao giờ Hồ cũng tuân lệnh mẫu quốc Nga-xô của hắn. Còn Trường Chinh, một tên giáo điều đặc sệt cho đến cả cái bí danh lẫn các “tác phẩm” của hắn, mà lại “hồ hởi” ký mà không hề có tý thắc mắc nào thì lại khác. Cho nên trong hội nghị phổ biến nghị quyết 20, bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy, Trần hữu Dực đã tranh cãi không tán thành, vì thế hội nghị thành “hội đồng chuột” của Lafontaine, nghĩa là không đi đến quyết định nào. Tỉnh táo điểm những bộ mặt chống nghị quyết 20 của Nga-xô thì sẽ thấy toàn là những kẻ được Hồ cất nhắc. Cho nên ta thử đặt câu hỏi: thực hiện nghị quyết 20 “tức chống sùng bái cá nhân” ở Việt Nam thì có lợi cho ai và có hại cho ai thì sẽ hiểu.
Dù có mù thì cũng thấy, nếu mafia đỏ Việt Nam thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô thì kẻ bị ăn đòn đưa đến bị hạ bệ là Hồ! Còn không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô thì Trường Chinh mất cơ hội ngàn vàng để hạ bệ Hồ mà bước lên ngai chủ tịch đảng. Về bọn Lê Duẩn, Nguyễn chí Thanh, Lê đức Thọ, Trần quốc Hoàn, Xuân Thủy thì thi hành hay không thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô cũng chưa đụng gì đến cái ghế của chúng.
Vì thế ta có thể kết luận rằng chính Hồ là kẻ giật dây lũ Lê Duẩn trong vụ nghị quyết 20 này của Nga-xô. Bởi nếu không, với cương vị “chủ tịch đảng” và với nguyên tắc “dân chủ tập trung”, một mình Hồ cũng đủ quyền quyết định phải thi hành nghị quyết 20 của Nga-xô, chưa kể đến Trường Chinh là “tổng bí thư” vẫn đang là một sức nặng đáng kể. Cho nên Hồ là kẻ chủ mưu bày ra trò tranh cãi này để vừa né được quả tạ “chống sùng bái cá nhân”, vừa được tiếng là tôn trọng ý kiến trung ương (mà chỉ một lần duy nhất trước đó Hồ thực thi là “tiếp tục hút thoải mái thuốc lá thơm Craven A”, khi còn trong chiến tranh với thực dân Pháp, đang có nhiều khó khăn, nghèo nàn).

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

Việt Thường

Bài 9.

Ngày 28/4 đến 3/5/1956, với cương vị “tổng bí thư”, Trường Chinh triệu tập hội nghị cán bộ trung và cao cấp của mafia đỏ để phổ biến nghị quyết 20 của Nga-xô. Chẳng biết trước đó Trường Chinh có cho chân tay đi vận động ngầm không, nhưng trong hội nghị đã có ý kiến về việc Hồ tự đề cao mình cũng như có nạn “sùng bái cá nhân” trong “đảng”. Có thể Trường Chinh rất khoái, nhưng không may cho Trường Chinh là đồng thời nhiều ý kiến phê bình về cải cách ruộng đất, về nạn cửa quyền của mậu dịch, về tệ nạn của khai báo hộ khẩu, về thái độ không đúng đối với văn nghệ sỹ v.v… nghĩa là những vấn đề dính đến trách nhiệm của Trường Chinh, nên Trường Chinh đấu dịu, hắn nói: “Có tệ sùng bái cá nhân nhưng chưa đến nỗi quá đáng v.v…” và hứa sẽ xem xét lại. Sự do dự mất tự tin khiến Trường Chinh bỏ lỡ cơ hội dựa vào sự bất mãn của cán bộ trung cao để lật Hồ (sợ bị nhào theo). Thế là Hồ thủ lợi.
Vừa thoát hiểm, để cho chắc ăn hơn, Hồ cho triệu tập hội nghị lần 10 (khóa 2) vào tháng 9-1956, qui trách nhiệm về sai lầm cải cách ruộng đất cho Trường Chinh, Hoàng quốc Việt và lột chức tổng bí thư của Trường Chinh, đuổi Hoàng quốc Việt ra khỏi chính trị bộ, còn là ủy viên trung ương thôi. Lê văn Lương cũng bị ra khỏi chính trị bộ, còn là dự khuyết trung ương. Còn Hồ, hắn vẫn là chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư. Thấy Hồ gian hùng chưa?
Kể từ đó, ngoài Hồ ra, không ai có tư cách triệu tập hội nghị trung ương.
Gạt được Trường Chinh và chân tay của hắn rồi, Hồ còn nghi ngờ một nhân vật nữa là Võ nguyên Giáp. Tuy rằng Giáp chưa có bất kỳ một biểu hiện nào là chống đối Hồ, nhưng vì bấy giờ Giáp lại là người có nhiều ưu thế:
- Được coi là người có công đầu “đánh thắng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ”, đã “giải phóng được một nửa đất nước”;
- Giữ ghế ủy viên chính thức của chính trị bộ mafia đỏ, bộ trưởng quốc phòng, đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương;
- Uy tín của Giáp lên như diều trong cả lực lượng vũ trang, trong cả nhân dân – nông thôn thành thị – trong cả học sinh, sinh viên, trí thức và văn nghệ sỹ;
- Uy tín cả trong nước và ngoài nước;
- Thêm nữa, Giáp không mắc các tội “sùng bái cá nhân”; không dính đến “cải cách ruộng đất”…
Nếu “anh cả đỏ Nga-xô” hay “anh hai Trung cộng” mà đi đêm được với Giáp thì Giáp có thể là người duy nhất lật đổ Hồ một cách dễ dàng.
Vì thế Hồ đã đi một quả thử lòng Võ nguyên Giáp. Kiểu thử này Hồ cũng đã từng làm qua với cựu vương Bảo Đại. Chẳng là trước ngày ký kết Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), khi ấy cựu vương Bảo Đại là cố vấn tối cao của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, cư ngụ tại 51 Trần Hưng Đạo (Hà-nội). Một bữa đến thăm cựu vương Bảo Đại, Hồ năn nỉ Bảo Đại giữ chức chủ tịch chính phủ vì hắn không đủ uy tín nên Pháp gây nhiều khó khăn. Vì cũng chẳng hiểu tâm lý của Hồ nên đáng ra từ chối thì cựu vương Bảo Đại lại nói với Hồ rằng để bàn lại xem. Khi bàn với các người thân cận gồm các cụ Trần trọng Kim, luật sư Nguyễn mạnh Hà, cụ Hoàng xuân Hãn v.v… có mặt cả tên “chỉ điểm” của Hồ là Phạm khắc Hòe (nguyên thư ký của cựu vương Bảo Đại). Nhiều người khuyên dù Hồ giả vờ hay thực thì cũng vì việc lớn của đất nước cựu vương nên nhận lời. Chắc chắn chỉ có Phạm khắc Hòe báo cáo, nên ngay hôm sau Hồ gặp cựu vương Bảo Đại, rút lại ý kiến hôm trước. Hắn nói đại ý, dù khó khăn mấy hắn cũng cố đảm nhận trách nhiệm đã được Quốc hội I giao phó. Đó là nguyên nhân Hồ đề nghị cựu vương Bảo Đại cầm đầu một phái đoàn đi Trùng-khánh gặp Tưởng giới Thạch. Rồi hắn cắt tiếp tế khiến cựu vương Bảo Đại phải ở lại Tàu một thời gian và đành phải bỏ luôn cả chức cố vấn tối cao. Hồ thử bằng cách đề nghị Giáp thay mặt “trung ương và Hồ” xin lỗi về “sai lầm trong cải cách ruộng đất” trước dân, với lý do là Giáp có uy tín lớn đối với nhân dân.
Võ nguyên Giáp là thằng rất ngu khi nhận lời đề nghị đó của Hồ. Vì sao? Bởi cả cuộc đời Hồ là hành xử bất nhân vô hậu như đã chứng minh ở trên. Từ việc bán cụ Phan Bội Châu, bôi nhọ cụ Phan Chu Trinh, ám hại Lê hồng Phong, phá cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học, lạnh nhạt với chị ruột, ngủ với Nông thị Xuân có con rồi lại cho giết đi để giữ cái danh “thánh sống” v.v… Hồ còn là kẻ hiếu thắng, ngoại trừ mẫu quốc đỏ ra, hắn tự cho là “thiên hạ anh hùng đệ nhất” dưới trời Việt Nam, và cái gương tày đình là hắn vừa hạ bệ bè lũ Trường Chinh. Cho nên, khi Giáp vui vẻ nhận nhiệm vụ xin lỗi dân thì tính cách con người của Hồ, chắc chắn hắn cho rằng Giáp đã bắt đầu tự phụ là có thể thay được Hồ. Nếu khôn ngoan một chút thì Giáp phải nói đại ý là: “Trong trung ương không một ai có uy tín, công lao bằng Hồ và được dân tin phục như Hồ, nên đề nghị Hồ đích thân thì mới xong việc. Giáp luôn luôn tuân phục lệnh Hồ, nhưng sợ không đủ uy tín nên sợ hỏng việc phó thác của Hồ.”
Và, Giáp đã phải trả một giá rất đắt cho sự ngu muội đó (tuy gần gũi Hồ mà như bao kẻ khác, vẫn mù lòa chẳng nhìn ra được con người thực của Hồ – trách nào những kẻ ở xa, chỉ nghe nói về Hồ, chẳng u mê, sai lệch!). Kể từ đó ngôi sao chiếu mệnh của Giáp bị lu mờ, bị ăn đòn hội chợ của từ Nguyễn chí Thanh đến Lê đức Thọ, cho đến cả Trần Quỳnh, Nguyễn cơ Thạch và cả me-xừ “trí thức không bằng cục cứt” là thạc sỹ sử học tốt nghiệp tại Pháp là Phạm huy Thông!!! Và cả những cấp dưới của Giáp như Văn tiến Dũng, Chu huy Mân cho đến anh “đại tá nhẩy sào” cai ác ôn đồn điền cao-su của Tây là thằng cha Lê đức Anh!!! Thật tội nghiệp “đại tướng 4 sao đặt vòng chống thụ thai” của ngụy quân cộng sản!
Nói chung, cái kết thúc của tên Việt gian nào rồi cũng vậy, nhất là loại Việt gian ngu lâu!!!
Vì tính cách đa nghi của kẻ làm gián điệp chuyên nghiệp, lại chuyên nghề lừa đảo nên Hồ luôn luôn “suy bụng ta ra bụng người”, vì thế Hồ vẫn lưu nhiệm phe lũ Trường Chinh ở cái thế mà hắn vẫn khống chế được, nhằm làm đối trọng với phe nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Vì hắn cũng phải đề phóng sự phản trắc của nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Thêm nữa, Hồ còn dùng hai nhóm đối đầu nhau đó trong thủ pháp đi dây giữa Nga-xô và Trung cộng mà hắn không cần phải lộ mặt.
Vài tháng sau khi hạ bệ phe nhóm Trường Chinh, Hồ tuyên bố là quá bận nhiều việc, không thể kiêm nhiệm một lúc nhiều chức vụ được nên Hồ “giới thiệu” (chỉ định một cách tế nhị) Lê Duẩn tạm giữ chức “bí thư thứ nhất” để giúp Hồ điều hành công việc “đảng”. Mục đích của Hồ là tạo điều kiện cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ củng cố chỗ đứng trước khi đi vào cuộc “bầu chính thức”. Và, để chắp thêm vây cánh cho Duẩn, cũng như “tỏ thái độ” với Giáp, Hồ cho bổ sung Phạm Hùng (đại tá phụ trách công an miền Nam Việt Nam) vào chính trị bộ và ngồi trên Võ nguyên Giáp.
Tháng 12-1957, Hồ cho triệu tập hội nghị 13 (khóa 2) ra nghị quyết về “nắm vững chuyên chính” và “đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên CNXH”. Như thế, có nghĩa là dùng bạo lực để tước đoạt tài sản toàn dân miền Bắc Việt Nam vào tay đảng mafia đỏ của Hồ. Người dân miền Bắc Việt Nam bị bần cùng hóa nên về thực tế trở thành nô lệ.
Cũng từ cái lệnh “nắm vững chuyên chính” này, Hồ giao cho Trường Chinh và Tố Hữu chỉ đạo việc đàn áp cuộc đấu tranh của văn nghệ sỹ đòi có tự do trong sáng tác. Để che cái lốt độc tài khát máu, bè lũ mafia đỏ Hồ chí Minh dựng ra cái gọi là “vụ án gián điệp Thụy An” để một mặt đàn áp lực lượng văn nghệ sỹ, trí thức từ vùng cộng sản chiếm giữ trước, một mặt tiêu diệt mầm mống tự do dân chủ của lực lượng văn nghệ sỹ ở lại Hà-nội, không di cư vào Nam. Trong số đó có nữ sỹ Thụy An (vợ của ông Đỗ đình Đạo, chỉ huy đệ tam quân thứ lưu động), ông Nguyễn thiếu Bảo – chủ nhà xuất bản Minh Đức, cũng bị kết án 15 năm tù, thực tế quá hạn tù vẫn không được ra tù. Tất nhiên là không chứng cớ mà cũng chẳng cần qua thủ tục tố tụng. Vì, tên Việt gian Hồ chí Minh đã cho vứt cả bộ tư pháp lẫn khoa luật ở trường đại học vào hố xí. Kể từ đó, nhân dân miền Bắc Việt Nam bị cai trị bằng lệnh miệng (một loại khẩu dụ thời phong kiến) là chính. Thí dụ: tên Hoàng văn Hoan ra lệnh miệng thôi mà nhà văn Vũ Trọng Phụng (chết từ 1940) và các tác phẩm của ông bị cho vào sọt rác! Hay như Hồ chỉ tấm ảnh của Hà huy Tập (nguyên tổng bí thư mafia đỏ) nói: “Chú Tập hay phê bình “bác” lắm đấy!” Thế là ảnh của Hà- huy Tập bị lột khỏi cái gọi là “viện bảo tàng cách mạng”!!!
Cho nên sau này có ai nghiên cứu về Hồ và đồng bọn của hắn thì làm sao tìm ra được văn bản về các tội ác của chúng được. Càng để lâu, nhân chứng già chết hết, thế là hết chuyện!!!
Tháng 1-1959, Hồ triệu tập hội nghị trung ương mafia lần 15 (khóa 2), đẻ ra nghị quyết 15 (không phổ biến ra ngoài trung ương) là nghị quyết dùng vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, mở đường Trường-sơn lập thành quân đoàn thường trực với cái tên “cộng trường 59” và đưa lính ngụy cộng sản và vũ khí vào phá hoại mọi mặt đời sống của nhân dân miền Nam Việt Nam, ở thời điểm đó đã đạt được nhiều thành tích cả về trị an, xây dựng kinh tế và ổn định xã hội. Lực lượng nằm vùng bắt đầu hoạt động, vừa chống phá, vừa móc nối những phần tử gọi là “trí thức không bằng cục cứt”; tụi cơ hội “đứng núi này trông núi nọ”; tụi “quáng gà chính trị” trông “gà hóa quốc”, “thả mồi bắt bóng”; tụi “thò lò sáu mặt” chính khách sa-lông; “tụi “sư sãi hổ mang”, “linh mục chuồn chuồn” v.v… để cho ra đời gánh hát chính trị, sau này được đặt tên là “chính phủ cách mạng lâm thời” mà số phận của nó ra sao thì ai cũng đã biết (nhưng nhiều kẻ cũng chưa đúc rút được bài học kinh nghiệm rất đắt giá cho cả dân tộc Việt Nam lẫn bản thân họ).
Cũng thời gian đó, Hồ cho gọi Đỗ Mười ở Hải-phòng về chỉ huy cái gọi là “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Tổ tiên ta đã dạy: “Trông mặt mà bắt hình dong”, cho nên dù không đọc lý lịch thực của Đỗ Mười thì cũng biết đó là tên “bán trời không văn tự”. Tên thật của hắn là Cống, quê ở Yên-sở, huyện Thanh-trì (chỗ bến Phà-đen, Hà-nội đi xuôi một chút), xưa thuộc tỉnh Hà-đông, nay thuộc Hà-nội. Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn, đi các chợ như Bạch-mai, Thường-tín, Phú-xuyên v.v… hoạn lợn, rồi làm lý trưởng. Can tội “lấy tiền thuế đánh bạc” bị cháy túi nên bị thực dân Pháp cho đi tù Sơn-la. Với bản chất và quá khứ đó, Đỗ Mười đúng là mẫu “sinh ra để làm mafia đỏ” và hắn được Tô Hiệu, Nguyễn lương Bằng cho tuyên thệ vào “băng đảng”. Nhiệm vụ lúc đầu thử thách của Đỗ Mười là “đổ cứt của tù”, đáng lẽ mỗi tù nhân luân phiên làm một ngày, nhưng Mười “thích cứt” nên xin nhận làm cả 30 ngày của tháng.
Hồ biết đến Đỗ Mười vì khi tiếp quản Hải-phòng, Mười là bí thư mafia đỏ và Hoàng hữu Nhân là chủ tịch thành phố Hải-phòng. Mười đã có “sáng kiến” dựng ra vụ án “dụ dỗ di cư vào Nam” để ngăn chặn việc di cư vào Nam; cũng như dựng ra vụ án “gián điệp Phan Năm” ở mỏ than Hòn-gai để “trấn áp giai cấp công nhân” không được đi Nam.
Nếu “cải cách ruộng đất” của Hồ làm “long trời lở đất” ở nông thôn Bắc Việt Nam, với tỷ lệ bị bắt giết, tù đày là 5% của dân số nông thôn Bắc Việt Nam, khi đó là 14 triệu (ấy là chưa kể nhiều người sợ quá đã tự tử một mình hoặc đầu độc cả gia đình cùng chết trước khi đội cải cách đến), thì “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của Hồ cũng “đảo lộn trời đất, cương thường, đạo đức” ở thành thị miền Bắc Việt nam. Thật đúng là lũ cướp ngày kiểu mafia! Nên nhớ rằng đích thân Hồ kêu gọi con cái đấu tố cha mẹ. Cụ thể là Hồ đã khen con gái một của ông bà chủ hiệu thuốc Hồng Khê (Hà-nội) dám đấu tố cha mẹ. Con ranh con này lập tức được kết nạp thành đoàn viên chính thức của cái gọi là “đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh” (là lực lượng dự bị và là cánh tay mặt của mafia đỏ – như Hồ tuyên bố). Không những thế, nó còn được vào học ở trường đại học y khoa Hà-nội. (Con này sau lấy chồng, đẻ con, lương bác sỹ của mafia đỏ là thứ mạt rệp nên thiếu thốn, chẳng thấy “bác Hồ” của nó đâu, đành quay lại trong vòng tay bao dung và săn sóc của cha mẹ).
Xin lưu ý rằng, kiểu “cải tạo” ở thành thị như thế này, sau khi đã thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, càng chứng minh lập luận của tôi là mọi phong trào của Hồ và tay chân cho đến nay đều là âm mưu tội ác, ngay cả cái gọi là sửa sai hay mở cửa, đổi mới v.v…
Nhiều hình ảnh theo kiểu “bà địa chủ kháng chiến yêu nước” Nguyễn thị Năm lại được Hồ cho tái lập. Thí dụ ông chủ hãng nước mắm Vạn Vân, người làm kinh tài cho Hồ trong những năm chống Pháp, bị tịch thu toàn bộ tài sản. Đến căn nhà riêng ở phố Cao Bá Quát (Hà-nội) cũng bị chiếm dụng một phần, phần còn lại cho cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn (em vợ ông Vạn Vân) và các con của ông Vạn Vân ở, kể cả nhà phụ. Căn phòng của cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn cũng bị trưng dụng, ban ngày làm lớp học nhạc do phòng văn hóa quần chúng thuộc Sở văn hóa Hà-nội quản lý. Con trai út của ông Vạn Vân, một kỹ thuật viên xây dựng trung cấp cũng bị tù ở Quảng-ninh gần chục năm vì “thành phần tư sản” dính dáng đến việc một căn nhà bị đổ (nhưng không chết người), còn những kẻ “thành phần cơ bản” được vô can. Cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn phải xin đổi cho Tổng cục Bưu điện của ngụy quyền Hà-nội hai chiếc xe hơi hiệu Buick và Frégate (của hãng Renault) để lấy chiếc guitare 2 cần và 3 chiếc xe đạp nữ, hiệu Mercier (vì những thứ này mậu dịch ngụy chỉ bán cho cơ quan ngụy quyền cộng sản). Ông Bùi hưng Gia ở Hàng Trống (Hà-nội), người đã ủng hộ 100kg vàng trong “tuần lễ vàng” để Hồ “đút lót” cho Lư Hán và Tiêu Văn (Tàu Tưởng) rút quân Tàu khỏi miền Bắc Việt Nam, cũng bị cướp nhà và cửa tiệm. Ông Trịnh văn Bô, chủ căn nhà phố Hàng Ngang, đã cho Hồ tá túc để viết “tuyên ngôn độc lập” cũng chung số phận. Ông chủ hãng sơn Tô Châu, cùng ông Vạn Vân làm kinh tài cho Hồ, còn đau hơn nữa vì vừa mất hết tài sản lại vừa mất con. Chẳng là ông ta tin rằng mình là “tư sản dân tộc yêu nước” nên đã khuyên con trai là trung úy Trường (quân lực của Quốc trưởng Bảo Đại) – bạn của tướng Nguyễn bảo Trị (quân lực miền Nam Việt Nam) ở lại Hà-nội. Thế là trung úy Trường bị đi cải tạo (tức tù khổ sai) vì tội danh “ngụy quân”, tận cuối 1973, sau khi hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, mới được về. Nhà tan, cửa nát, trung úy Trường lấy một cô gái lao động, mua một con bò và vợ chồng ngày ngày đi chở gỗ mướn cho các hợp tác xã, sống trong căn nhà lá ở bờ sông Hồng (chỗ viện bảo tàng Louis Finot nhìn ra). Còn, cũng trung úy, nhưng đi Nam thì lên tới cấp tướng, tư lệnh quân khu, như tướng Nguyễn bảo Trị.
Hai số phận cùng một điểm xuất phát có sự khác nhau là do khác nhau về quan điểm: chấp nhận hay phủ nhận chế độ mafia đỏ. Xưa cũng vậy, nay cũng vậy: ở lại Việt Nam là phản động, vượt biên thì thành Việt kiều yêu nước!
Cái “chân lý” giản dị ấy mà đến nay nhiều người vẫn không thể nhớ được!(?) Có người vượt biên chết hết vợ con mà lại thuộc loại mau quên nữa kia!
Đòn độc của thằng “chuyên nghề đổ cứt” Đỗ Mười, thì sau tháng 4/1975, nhân dân miền Nam Việt Nam đã được biết qua các vụ đổi tiền cũng như các chiến dịch X1, X2. Lê Duẩn vẫn dùng lại Đỗ Mười như xưa Hồ đã dùng vậy (chắc theo lời dặn của Hồ).
Thành thị miền Bắc Việt Nam tan hoang có phần còn hơn ở nông thôn qua ngón võ “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của Hồ. Người chết chắc cũng khoảng trên dưới chỉ tiêu 5% mà Hồ đưa ra cho việc giết nông dân ở Bắc Việt Nam. Nhiều người chẳng bao giờ buôn bán cũng bị “đấu tố tù đày”, chỉ vì trong những năm 1945-46 đã biểu tình trong hàng ngũ VNQDĐ hay Đại Việt v.v… hoặc trong nhà có ảnh, có sách báo về Nguyễn Thái Học, về Phan Chu Trinh, về sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên (nhóm Trost-kit). Đến mức ai ở Hà-nội xưa đều biết đến “người bán thịt bò khô” ở trước quán Mụ Béo, phải tự tử vì bị truy thuế, tính từ năm 1945!!!(?) Một gia đình ở Cao bá Quát (Hà-nội), cách nhà cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn một nhà, phải tự tử cả gia đình. Đại loại, ít nhất cũng cả triệu gia đình là nạn nhân của Hồ. Cũng tịch thu tài sản, nhà cửa, cũng đưa nhau ra khu phố đấu tố, làm nhục, cũng tử hình (chỉ khác là không bắn tại chỗ) và đuổi đi kinh tế mới. (Sau ngày 30/4/1975, nhiều sỹ quan trong quân lực miền Nam Việt Nam bị đưa lưu đầy ra thượng du miền Bắc Việt Nam vẫn còn gặp những gia đình “bị Hồ đuổi đi phát vãng” như vậy hệt kiểu Stalin với dân Ku-lắc).
Có chút khác với “cải cách ruộng đất” là không có sửa sai. Tại sao? Vì bọn Trường Chinh đã bị hạ bệ rồi và đã có nghị quyết cho phép chuyên chính. Nhưng cái chính yếu là Hồ đã hoàn toàn đảo chánh xong Chính phủ Liên hiệp đa đảng!!! (Cả Quốc hội, cả Chính phủ, cả Hiến pháp 1946 bị xóa sổ.)
Thời kỳ làm “cải cách ruộng đất” Hồ còn che mặt Việt gian. Đến “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” thì ngụy quyền Hồ chí Minh lộ rõ bộ mặt công cụ của mẫu quốc đỏ. Như một đoàn quân thực dân xâm lược đặt chân lên đất thuộc địa, chúng cướp bóc, vơ vét cả người cả của. Hầu hết nhà cửa khang trang, vi-la tốt đẹp, đường phố yên tĩnh đều bị chúng chiếm đoạt, kể cả đồ đạc (y hệt như sau 4/1975 chúng vào miền Nam Việt Nam). Sau những tên to đầu từ Hồ trở xuống thì đến ngụy quân cộng sản. Nhiều người phải “hy sinh” làm vợ ngụy quân để con cái khỏi bị đi phát vãng lên thượng du dưới mỹ tự “kinh tế mới”. Cụ thể, chủ tiệm đặc sản thịt dê P.H. phải gả con gái cho một tên trung tá ngụy quân, bị thương “không còn cái ấy”. Một trung tá ngụy khác cũng cưỡng ép một bà chủ tiệm tơ lụa xưa ở ngã tư Hàng Đào – Lãn Ông. Sau đó hắn còn cưỡng hiếp hai con gái của bà này. Chuyện đưa ra “pháp luật” cũng “huề cả làng”. Ngay một gia đình lính ngụy cộng sản ở Hàng Đào, chung nhà với cố nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng, từng phục vụ ở đệ tam quân khu (do đại tá Nguyễn văn Vận chỉ huy), vì muốn chiếm thêm căn phòng của nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng đã gây chuyện đánh tàn nhẫn cô con gái nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng. Sự việc khiếu nại bị ỉm đi vì như đại diện Viện kiểm sát khu Hoàn Kiếm khi đó, trả lời với phóng viên báo Thủ-đô rằng: “Dù con gái thằng này (tức nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng) đang là nhạc công của đoàn văn công Quảng-ninh, nhưng nó là “ngụy”, có chuyện gì với “bộ đội ta” thì cũng phải xử theo “tính đảng” – nghĩa là bỏ qua”! Ngay Nguyễn văn Trân, ủy viên ban bí thư mafia đỏ của Hồ và được Hồ chí Minh chỉ định làm “bí thư thứ nhất thành ủy Hà-nội” cũng cặp bồ với cả hai mẹ con nhà tư sản lâu đời ở phố Hàng Bồ (Hà-nội) là P.G.T., nên được giữ nhà cửa mà còn được Trân cấp cho giấy “độc quyền nhuộm”. Thậm chí một gánh hàng đầu đường, bán bánh mì và “cà-phê bít tất” như của vợ chồng “Lâm lác”, ở vĩa hè phố Hàng Vôi, nhờ gả em gái cho tên thuế vụ mafia đỏ mà chuyển sang căn hộ rộng rãi ở Phan Thanh Giản. “Lâm lác” tiếp tục bán bánh mì pa-tê v.v… và cà-phê, nhưng rất nổi tiếng vì là “mạnh thường quân” của nhiều văn nghệ sỹ miền Bắc Việt Nam. Sự trân trọng các tác phẩm và cá nhân các văn nghệ sỹ còn hơn rất nhiều và đáng phục rất nhiều so với cái “Hội nhà văn” của Nguyễn đình Thi và cái ban tuyên huấn của “vè sỹ” Tố Hữu!
Cuộc “cải tạo xã hội” của tập đoàn Hồ chí Minh ở miền Bắc Việt Nam đã cho bọn chúng nhiều thuận lợi để chuẩn bị và tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, vì:
1- Hồ đã là chủ nhân tuyệt đối cả con người và tài nguyên thiên nhiên miền Bắc; đã biến tổ chức mafia đỏ của hắn thành một giáo đoàn của một thứ “tà giáo cực đoan khát máu” (y hệt tụi Taliban hiện nay vậy);
2- Hồ đã là “siêu lãnh tụ” của tập đoàn mafia đỏ, y hệt Stalin ở Nga-xô trước đó: lời nói của Hồ là kinh điển, là luật, là “chân lý”. Bất kể lãnh vực nào trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội miền Bắc Việt Nam khi ấy đều sưu tập ý kiến của Hồ làm kim chỉ Nam, từ nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công, hợp tác xã, thương nghiệp, văn hóa giáo dục, quân sự, tôn giáo, giao thông vận tải, thủy lợi, sinh đẻ, gia đình, thiếu nhi, ăn mặc, ma chay cưới hỏi, ngoại giao cho đến cả cứu hỏa, biểu diễn văn nghệ v.v… thậm chí cả “làm hố xí hai ngăn”. Chính vì noi gương đó của Hồ mà Trần hữu Dực, một phó thủ tướng của ngụy quyền Hồ chí Minh luôn luôn tìm dịp phổ biến “sáng kiến” rửa mặt không được vắt khăn mặt, làm thế mau rách; và dùng đồng hồ không cần đeo dây, không cần thiết; hay đi xe đạp không cần “chắn xích, chắn bùn”, lãng phí nhôm để làm việc khác.
Bọn Hồ có những “lệnh miệng” cực tai quái như không được dùng các “sách kinh điển của chủ nghĩa Mác”, của “lãnh tụ” và báo Nhân dân (dù đã cũ) để gói hàng v.v… Nhiều người bị đi cải tạo chỉ vì bị tố giác là dùng báo Nhân dân gói hàng hoặc “chùi đít”!
Chuyện như vậy thì thế hệ con em Việt Nam sau này và quốc tế làm sao tìm ra bằng chứng giấy trắng mực đen, và khi những nhân chứng già chết hết, chỉ còn lại bài viết như của Lữ Phương chẳng hạn, hẳn thế hệ sau chúng ta sẽ bị ảnh hưởng để đi đến kết luận “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục”.
Ngay thời phong kiến cũng còn dễ dàng cho nghiên cứu, chứ cái chế độ của ngụy quyền Hồ chí Minh thì không thể căn cứ vào văn bản, sách vở được, kể cả của ngụy quyền sản xuất lẫn những “cây viết chống đối” kiểu Lữ Phương và nhiều nhân vật tên tuổi khác, như xưa kia là những bác sỹ Nguyễn khắc Viện, Trần bạch Đằng, Trần văn Giàu và Trần quốc Vượng!
3- Bằng cái gọi là “đấu tranh giai cấp”, phân chia xã hội thành 13 đẳng cấp; bằng việc “vô sản hóa toàn dân”, Hồ đã làm cho toàn xã hội Việt Nam như một đàn chó đói, chúng giết nhau để sống, chúng giết nhau vì một cục xương thừa Hồ quăng ra; chúng chen lấn phía cửa chuồng chờ Hồ rút then cửa để nhào ra săn đuổi tất cả mọi thứ chúng gặp trên đường, để nếu sống trở về thì hy vọng được Hồ cho khúc xương, cho “liếm bãi nước bọt”, từ đó có thể được ra cái chuồng khác thoải mái hơn tý chút. Còn như, nếu có chết thì cũng là một kiểu được giải thoát khỏi cảnh đói khát, tranh giành trong cũi chật hẹp.
Cả xã hội miền Bắc Việt Nam trong tay Hồ “nhào nặn” trở thành một nhà thương điên vĩ đại. Đi xem phim ảnh, người ta đua nhau ném guốc, ném đá lên màn ảnh khi có nhân vật phản diện xuất hiện. Ở sân khấu cũng thế, nhiều diễn viên thủ vai phản diện bị đánh, bị dọa giết. Người ta hoan hô, vỗ tay khi thấy “lãnh tụ” hay “cờ búa liềm”. Kẻ nọ theo rõi người kia, ai chậm chạp hay thiếu nhiệt tình thế là bị lôi ra đấm đá, bị chụp mũ là “phản động lọt lưới” v.v… Điều này có thể Lữ Phương không được chứng kiến hoặc nghe nói nhưng nếu thấy chưa bị “thuyết phục”, thì hãy hỏi lại những người như Trần Độ, Hoàng minh Chính, Lê hồng Hà, Trần quốc Vượng v.v… xem có đúng không.
Trong thanh niên, sinh viên, học sinh, trí thức, binh lính v.v… lại còn có cái trò “viết nhật ký” nhưng lại cố tình để cho mọi người có thể đọc được (nhất là cho các cấp ủy mafia đỏ ở cơ sở) những “tâm sự”, những ước vọng “được chết cho bác Hồ”, “được làm bất kể việc gì làm bác vui”. Từ cấp mẫu giáo cho đến lớn; từ nhà trường cho đến nhà máy, nông trường, công trường, các công sở v.v… đều có cái gọi là “bích báo” (báo tường), đua nhau làm thơ ca ngợi “bác Hồ”, gửi quyết tâm thư lên “bác Hồ” xin được chết cho “sự nghiệp của bác Hồ vĩ đại”!
Đối với thế hệ trẻ, luôn luôn được nhồi sọ: “Cha mẹ sinh ra ta, nhưng “bác và đảng” cho ta cuộc sống, cho ta nên người”, đủ thứ bà rằn loại như vậy.
Với cái khí thế của các hồn ma trong tay như thế, tên phù thủy Hồ chí Minh công khai cả trong và ngoài nước hành động “bành trướng chiến lược của mafia đỏ” núp dưới chiêu bài ủng hộ và có nghĩa vụ giúp nhân dân miền Nam Việt Nam giải phóng khỏi sự cùm kẹp của “Mỹ-Ngụy”!!!(?)
Như thế có nghĩa là, bằng “chuyên chính” và “tiến lên CNXH”, Hồ đã thâu gọn toàn bộ tài sản của xã hội Bắc Việt Nam khi ấy, đã dùng “sợi dây đỏ CNXH” cột chặt cái bao tử của toàn dân miền Bắc Việt Nam, cho sống, cho chết, cho điên, cho khóc, cho cười tùy ý, nghĩa là không chỉ làm chủ cái thân xác mà cả linh hồn, sau khi đã thoái hóa tất cả thành trí nô, nông nô, công nô và binh nô.
Một số phóng viên nước ngoài, xanh cũng có mà đỏ cũng có, thường khen “tinh thần chiến đấu” của quân dân miền Bắc Việt Nam. Họ có biết đâu rằng những con người trông bề ngoài bình thường, giản dị, chân chất ấy đều đã bị tập đoàn mafia đỏ mà kẻ cầm đầu là Hồ chí Minh đã dùng phương pháp Paplov để thuần hóa, kích thích cái thú tính bản năng, không còn là người, không còn “bộ óc bình thường” nữa. Tất cả là lũ điên.
Tào Tháo trong chuyện Tam Quốc của Tàu chỉ làm được cho mỗi mình Bàng Đức thành điên khùng mà quyết tử chiến với Quan Vân Trường. Còn Hồ và cái tổ chức Việt gian công dân búa liềm của hắn đã sản sinh “hàng triệu tên điên quyết tử” cho sự nghiệp Việt gian của Hồ. Óc họ hoàn toàn thành bã đậu, không hề tìm hiểu xem cái “sự nghiệp vĩ đại” của Hồ là gì? Có lợi cho ai, hại cho ai? Sai, đúng thế nào? Cho đến tận 2001 này, nhiều người đã thấy được cái “bánh vẽ XHCN”, nuốt không dzô mà vẫn không dám oẹ ra, không dám mở to mắt, cố dùng ít tế bào óc được phục hồi để nhìn nhận ai là thủ phạm sản xuất bánh vẽ. Hơn nửa thế kỷ thực tế máu và nước mắt vẫn còn thấy là “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục”. Quả là ngu quá lâu!
Năm 1958, Hồ bán nước, dâng Hoàng-sa, Trường-sa cho Trung cộng thì vẫn là “anh hùng giải phóng dân tộc”. Còn năm 2000-2001 này, lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh cũng vừa bán đất, biển cho Trung cộng thì sao lại nhìn ra ngay?!!! Chúng đi theo con đường của “Hồ” đấy!!!
Chuẩn bị xong xuôi hết, tháng 8-1960, Hồ cho tổ chức cái gọi là đại hội mafia đỏ lần thứ ba. Nghị quyết đại hội của chúng chủ yếu là:
- nắm vững chuyên chính;
- xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc;
- và thống nhất miền Nam Việt Nam bằng hòa bình. Ngay nội bộ mafia đỏ với nhau chúng cũng giấu cái nghị quyết vũ trang xâm lược, NQ/15 tháng 1-1959, và để đánh lừa quốc tế.

Nhân sự được Hồ bố trí như sau:
- Chủ tịch đảng: Hồ chí Minh, kiêm ủy viên chính trị bộ
- Bí thư thứ nhất: Lê Duẩn, ủy viên chính trị bộ

Các ủy viên chính trị bộ khác theo thứ tự bậc thang quan lại đỏ:
- Trường Chinh: chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội
- Phạm văn Đồng: thủ tướng ngụy quyền Hà-nội
- Phạm Hùng: phó thủ tướng thứ nhất ngụy quyền Hà-nội
- Võ nguyên Giáp: phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng ngụy quyền
- Nguyễn chí Thanh: phó bí thư quân ủy mafia đỏ
- Lê đức Thọ; trưởng ban tổ chức trung ương mafia đỏ
- Nguyễn duy Trinh: phó thủ tướng
- Lê thanh Nghị: phó thủ tướng
- Hoàng văn Hoan: phó chủ tịch quốc hội ngụy, đại sứ tại Trung cộng

Và hai dự khuyết bộ chính trị là:
- Văn tiến Dũng: tổng tham mưu trưởng ngụy quân cộng sản
- Trấn quốc Hoàn: bộ trưởng công an ngụy quyền Hà-nội.

Hồ nắm quyền tuyệt đối vì hắn cùng lúc giữ các chức: chủ tịch đảng, ủy viên chính trị bộ; chủ tịch hội đồng quốc phòng; chủ tịch nước.
Còn Lê Duẩn được thực thụ là “bí thư thứ nhất” (chứ không phải tổng bí thư; phải đến đại hội lần 4, sau khi xâm lược miền Nam xong, Lê Duẩn mới nhận được cái danh xưng “tổng bí thư”) kiêm bí thư quân ủy (Giáp tụt xuống phó bí thư).
Chưa cho Lê Duẩn cái danh xưng “tổng bí thư” là Hồ chưa muốn cho toàn đảng mafia đỏ của Hồ thấy rằng Lê Duẩn đã ở vị trí lấn át. Hồ cần Duẩn phải cố gắng hơn nữa, chủ yếu là tổ chức vũ trang xâm lược bằng được miền Nam cho Hồ. Chính vì thế, mà Lê Duẩn “đã liều mạng” vào Nam để chuẩn bị cho gánh cải lương chính trị của luật sư Nguyễn hữu Thọ và chút xíu đi chín suối hoặc dzô nhà tù của cụ Ngô Đình Diệm (tháng 12-1960).
Tin dưới đây tôi chưa có điều kiện và cũng không thể kiểm chứng được, nhưng vẫn nêu ra để biết đâu sau này có ai đó tìm ra manh mối chăng. Đó là, sau khi được “chính thức hóa cái ngôi bí thư thứ nhất, qua cái gọi là đại hội 3 của mafia đỏ”, Lê Duẩn dựa vào sự bố trí của tụi còn nằm vùng ở miền Nam (trung ương cục) và sự đưa tin tình báo của nội gián Phạm ngọc Thảo (khi ấy làm tỉnh trưởng của Bến-tre) nên đã về “vùng 4“ để họp. Ai dè quân đội của cụ Ngô Đình Diệm đã bắt được Lê Duẩn cùng một số nhân sự của mafia đỏ nằm vùng ở miền Nam Việt Nam. Nhưng không biết vì sao ngay sau đó tất cả đều được tha. Thế là Hồ đang buồn, Trường Chinh đang “mở cờ trong bụng” cũng thay đổi ngược luôn. (Một người cực thân của Trường Chinh lộ tin này).
Tháng 11-1960, Hồ dắt Lê Duẩn đi dự cuộc họp của 81 đảng mafia đỏ và cùng ký vào nghị quyết ủng hộ đường lối của Nga-xô. Cho dù lần này thần tượng của Hồ là Stalin đã bị đổ, và Nga-xô đang muốn “thi đua hòa bình” là đường lối trái với “đường lối khát máu” của Hồ và Trung cộng, nhưng Hồ lúc nào cũng “tuân theo mẫu quốc”, vì thế nên vẫn ký. Hồ vẫn hy vọng phe Stalin sẽ nắm lại quyền lực ở Nga-xô. Mâu thuẫn giữa “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” đẩy Hồ vào một thế phải ứng xử thật tế nhị. Chính vì bị ngộ độc bởi những “huyền thoại” do Hồ tự tạo ra xung quanh cuộc đời của hắn nên người ta không dám nhìn vào con người thật của Hồ để lý giải đường đi, nước bước của Hồ giữa hai thế lực “Nga-xô” và “Trung cộng”.
 

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website