CHÍNH KHÍ VIỆT

Friday, November 17, 2017

(CHƯƠNG 4, 5, 6) Chuyện Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh


Cái Chết Của Các Tướng Việt Gian Cộng Sản Việt Nam
 
(Bài 4)
 

Việt Thường

Những ngày gần đây, dư luận cả ở trong và ngoài Việt Nam cùng ồn ào về những cái chết bí ẩn của một số tướng lãnh của cộng sản Việt Nam. Đó là các đại tướng Lê trọng Tấn, Hoàng văn Thái; trung tướng Đinh đức Thiện và thiếu tướng Phan Bình.

Trong những luồng dư luận khác nhau đó, có luồng mập mờ, chẳng biết có cố ý không, tạo ra hào quang giả xung quanh mấy viên tướng xấu số đó; làm như họ là yêu nước hoặc cấp tiến; làm như họ là những cánh tay đắc lực của nhân vật Võ nguyên Giáp - kẻ mà đã có tác giả viết sách cố bôi vẽ như là người duy nhất hiện nay có thể lái con tàu Việt Nam vượt qua được “tam giác quỷ” vậy !

Bộ máy tuyên truyền kiểu “rỉ tai” của công ty Đỗ Mười-Lê đức Anh-Võ văn Kiệt cũng nhanh nhạy, vội vận hành cả ở trong và ngoài Việt Nam để hướng sự chú ý của dư luận vào mấy cái chết tào lao ấy mà quên mất hướng đấu tranh chính của dư luận hiện nay là đòi hỏi tập đoàn cộng sản tiếm quyền ở Việt Nam phải trả tự do cho các ông Nguyễn đan Quế, Nguyễn Mộng Giao, Nguyễn Hộ và tất cả các tù chính trị khác; phải trả lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân, nghĩa là hủy bỏ chế độ độc đảng trị của cộng sản, phải có chính sách rõ ràng nhằm bảo vệ tài nguyên và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam v.v... Nhất là dư luận cả ở trong và ngoài Việt Nam càng cần vạch rõ bộ mặt gian manh, lòe bịp của tập đoàn cộng sản tiếm quyền ở Việt Nam trong lúc ra nghị quyết “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường mặt trận dân tộc thống nhất” thì đã bắt giam ông Nguyễn Hộ, một cựu đảng viên cộng sản lão thành vì đã “dám” có ý kiến về việc chung của đất nước !!!

Vậy sự thực về cái chết của mấy viên tướng ấy là thế nào ?

VẪN LÀ TUỒNG CHÈO CỘNG SẢN

Chế độ cộng sản thì ở nước nào cũng vậy, việc thanh toán nhau theo kiểu ma-phi-a là chuyện thông thường. Từ Nga, Tàu, Cu-ba cho đến Bắc-hàn đều là như vậy. Việt Nam cũng không qua qui luật đó. Tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh ngay từ lúc chưa tiếm được quyền thống trị cho đến lúc làm được cuộc đảo chính “nhẹ nhàng” để xóa bỏ chính phủ Liên hiệp chống Pháp ở Việt Nam, thực hiện độc tài đảng trị của cộng sản, bao giờ cũng coi chân lý “chính quyền được đẻ từ họng súng” là bất di bất dịch và “đảng cộng sản phải độc quyền lãnh đạo và quản lý lực lượng vũ trang”. Đấy chính là bi kịch của các viên tướng cộng sản ở Việt Nam.

Người đầu tiên bị làm vật hy sinh là Phùng chí Kiên. Bởi vì Phùng chí Kiên nguyên là thiếu tướng của hồng quân Nga-xô, được bổ xung vào ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Đông dương và đặc trách lực lượng quân sự. Kẻ nào tố cáo để lính của thực dân Pháp phục kích bắn chết Phùng chí Kiên vào giữa năm 1944 ở Việt Bắc có thể cũng là kẻ chỉ điểm cho Pháp bắn chết trung tướng Nguyễn Bình ở miền Nam Việt Nam sau này.

Vì Phùng chí Kiên chết nên lực lượng vũ trang của tập đoàn Hồ chí Minh mới được trao cho Võ nguyên Giáp và Chu văn Tấn phụ trách. Để sau này trung đội trưởng Võ nguyên Giáp và chính trị viên trung đội Chu văn Tấn được Hồ chí Minh phong cho kẻ là đại tướng tổng tư lệnh, kẻ là thượng tướng. Nghiễm nhiên qua hai nhân vật này mà Hồ chí Minh đã củng cố được quyền lực cá nhân một cách trọn vẹn. Cho nên dù Trung cộng có cho Nguyễn Sơn là một đại tướng của hồng quân Trung hoa trở về thì Hồ chí Minh vẫn chỉ gắn cho lon trung tướng, đứng sau cả Chu văn Tấn lẫn Võ nguyên Giáp và cử vào khu 4 (cũ) cho cách xa với biên giới Việt Nam.

Bước vào chiến dịch Điện biên phủ 1954, để tranh thủ sự ủng hộ hết mình của Trung cộng và cũng để ngăn ngừa dần uy tính và quyền lực của Võ nguyên Giáp, Hồ chí Minh đã lôi Nguyễn chí Thanh từ khu Năm ra, cho đeo lon đại tướng, giữ chức chủ nhiệm tổng cục chính trị kiêm phó bí thư quân ủy trung ương, phụ trách cả về tổ chức trong quân đội. Để một đại tướng đi học trường Tây thuộc địa (Albert Sarraut), có cử nhân luật đứng chung mâm cỗ với một đại tướng xuất thân cố nông và thiếu học lại còn ghét nhau như chó với mèo, cho nên Hồ chí Minh không còn sợ quân đội làm phản.

Sau chiến thắng Điện-biên phủ 1954, uy tín của đại tướng Võ nguyên Giáp lên như cồn ở cả trong nước và ngoài nước. Bởi vì lúc đó ít ai biết rằng Điện-biên phủ của Võ nguyên Giáp có mặt các cố vấn Trung cộng là tướng La quy Ba về tổ chức và đại tướng Trần Canh cùng nguyên soái Vi quốc Thanh chỉ đạo về chiến dịch và tác chiến. Vì thế, thông qua bàn tay của của đại tướng cố nông Nguyễn chí Thanh, Hồ chí Minh đã tỉa bớt vây cánh của Võ nguyên Giáp. Đó là việc các đại tá Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng bộ quốc phòng; đại tá Đỗ đức Kiên, cục trưởng tác chiến; đại tá Lê trọng Nghĩa, cục trưởng quân báo... bị bắt. Trước đó là việc đề cử Văn tiến Dũng vào ghế tổng tham mưu trưởng thay chỗ của Hoàng văn Thái, một trung tướng được coi là thân cận nhất của Võ nguyên Giáp, và ghế chủ nhiệm tổng cục hậu cần thì vào tay thiếu tướng Nguyễn thanh Bình, cháu rể của Lê đức Thọ (sau này Nguyễn thanh Bình, dưới thời Nguyễn văn Linh, leo lên ghế ủy viên bộ chính trị, phụ trách thường trực ban bí thư).

Cần nhớ rằng, từ lúc đảo chính lật đổ chính phủ Liên hiệp Hồ chí Minh đã quân phiệt hóa chính phủ của ông ta. Cụ thể là : đại tướng Võ nguyên Giáp là phó thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng; đại tá Phạm Hùng, phó thủ tướng phụ trách tài mậu; đại tá Hà kế Tấn, bộ trưởng bộ thủy lợi; thiếu tướng Phan trọng Tuệ, bộ trưởng bộ giao thông và bưu điện; thiếu tướng Ngô minh Loan, bộ trưởng bộ công nghiệp nhẹ; thiếu tướng Lê Liêm, thứ trưởng thứ nhất kiêm bí thư đảng đoàn bộ văn hóa (bộ trưởng Hoàng minh Giám chỉ là bù nhìn); thiếu tướng Đỗ Mười, phó thủ tướng; các trung tướng Phạm Kiệt và thiếu tướng Viễn Chi, đại tá Nguyễn công Tài giữ ghế thứ trưởng bộ công an; thiếu tướng Dương quốc Chính, bộ trưởng bộ nội vụ (còn có tên là thiếu tướng Lê hiến Mai, phó chủ nhiệm tổng cục chính trị); trung tướng Hoàng văn Thái và đại tá Nguyễn văn Quạn giữ các ghế chủ nhiệm và phó chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao trung ương; thiếu tướng Trần đại Nghĩa, phó chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước; thượng tướng Chu văn Tấn, phó chủ tịch quốc hội; trung tướng Trần tử Bình, đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Trung cộng; thiếu tướng Thiết Hùng, đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Bắc Hàn; thiếu tướng Trần Sâm, bộ trưởng bộ vật tư v.v... Và, ngay cái gọi là hội đoàn quan trọng cũng do quân đội nắm giữ như đại tá Nguyễn đình Thi, tổng thư ký hội liên hiệp văn học nghệ thuật; đại tá Đỗ Nhuận, tổng thư ký hội âm nhạc; trung tá Hà minh Tuân, giám đốc Nhà xuất bản văn học. Ngay cả Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ chí Minh cũng là thiếu tướng. Sự thật là thế đấy, nhưng cả trong nước lẫn ngoài nước ít ai quan tâm đến tính chất quân phiệt của chính quyền Hồ chí Minh từ đó cho đến tận bây giờ.

Lính và công an là công cụ chuyên chính của tập đoàn cộng sản tiếm quyền, là chỗ dựa để họ có thể tồn tại. Cho nên cả Nga-xô và Trung-cộng đều muốn vươn tay nắm lấy lực lượng vũ trang của chư hầu. Đó là việc thiếu tướng hồng quân Nga-xô Phùng chí Kiên được cho về Việt Nam cũng như tướng Trung cộng Nguyễn Sơn vậy. Ở trong nước thì từ Hồ chí Minh cho đến Lê Duẩn, rồi Nguyễn văn Linh và nay là Đỗ Mười, tất cả đều cố nắm lấy binh lính và công an, càng độc quyền bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Đấy chính là nguyên nhân khiến cho dưới chế độ cộng sản một số nhân vật trong lực lượng vũ trang được nhảy vượt cấp nhanh như tên lửa, kiểu như Võ nguyên Giáp, Nguyễn chí Thanh, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu v.v... và số khác thì bị chết không kèn không trống như Đặng kim Giang, Chu văn Tấn, Nguyễn văn Vịnh v.v... hoặc chết một cách mờ ám như Phùng chí Kiên, Nguyễn Bình, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn v.v...

SỰ ĐỘC TÀI CỦA HAI CHÀNG HỌ LÊ

Có một số người ly khai đảng cộng sản Việt Nam đã viết sách phê phán những sai lầm của tập đoàn cầm quyền chóp bu của đảng cộng sản nhưng vẫn tránh né kẻ phạm tội lớn nhất là Hồ chí Minh. Thậm chí qua cách mô tả của những vị ấy thì Hồ chí Minh cũng bất lực trước sự “tả khuynh” của tay chân như Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê đức Thọ v.v... Thậm chí trong cuộc họp của trung ương đảng Hồ chí Minh còn bị thiểu số tán thành như về biểu quyết Nghị quyết 9 (khóa 3) chẳng hạn. Có thể các vị đó đã mô tả đúng sự thật của hiện tượng và qua hiện tượng đó mà đồng nhất với bản chất của sự việc. Mà cũng có thể vì còn nằm trong sự quản lý của cộng sản nên “tạm thời” nhắm mắt làm ngơ một số sự việc cụ thể để núp dưới cái thây ma của Hồ chí Minh mà “đấu tranh” với đệ tử của ông ta. Nhưng thật là khó hiểu khi có vị úp mở đề nghị “không nhắc đến những người đã quá cố vì họ không có khả năng tự bảo vệ nếu họ bị lên án”(!) Kiểu lý luận này có lẽ nên đốt hết các sách nói về từ Tần thủy Hoàng đến Hitler, Staline và ở Việt Nam thì đừng “nhắc đến” Lê chiêu Thống, Nguyễn Ánh và Hồ chí Minh v.v... Vậy mà vị đó hay khoe kiến thức, “nhắc đến” đủ cả Marx, cả v.v..!!!

Chỉ cần một sự thông minh bình thường, một sự can đảm vừa đủ và chịu khó quan sát thì sẽ thấy Hồ chí Minh chính là một thứ Staline ở Việt Nam. Cái trò khóc trong “sai lầm” của cải cách ruộng đất rồi tự “giáng chức” của mình chẳng khác nào kiểu Tào Tháo tự cắt râu để trừng phạt việc để ngựa dẫm vào lúa của dân. Cả cái bộ xậu chóp bu của cộng đảng khi đứng trước Hồ chí Minh đều ngoan như cừu non trước sói dữ. Có hai người duy nhất là Hồ chí Minh không gọi bằng chú và xưng là bác, đó là ông già Tôn đức Thắng, lớn hơn Hồ chí Minh hai tuổi và người thứ hai là Lý Ban, ủy viên dự khuyết trung ương của đảng cộng sản Việt Nam nhưng lại là ủy viên trung ương chính thức của Trung cộng. Vì thực chất Lý Ban là phái viên của Mao bên cạnh Hồ. Cho nên Hồ chí Minh gọi Lý Ban là tiên sinh. Còn tất cả đều bị gọi là “chú” và tự xưng là “bác” hoặc “bác Hồ”. Với nhân dân thì dù từ đứa trẻ sơ sinh cho tới cụ già bằng tuổi anh cả của mình, Hồ chí Minh đều xưng là bác và ngang ngược đến mức các bài viết công khai đều ký tên là “Bác Hồ” (nếu ai đó cố quên thì hãy xem lại báo Nhân dân lúc Hồ còn sống thử xem, hay là điều này cũng không nên “nhắc đến”?). Khái niệm “Bác” của Hồ chí Minh chính là đồng nghĩa với “Trẫm” hoặc “Cô” của các vua ngày xưa vậy!

Với những người cách mạng chân chính, muốn có sự công bằng ở nông thôn Việt Nam thì “cải cách ruộng đất” là cần thiết và cách thức đã tiến hành cải cách ruộng đất là sai lầm. Nhưng, với Hồ chí Minh thì “cải cách ruộng đất” là cái bánh vẽ còn cách thức tiến hành cải cách ruộng đất là thủ đoạn để củng cố quyền lực cá nhân; hạn chế uy tín và anh hưởng của một số nhân vật cộng sản như Trường Chinh, Hoàng quốc Việt; vùi dập các đảng phái, các tôn giáo, các nhân sỹ trí thức yêu nước khác nhằm vô hiệu hóa quốc hội khóa 1, trấn áp các thành viên chính phủ Liên hiệp không là cộng sản để làm đảo chính nhẹ nhàng chuyển giao quyền lực của một chính quyền liên hiệp đa đảng vào tay cộng sản độc đảng trị.. Và, Hồ chí Minh đã nắm trong tay quyền lực tuyệt đối : chủ tịch đảng cộng, chủ tịch nước, chủ tịch hội đồng quốc phòng và thủ tướng chính phủ !!! Đó là một sự thật cần phải “nhắc đến”. Cho nên nếu quả thực Hồ chí Minh thực tâm nhận thâý cách thức tiến hành cải cách ruộng đất sai lầm thì chẳng cần chảy nước mắt cá sấu và tự cách chức (mà vẫn cứ là nhân vật số 1 tuyệt đối, vì Hồ không làm chủ tịch đảng cộng, lùi xuống làm tổng bí thư đảng cộng, nhưng có ai khác ngồi vào cái ghế chủ tịch đảng cộng đâu; Hồ vẫn là chủ tịch nước, chủ tịch hội đồng quốc phòng và thủ tướng chính phủ). Mà, cùng với việc sửa sai ở nông thôn cũng như hạ chức một số nhân vật như Trường Chinh (thôi chức tổng bí thư đảng cộng nhưng vẫn là ủy viên bộ chính trị và chủ tịch quốc hội); Hoàng quốc Việt (từ dự khuyết bộ chính trị xuống ủy viên trung ương đảng cộng); Hồ viết Thắng (thôi là ủy viên trung ương đảng cộng); Nguyễn đức Tâm (thôi là ủy viên dự khuyết trung ương) v.v... thì phải chí ít cũng giữ nguyên chức cho các vị đã có công phát hiện ra sai lầm trong tiến hành cải cách ruộng đất như bộ trưởng tư pháp Vũ đình Hòe; luật sư Nguyễn Mạnh Tường, chủ tịch hội luật gia, ủy viên trung ương Mặt trận Liên Việt; thứ trưởng bộ Văn hóa Đỗ đức Dục và v.v... chứ có đâu lại thải hồi luật sư Nguyễn mạnh Tường, cất chức thứ trưởng của ông Đỗ đức Dục, xóa bỏ bộ tư pháp và huyền chức bộ trưởng của ông Vũ đình Hòe, cũng như ra lệnh không cho các đảng Dân chủ và Xã hội được kết nạp đảng viên mới. Đã thế lại còn thành lập một chi bộ cộng sản ngay trong lòng các đảng Dân chủ và Xã hội để lãnh đạo... “đảng bạn”!!! Trong khi đó Hoàng quốc Việt giữ chức chủ tịch Tổng công đoàn kiêm chủ tịch Mặt trận Liên Việt; Hồ viết Thắng sau đó giữ chức bộ trưởng bộ lương thực và thực phẩm (thay Ngô minh Loan) rồi lại sang làm bí thư đảng đoàn của ủy ban Khoa học và Kỹ thuật; còn Nguyễn đức Tâm từ chức tổng cục trưởng tổng cục thống kê chuyển ra lên chức bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh để đến khóa 6 cộng đảng leo lên ủy viên bộ chính trị, ủy viên ban bí thư, phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương (giữ cái ghế của Lê đức Thọ) và nay già khọm mà vẫn được là cố vấn cho ban chấp hành đảng cộng nữa kia. Đây cũng là một sự thật rành rành dù mù mà không điếc thì cũng nghe loa phát thanh ông ổng cả ngày hay điếc mà không mù thì sách báo nào cũng nói đến, viết đến những điều đó. Vậy có nên “nhắc đến” không, hay vì Hồ chết không thể tự bào chữa thì nên quên đi cho có vẻ công bằng và quân... tử ?(!)

Hồ chí Minh là kẻ đem mầm bệnh AIDS cộng sản vào Việt Nam. Cũng chính Hồ chí Minh là kẻ nghĩ ra và tổ chức cuộc đảo chính của cộng đảng lật đổ chính phủ Liên hiệp, vô hiệu hóa quốc hội khóa 1, phản bội lại nguyện vọng của toàn dân Việt Nam, phản bội các đảng phái quốc gia, các tổ chức tôn giáo, các nhân sỹ trí thức yêu nước để tiếm quyền thống trị ở Việt Nam, dựng nên một mô hình chính quyền độc tài toàn chế, hiếu chiến, khát máu mà lịch sử Việt Nam chưa từng có.

Khi Hồ chết, đã để lại cẩm nang cai trị độc tài cho hai anh chàng họ Lê. Đó là Lê Duẩn và Lê đức Thọ. Hai người này đều do Hồ chí Minh “giới thiệu”, Lê Duẩn thì giữ ghế bí thư thứ nhất đảng cộng hộ Hồ vì Hồ “quá bận” nên trở lại làm chủ tịch đảng; còn Lê đức Thọ thì từ cái ghế phó ban tổ chức trung ương (dưới Lê văn Lương, là người thân cận của nhóm Trương Chinh, Hoàng quốc Việt) nhảy lên ghế trưởng ban tổ chức trung ương, làm xếp của Lê văn Lương; chẳng qua bầu bán gì. Đã thế Lê Duẩn lại còn được Hồ chỉ định giữ thêm ghế bí thư quân ủy trung ương với hai phó bí thư là Võ nguyên Giáp và Nguyễn chí Thanh, nghĩa là Võ nnguyên Giáp “tự dưng” từ ghế bí thư quân ủy tụt xuống phó bí thư cho ngang với Nguyễn chí Thanh, tuy rằng vẫn còn là bộ trưởng quốc phòng và đại tướng tổng tư lệnh. Cho nên ai đó không muốn “nhắc đến” sự thật trên mới ngộ nhận cho rằng Hồ ưu ái định đưa Võ nguyên Giáp lên ghế tổng bí thư cộng đảng vì thấy Võ nguyên Giáp có uy tín lớn, đã thay mặt đảng trấn an được lòng dân sau “sai lầm” của cải cách ruộng đất. Sự thực là vì thấy Võ nguyên Giáp có uy tín cao nên Hồ chí Minh mới để Lê Duẩn vào ghế bí thư thứ nhất và cho chiếm luôn ghế bí thư quân ủy của Võ nguyên Giáp. Đưa Võ nguyên Giáp ra thay mặt đảng xin lỗi về “sai lầm” cải cách ruộng đất là Hồ chí Minh muốn kiểm tra lại mức độ uy tín của Võ nguyên Giáp với nhân dân như thế nào để quyết định có lợi nhất cho sự độc tài của bản thân. Lê Duẩn được Hồ chí Minh lựa chọn vì : 1) bản thân Lê Duẩn không có uy tín lớn trong đảng cộng như Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt, nhất là chẳng có tí công lao nào trong cái gọi là cách mạng tháng tám (vì Lê Duẩn lúc đó vẫn còn bị tù ở Côn đảo); 2) ngay từ dưới thời Nguyễn văn Cừ làm tổng bí thư cộng đảng thì trong báo nội bộ, Lê Duẩn là người đầu tiên đã viết bài ca ngợi Hồ chí Minh, trước cả Trường Chinh, Võ nguyên Giáp và nhà thơ “ống đu đủ” Tố Hữu.

Đặt Lê Duẩn vào chức vụ quan trọng nhất của đảng và của quân ủy, Hồ chí Minh biết rằng Lê Duẩn thiếu chân rết làm chỗ dựa, vì thế đã đưa Lê đức Thọ vào ghế trưởng ban tổ chức trung ương để tạo dựng vây cánh cho Lê Duẩn. Bởi vì Lê đức Thọ là người có công “phát hiện” ra Lê Duẩn bị xếp bất hợp lý ở chức trưởng phòng dân quân Nam bộ, đã giới thiệu và ủng hộ Lê Duẩn vào ghế bí thư trung ương cục miền Nam. Về tình cảm thì còn đi xa hơn nữa. Đó là nữ “thư ký riêng” của Lê đức Thọ được giới thiệu sang làm thư ký cho Lê Duẩn và sau đó thành bà vợ hai của Lê Duẩn. Còn cô gái miền Nam xinh đẹp được tổ chức giới thiệu làm thư ký cho Lê Duẩn thì Lê đức Thọ nhận về “đào tạo lại” và lấy làm vợ hai của mình. Cả hai đều “đạo đức cách mạng sáng ngời”, đều nói thì “giải phóng phụ nữ, một vợ một chồng” nhưng bản thân lại theo chế độ đa thê, nghĩa là nói một đằng làm một nẻo hệt như Hồ chí Minh vậy. Đây cũng là một sự thật rành rành, rất nên “nhắc đến”.

Vị viết sách “khuyên” rằng không nên “nhắc đến” người đã chết lại còn tài đến mức đoán được ý nghĩ của Hồ trong thâm cung cân nhắc, nặng về phía Lê Duẩn hơn Võ nguyên Giáp vì tuy rất yêu Võ nguyên Giáp nhưng Lê Duẩn lại có “thâm niên” ở tù ! Nếu quả là có sự lựa chọn mà tiêu chuẩn phải ỡ tù nhiều năm và được Hồ yêu thì tại sao không lựa Phạm văn Đồng ? Ai cũng biết Phạm văn Đồng ở đủ các nhà tù, kể cả Côn đảo, lâu không kém gì Lê Duẩn, lại còn bị lao teo một bên phổi (hơn Lê Duẩn rồi đấy), lại cũng là ủy viên bộ chính trị, lại là phó của Hồ trong cái ghế phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao, lại là người đi theo Hồ suốt nhiều năm tháng khi Hồ bôn ba bên Tàu (hơn cả Lê Duẩn và Võ nguyên Giáp) và được Hồ yêu “công khai” đến mức ai đã ở Bắc Việt Nam từ 1954-1969 đều biết.

Dám nhìn thẳng vào cuộc đời hoạt động của Hồ chí Minh sẽ thấy rằng Hồ bao giờ cũng nghĩ và làm thế nào để đưa lợi ích cho bản thân trước hết, hoàn toàn gạt chuyện tình cảm ra ngoài. Một thí dụ rõ nhất là việc Hồ chỉ điểm cho thực dân Pháp bắt cụ Phan bội Châu. Hồ đã tạo ra nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ chính là để quân bình với lực lượng Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt trong đảng và với Võ nguyên Giáp trong quân đội. Hai phe tự kiềm chế nhau khiến Hồ xử dụng cả hai phe lúc hơi “tả”, lúc hơi “hữu” để giữ yên cái ghế độc tài của Hồ, né mọi toan tính của cả Kremlin lẫn Bắc-kinh làm ảnh hưởng đến quyền lực của Hồ.

Từ khi được Hồ chí Minh cất nhắc, hai anh chàng họ Lê ra sức củng cố lực lượng, cả trong Nam, cả ngoài Bắc. Quân đội, công an và cơ quan tuyên huấn được quan tâm đến nhiều và trước nhất. Mua chuộc một số chân tay của Trường Chinh như Tố Hữu, Hoàng Tùng. Hoán chỗ một số khác như chuyển thiếu tướng Ngô minh Loan, đang là thứ trưởng bộ công an, sang bộ công nghiệp nhẹ; đưa tướng Trần Độ (nguyên là bảo vệ của Trường Chinh) vào Nam; đưa trung tướng Trần tử Bình sang làm đại sứ tại Tàu cộng, thiếu tướng Thiết Hùng sang làm đại sứ Bắc Cao-ly. Các tướng Vương thừa Vũ, Trần quý Hai cho ngồi chơi xơi nước; trung tướng Đặng kim Giang cho vào tù; quản thúc trung tướng Nguyễn văn Vịnh trong tòa biệt thự ở đường Cao bá Quát (Hà-nội) v.v... Các đệ tử ruột của Võ nguyên Giáp cũng bị cho đi Nam như trung tướng Hoàng văn Thái, các thiếu tướng Lê trọng Tấn, Vũ Lăng v.v... Lôi kéo được nhóm như thượng tướng tổng tham mưu trưởng Văn tiến Dũng; trung tướng Song Hào (chủ nhiệm tổng cục chính trị sau Nguyễn chí Thanh); thiếu tướng Lê hiến Mai, phó chủ nhiệm tổng cục chính trị; Phùng thế Tài, tổng tham mưu phó kiêm tư lệnh phòng không không quân và v.v... Dùng Trần hữu Dực, ủy viên trung ương đảng làm phó thủ tướng kiêm trưởng ban nội chính để kèm Trần quốc Hoàn là bộ trưởng công an, ủy viên dự khuyết bộ chính trị. Đỗ Mười được nâng lên ghế phó thủ tướng, còn cái ghế bộ trưởng nội thương được trao cho cháu rể Lê đức Thọ là Nguyễn thanh Bình (sau sang nắm bộ thủy lợi). Tướng Đinh đức Thiện, em ruột của Lê đức Thọ, được trao ghế chủ nhiệm tổng cục hậu cần. Khu tự trị Việt Bắc tuy trong tay các đàn em của Trường Chinh là thượng tướng Chu văn Tấn và thiếu tướng Bằng Giang, nhưng trái tim của khu tự trị Việt Bắc là khu gang thép Thái Nguyên lại do tướng Đinh đức Thiện làm bí thư đảng ủy ! Tuy chỉ đeo lon đại tá, nhưng Phạm Hùng được đưa vào bộ chính trị và ngồi bên cả đại tướng Võ nguyên Giáp, đồng thời giữ ghế phó thủ tướng phụ trách tài mậu (tài chính và mậu dịch). Quảng Ninh là một tỉnh biên giới với Trung cộng, lại là vùng than đá, mảnh đất tập trung của “giai cấp công nhân” đột nhiên được đón nhận một cán bộ miền Nam tập kết còn nằm trong ẩn số là Nguyễn thọ Chân ra làm bí thư tỉnh ủy, thay cho Hoàng Chính, một đệ tử ruột của Trường Chinh, bị kéo về trung ương ngồi đánh... cờ tướng cả ngày. Sau đó Nguyễn thọ Chân được đưa qua Nga-xô làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền thì tay đao phủ của cải cách ruộng đất, đã bỏ Trường Chinh thờ hai chàng họ Lê, là Nguyễn đức Tâm, được cho giữ chức bí thư tỉnh ủy !

Cái mầm độc tài Hồ chí Minh bén rễ, nảy cành; cái mầm bệnh Aids cộng sản do Hồ chí Minh lây truyền, đã làm mất khả năng đề kháng trên mọi bình diện, những gì là truyền thống Việt Nam, được bắt đầu và phát triển như sơ lược tóm tắt ở trên. Đấy là những sự thật rành rành mà ai cũng có thể đọc được trong các sách báo của cộng sản ở Việt Nam “sản xuất”, chắc chắn là đã có tô hồng và bóp méo rồi đấy. Nếu nghe theo “nhà cách mạng cơ hội” mà không “nhắc đến” thì chẳng cứ lứa tuổi thanh niên của người Việt Nam ở hải ngoại mà ngay cả ở trong nước cũng sẽ chẳng biết đến những sự thật đã là nguyên nhân khiến Việt Nam nghèo khổ như ngày nay và v.v... Không “nhắc đến” những sự thật đó, có lợi cho ai, có hại cho ai ? Mọi người có thể thấy rõ diện mạo của cái vị tự phong đủ mọi thứ cho mình.

Tổ tiên chúng ta đã dạy phải “ôn cố tri tân”. Nếu bỏ quên những bài học lịch sử mà không “nhắc đến” thì chắc chắn thế hệ thứ ba của người Việt Nam chúng ta hiện nay và cả thế hệ thứ tư nữa, cũng sẽ lại tiếp tục rơi vào tay các loại cạm bẫy của cộng sản, chỉ vì đi theo tấm bảng chỉ đường của các loại cò mồi, cơ hội, hoạt đầu chính trị đang ra sức vo ve như ruồi nhặng, trước bộ xương gầy còm cõi của Việt Nam, đang bị tụi mại bản đỏ Đỗ Mười - Lê đức Anh - Võ văn Kiệt câu kết với các ngoại bang xanh, đỏ để bòn tỉa và hút máu.

CÓ CHẾT NHƯNG KHÔNG BÍ ẨN

Đảng cộng sản Việt nam vẽ ra cho mình mấy ngày thành lập. Lúc thì ngày 6-1, lúc thì 3-2.

Hồ chí Minh vẽ ra mấy di chúc để tiện dùng cho các đệ tử, tùy thời, tùy lúc.

Bộ chính trị cộng sản vẽ cho Hồ mấy ngày chết. Lúc thì ngày 3-9, bây giờ lại là 2-9. Và v.v..., hàng vạn thứ vẽ !!!

Cộng sản là thế đấy. Cái gì cũng mập mờ và bí ẩn. Nhưng thực ra thì tất cả đều tào lao, cũng như cái chết của các tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, Đinh đức Thiện và Phan Bình vậy.

Đại tướng Hoàng văn Thái là sui gia với đại tướng Võ nguyên Giáp. Quen biết nhau từ khi Võ nguyên Giáp được Hồ chí Minh giới thiệu vào học ở trường quân sự Hoàng Phố (bên tàu) và cho đến ngày Võ nguyên Giáp được trao quyền tư lệnh quân đội thì chính đại tướng Võ nguyên Giáp đã lựa chọn và giới thiệu với Hồ chí Minh để cho Hoàng văn Thái giữ chức tổng tham mưu trưởng. Lúc đó vì cần có sự thống nhất và đoàn kết trong bộ tư lệnh và tham mưu nên Hồ chí Minh chấp nhận để hiệu quả đánh đấm của quân lính được cao nhất. Xung quanh tướng Giáp lúc đó, ngoài Hoàng văn Thái, giữ ghế tổng tham mưu trưởng, còn có các cấp tá xuất thân học sinh, sinh viên như Đỗ đức Kiên, Lê minh Nghĩa, Vũ Lăng, Lê trọng Nghĩa v.v... các tướng thao lược như Thiết Hùng, Vương thừa Vũ v.v... và cả cục trưởng cục tác chiến Trần văn Quang rất cần cù, tận tuỵ (người dính đến báo cáo về tù nhân Mỹ ở Việt Nam sau 1975).

Sau chiền thắng quân lính thực dân Pháp 1954 ở Điện-biên phủ, tiếng tăm của Võ nguyên Giáp lừng lẫy cả ở trong và ngoài Việt Nam. Cho nên Hồ chí Minh đã nghĩ đến việc khống chế viên đại tướng tổng tư lệnh, có tầm thước của Napoléon và cũng rất “mê” Napoléon này, bằng cách tỉa chân tay. Vì thế, ngay 1957, chẳng có lỗi lầm gì mà Hoàng văn Thái (lúc đó là trung tướng) bị giáng chức từ tổng tham mưu trưởng xuống tổng tham mưu phó và Văn tiến Dũng đang là đại đoàn trưởng đại đoàn đồng bằng được đặt lên ghế tổng tham mưu trưởng, đeo lon thượng tướng. Vợ Văn tiến Dũng là Đặng thị Kỳ được ngồi ở ban tổ chức trung ương, dưới trướng Lê đức Thọ.

Những việc công khai đều được đăng trong tiểu sử của Hoàng văn Thái, ngày bị chết, ở hầu hết các báo hàng ngày của cộng sản Việt Nam. Còn những điều riêng tư thì chỉ số ít có dịp “quan sát” mới thấy. Đó là Hoàng văn Thái chẳng hề có tinh thần cởi mở hoặc vì dân, vì nước chút nào. Mà tất cả đều vì cái ghế ngồi của bản thân. Từ sự ngậm miệng ăn tiền, luôn luôn ngoan ngoãn theo cái gậy chỉ huy của cấp trên cho đến quan tâm cả đến những gì mà cấp trên thích thú. Thí dụ : thời gian vào Nam chỉ huy quân lính, Hoàng văn Thái được nghe phổ biến về sự “thống nhất đặc biệt” của ba nước Đông dương cả chính trị, quân sự lẫn kinh tế v.v... Nào là trại bò giống ở Ba Vì (Hà-tây) có nhiệm vụ cung cấp tinh trùng viên để cải tạo toàn thể đàn bò của Việt-Miên-Lào; nào là hết bí thư trung ương đảng cộng Hoành Anh rồi lại ủy viên trung ương đảng cộng Võ thúc Đồng thay nhau lãnh đạo ủy ban nông nghiệp trung ương cùng với bộ trưởng đặc trách kỹ thuật nông nghiệp Nghiêm xuân Yêm và Viện trưởng khoa học nông nghiệp Bùi huy Đáp, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch trông ngô ở cao nguyên Bô-lô-ven (cứ làm như đấy là đất của cộng sản Việt Nam) v.v... Cả bộ xậu trong bộ chính trị cộng đảng cho đến các nhân vật nòng cốt từ miền Nam ra họp đều thi nhau đi thăm trại bò giống. Hoàng văn Thái cũng thế, có thể cưỡi trực thăng lên Ba-vì, cả ngày âu yếm ngắm những con bò đực nặng gần một tấn, được ăn ở sung sướng gấp ngàn lần cán bộ công nhân viên của trại. Thế nhưng lại không thể có một phút nào rảnh rỗi để thăm hỏi những thương bệnh binh từ Nam chuyển tải ra, mặc dù xương máu của những người đó đã đánh bóng những ngôi sao cấp tướng của Hoàng văn Thái. Cũng giống Võ nguyên Giáp, lúc nào cũng bộ đồ cấp tướng màu cỏ úa sẫm, nếp là thẳng tắp, giày da đen bóng đến có thể soi gương, bộ mặt phì nộn trông hoàn toàn xa lạ với mặt xanh bủng, gầy ốm của binh lính dưới quyền. Hoàng văn Thái có biệt tài là, khác với tướng lãnh khác, không hề lúc hứng chí “làm thơ” hoặc bàn về “văn học nghệ thuật” (như kiểu đại tá Đặng Tính). Hoàng văn Thái chỉ chuyên tâm về quân sự mà nếu có nói và viết thì cũng là những điều cấp trên đã bàn đến như thế, như thế v.v... Chưa bao giờ Hoàng văn Thái dám thắc mắc về những “bão táùp” xảy ra trên đất nước, như tướng Vương thừa Vũ thắc mắc về cách thức tiến hành cải cách ruộng đất; như tướng Đặng kim Giang về vấn đề dân chủ; như trung tướng Nguyễn văn Vịnh về chính sách ở miền Nam hoặc như tướng Tô Ký về việc hành quyết một số tân binh gọi là “vô kỷ luật” v.v... Lúc nào cũng âm thầm, không chơi trội. Đó là đặc tính của Hoàng văn Thái cũng như một đặc tính nữa là rất “cảnh giác cách mạng” cũng như tuy to béo nặng nề mà lại nhanh hơn chuột lắt. Như trong bữa tiệc chiêu đãi cầu thủ bóng đá của các nước Việt Nam (phía Bắc), Bắc Cao-ly và Tàu cộng ở cửa hàng du lịch ở Hà-nội (nhà hàng Ritz cũ ở góc Hàng Khay - Bà Triệu), Hoàng văn Thái chủ trì buổi chiêu đãi với tư cách chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao trung ương. Tiệc đang rôm rả đột nhiên mất điện. Đèn chỉ bị tắt trong khoảng... hai phút thì sáng trở lại. Ấy thế mà khi đèn sáng lại, tất cả đều ngồi yên tại chỗ, kể cả các đại tá Nguyễn văn Quặn, phó chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao trung ương; đại tá Lê Hiền, tư lệnh đơn vị bảo vệ Hà-nội kiêm giám đốc Sở thể dục thể thao Hà-nội và trung tá Ngô Luân, tổng thư ký ủy ban thể dục thể thao trung ương, còn chỗ Hoàng văn Thái thì... bỏ trống. Mọi người ngạc nhiên trước sự biến mất của Hoàng văn Thái thì, bỗng thấy cái thân hình đẫy đà đó, đang núp từ xó cửa cuối phòng ăn, đi ra. Vẫn đường bệ và mặt không hề... biến sắc. Đúng là tướng có khác !

Ngoan ngoãn, an phận, ngậm miệng ăn tiền, cuối cùng thì Hoàng văn Thái cũng bò lên được tước hiệu đại tướng. Nhưng ngoan mà chẳng khôn nên Hoàng văn Thái vào lúc có thể ngồi vào cái ghế bộ trưởng quốc phòng của cộng sản thì lăn quay ra chết - mà theo thân nhân thì là bị mưu sát. Chẳng công bố thì ai cũng biết có bàn tay của Lê đức Thọ và Văn tiến Dũng. Thực ra Hoàng văn Thái chẳng phải là cái gai lớn hoặc ở tầm vóc để nhóm Lê đức Thọ lo ngại. mà vì “cảnh giác cách mạng”, đã gạt Võ nguyên Giáp khỏi chức bộ trưởng quốc phòng, lẽ nào lại để sui gia của tướng Giáp nắm được chức vụ cốt lõi của quân lính, cái bệ của quyền lực. Tốt nhất là cho đi theo họ Hồ để hầu hạ Marx và Lénine.

Đại tướng Lê trọng Tấn cũng vậy. Xuất thân từ thiếu sinh quân (enfant de troupe) của Pháp và đeo lon đội của lính thực dân Pháp ở Việt Nam, Lê trọng Tấn đã đi theo quân đội của chính phủ Liên hiệp kháng Pháp. Khi Hồ chí Minh làm đảo chính để cướp quyền của chính phủ Liên hiệp thì quân đội cách mạng Việt Nam bị biến thành công cụ chuyên chính của cộng sản, trong đó Lê trọng Tấn cũng như mọi người lính khác, trở thành công cụ của Hồ chí Minh và các kẻ kế nghiệp. Có giòng máu lính trong người, Lê trọng Tấn chỉ biết tuân theo thứ bực quân giai. Lê trọng Tấn là một người lính chuyên nghiệp, một thứ thiên lôi, chỉ đâu đánh đấy. Niềm vui lớn lao là được chém giết và được cấp trên khen ngợi. Tất nhiên cũng là đảng viên cộng đảng, nhưng Lê trọng Tấn là mẫu “chuyên” chứ không “hồng”. Khác với cả Võ nguyên Giáp lẫn Hoàng văn Thái, không béo tốt, trắng trẻo của lính văn phòng, Lê trọng tấn trông khắc khổ, rắn rỏi, đúng là mẫu lính đánh đấm ngoài chiến trường. Đúng là một mẫu người máy... không tim. Một thí dụ : sau khi theo tinh thần hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh được tạm quyền quản lý phía Bắc Việt Nam cho đến vĩ tuyến 17. Trong vùng của Hồ chí Minh kiểm soát, tai họa bi đát giáng xuống đầu người dân Việt Nam. Nào sóng thần ở Đồ Sơn cuốn cả xã ra biển. Nào vỡ đê Mai Lâm. Nào dịch rầy nâu, Nào bão. Nào hạn hán kéo dài. Nào dịch cúm, dịch sốt xuất huyết. nào dịch trâu bò lở mồm, long móng v.v... Cùng với những tai họa đó là những dịch “cách mạng” đủ kiểu của tập đoàn Hồ chí Minh nặn ra. Thôn quê, thành thị tiêu điều. Nhà tù mới mọc lên như nấm. Nhiều người bị tù mà chẳng được biết phạm tội gì với dân, với nước. Trong số đó có anh ruột của Lê trọng Tấn . Khi chị dâu và các cháu đến năn nỉ Lê trọng Tấn - lúc đó là một thiếu tướng cộng sản sáng giá - để can thiệp cho biết anh của Lê trọng Tấn đi tù vì tội gì và phải tù bao lâu thì được Lê trọng Tấn thản nhiên trả lời, đại ý :”Cách mạng đã bắt thì chắc chắn phải có tội. Còn được tù bao lâu là tùy thái độ học tập cải tạo ra sao, có thấy tội lỗi với “Đảng”, với “Bác” không, có ăn năn gột bỏ tội lỗi không, có đầu hàng giai cấp công nhân không và có chịu tiếp thu tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân không ?” Lê trọng Tấn là như thế đó và người anh ruột của Lê trọng Tấn đành nằm ở hết các trại tù Suối Hai cho đến Ấm Thượng để “ăn năn, gột bỏ tội lỗi” mà chẳng biết là tội gì, cho nên bị tù “không tội” ngót 10 năm trời. Với anh ruột còn như vậy nên tất nhiên xương máu lính dưới quyền chỉ là người dưng, nước lã thì còn có nghĩa lý gì. Lê trọng Tấn chỉ thích có chiến tranh để được... đánh nhau, dù là loại chiến tranh gì đi nữa.

Được thực dân Pháp đào tạo từ nhỏ trong kỷ luật lính... thực dân; được cộng sản truyền cho máu sát nhân; được qua Nga-xô học tập thêm về kiến thức chiến tranh hiện đại, Lê trọng Tấn là một mẫu lý tưởng của tướng cộng sản. Sau khi hoàn thành cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam và áp đặt thể chế chính trị cộng sản lên cả nước Việt Nam, theo lệnh của Kremlin, Lê trọng Tấn được cử sang Nga-xô báo cáo về diễn biến và kết quả của cái gọi là “chiến dịch Hồ chí Minh”. Báo cáo của Lê trọng Tấn được các quan chức ở Kremlin đánh giá rất cao cũng như họ nhìn nhận tài năng quân sự của Lê trọng Tấn. Đấy chính là cái mầm chết mờ ám của Lê trọng Tấn sau này, mặc dù Lê trọng Tấn được gắn lon đại tướng và chút xíu nữa thì ngồi ghế bộ trưởng quốc phòng của cộng sản Việt Nam, nếu không... chết ngang xương !!!

Sau khi Lê trọng Tấn chết được vài tháng thì đến lượt trung tướng Đinh đức Thiện, ủy viên trung ương đảng cộng, chủ nhiệm tổng cục hậu cần, phó tổng tham mưu trưởng kiêm bộ trưởng dầu khí cũng lăn quay ra chết.

Đinh đức Thiện tên họ thật là Phan đình Dinh, em ruột của Lê đức Thọ (Phan đình Khải) và là anh ruột của Mai chí Thọ (Phan đình Đống). Dư luận hành lang đồn rằng chính Đinh đức Thiện đã nắm giữ một số tù binh Mỹ để phục vụ trong công tác nghiên cứu về hậu cần cho binh lính cộng sản Việt nam.

Anh em nhà Lê đức Thọ, Đinh đức Thiện và Mai chí Thọ là điển hình của cộng sản Việt Nam về gia đình trị như kiểu anh em nhà Fidel Castro ở Cuba; cha con nhà Kim nhật Thành ở Bắc Cao-ly hay vợ chồng, con cái Lâm Bưu của Tàu cộng.

Lê đức Thọ nắm trong tay các chức vụ : ủy viên bộ chính trị kiêm ủy viên ban bí thư cộng đảng, ủy viên quân ủy trung ương, ủy viên hội đồng quốc phòng, trưởng ban tổ chức trung ương, phụ trách luôn cả về an ninh, tình báo. Là loại hoạt đầu chính trị vừa tàn bạo vừa tham quyền, không thủ đoạn nào mà không dám làm; tính tình điềm đạm. Hai con mắt sắc lạnh lùng và cười với hàm răng xin xít, những cái răng to như răng ngựa. Có lẽ Lê đức Thọ chỉ thực sự “sợ” có hai người là Hồ chí Minh và bà vợ hai xinh đẹp của Lê đức Thọ. Khi bà vợ hai này đẻ nằm ở bệnh viện C (Hà-nội), dù bận trăm công nghìn việc, Lê đức Thọ vẫn đều đặn ngày hai buổi vào bệnh viện thăm vợ, săn sóc trong hai bữa ăn chính.

Mai chí Thọ là em út trong gia đình Lê đức Thọ, được lôi từ cái ghế bí thư khu ủy khu 8 về lãnh đạo ngành công an ở khu vực miền Nam cùng với Lâm văn Thê, sau này ở phía Bắc bổ xung thêm Nguyễn công Tài. Mai chí Thọ trông tốt tướng hơn Lê đức Thọ và cuộc đời tình ái cũng rất hoang đàng, bắt bồ phần lớn trong giới nghệ sỹ cả kim cả cổ, tuy chính thức chỉ một vợ chứ không đa thê như Lê đức Thọ.

Tướng Đinh đức Thiện thì khác cả anh là Lê đức Thọ và em là Mai chí Thọ. Đây là viên tướng chửi tục, nói nhảm nhất trong binh lính của Hồ chí Minh. Nếu Lê đức Thọ và Mai chí Thọ có tác phong quan cách như mẫu Võ nguyên Giáp, ăn nói bay bướm văn vẻ bao nhiêu, thì ngược lại, Đinh đức Thiện thô lỗ, cục cằn; về ăn mặc, đi đứng thì đúng là mẫu của viên đại tướng Nguyễn chí Thanh, nghĩa là giản dị xuề xòa. Đinh đức Thiện bắt chước tướng Nguyễn chí Thanh cả thói quen giải quyết công việc, tính xục xạo xuống từng đơn vị. Như có lần tướng Đinh đức Thiện đi kiểm tra đột ngột một số binh trạm, kho tàng ở vùng Quảng Trị,đến một binh trạm thì viên thương úy phụ trách binh trạm đi sang một đơn vị nữ thanh niên xung phong chơi, ở nhà chỉ có một thượng sỹ trực. Đinh đức Thiện hỏi tình hình và viên thượng sỹ báo cáo rành mạch các số liệu của binh trạm. Vừa lúc đó viên thượng úy đi chơi về. Đinh đức Thiện đã nhân danh tổng tham mưu phó lột lon của viên thượng úy gắn cho viên thượng sỹ - nhảy một lúc bốn cấp -, và lấy lon của viên thượng sỹ gắn cho viên thượng úy - giáng bốn cấp. Câu chuyện này được truyền nhanh như điện vào suốt các binh trạm hậu cần từ Bắc đến Nam, đã khiến các hạ sỹ quan cố gắng nắm vững tình hình binh trạm, hy vọng có ngày gặp Đinh đức Thiện để nhảy cấp. Còn các chỉ huy binh trạm thì ít ai dám rời binh trạm, tất cả đều sợ viên tướng mắt ốc nhồi râu quai nón này.

Vận dụng “tư tưởng Hồ chí Minh” - đương nhiên được Hồ cho phép - tướng Đinh đức Thiện đã có “sáng kiến” cất dấu vũ khí, xăng dầu, quân nhu v.v... vào đền chùa, nhà thờ, bệnh viện, trường học, khu chung cư của nhân dân. Như thế, nếu Mỹ tiến công vào đó thì dân sẽ bị chết theo và phía cộng sản Hà-nội tha hồ tố cáo Mỹ ném bom bắn phá giết hại dân lành, trẻ em; phá hoại bệnh viện, trường học đền chùa, nhà thờ v.v... Thí dụ như vụ ném bom vào bệnh viện Bạch Mai, vào trường mẫu giáo ở Trạm Chôi (Hà-nội) v.v... vì thật ra những chỗ đó đã được Đinh đức Thiện để lẫn vũ khí, quân nhu. Bệnh viện Bạch Mai bị sập một bộ phận, nhiều người bị chết, trong đó có chị ruột của giáo sư khoa sử trường đại học tổng hợp Hà-nội, là Trần quốc Vượng, một bồi bút hoạt đầu của cộng sản, đã bị Dương thu Hương chửi khéo trong “Anh hùng tỉnh lẻ”. Còn ở trường mẫu giáo ở Trạm Chôi thì cả các cháu bé lẫn cô dạy trẻ, lẫn mẹ các cháu đi thăm con sơ tán bị chết gần hai chục mạng, trong đó có em nhỏ vẫn hát trên đài (ở phiá Bắc trước 1975) bài :

“Bé bé bằng bông
Hai má hồng hồng
Bé đi sơ tán
Bế em đi cùng...”

Phóng viên nước ngoài đã đến quay phim, chụp ảnh những nơi đó và cả trong và ngoài nước Việt Nam đều chửi Mỹ, nhưng người ta đã quên chửi tướng Đinh đức Thiện và các cấp lãnh đạo của hắn.

Đinh đức Thiện là viên tướng ít về thăm vợ con. Những người không biết chuyện thì khen tướng Thiện mẫn cán, lo việc quân quên việc nhà. Sự thật không phải vậy. Nguyên nhân là do tính thô bạo, cục cằn nên có lần Đinh đức Thiện đã đánh đứa con trai duy nhất của mình đến mức bị mù một mắt, điếc một bên tai và trở thành điên điên, khùng khùng. Từ đó Đinh đức Thiện rất hãn hữu mới về nhà vì không dám nhìn đứa con tàn phế do chính mình gây ra.

Thô bạo, cục cằn nhưng Đinh đức Thiện cũng rất ma giáo và biết lợi dụng người khác khá tài tình. Thí dụ, sau 30-4-75, chính Đinh đức Thiện đã biết gọi tiến sỹ Nguyễn văn Hảo làm cố vấn kinh tế cho mình. Trong ban cố vấn còn cả Chung đức Mai. Và, tướng Thiện đã bày trò mở lớp nghiên cứu chính trị cho trí thức miền Nam, có khả đủ các khuôn mặt sắc nước của miền Nam cũ, như phó thủ tướng Nguyễn văn Hảo, thẩm phán tối cao pháp viện Trần thúc Linh, chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh, dân biểu Ngô công Đức, Lý quý Chung, Kiều mộng Thu (về sau là nhân tình của Xích Điểu - tức Trần minh Tước, từng là tổng thư ký Hội nhà báo của cộng sản Hà-nội), Chung đức Mai v.v..., làm như trí thức miền Nam sắp có chỗ đứng “khả ái” trong xã hội cộng sản ! Có biết đâu, đó là bài bản đầu tiên mà Đinh đức Thiện biểu diễn để xem những trí thức đó “thức” hay “ngủ”, giữa lúc cộng sản còn chưa hoàn toàn làm chủ được về trị an. Cái lớp học mà một bên học sinh là các trí thức có hạng và “giáo sư” chính là me-xừ Vũ Khiêu, mới học hết cấp hai phổ thông trung học; nguyên là giáo viên tiểu học của trường miền núi Lạng Sơn (trước 1945). Sau 1945 vớ được cái ghế chủ nhiệm Việt Minh của thị xã Lạng Sơn, và đến phong trào Nhân văn - Giai phẩm (sau 1954) nhờ vào làm tà-lọt năng nổ ở cửa Tố Hữu nên được lôi cổ lên cái ghế Viện trưởng Viện mỹ học Marx-Lénine !!! Vậy mà cũng phải thảo luận, viết thu hoạch tự xỉ vả bản thân và xỉ vả lẫn nhau. Một số bản thu hoạch đầy ăn năn hối lỗi (đã chậm chấp nhận thân phận nô lệ cho cộng sản) được trích đăng trên báo Đại đoàn kết (Sài-gòn), như bài của thẩm phán Trần thúc Linh, Kiều mộng Thu, Lý quý Chung. Lớp học kết thúc, Đinh đức Thiện cho ra đời cái Hội trí thức yêu nước mà chủ tịch là vị tiến sỹ quê ở Sa-đéc, viết báo khoe thành phần lý lịch rằng bố đẻ làm nghề quét rác ở chợ thị xã Sa-đéc !!! Ô hô ! Thương hại quá thay cho ông tiến sỹ Lê văn Thới !!!

Đinh đức Thiện nổi tiếng nói tục và ngang bướng (chắc ỷ anh em, họ hàng làm lớn) đến độ có lần cùng đi công tác chung với Tố Hữu, ủy viên bộ chính trị kiêm bí thư trung ương cộng đảng phụ trách trưởng ban tuyên huấn trung ương, tướng Thiện vẫn chửi lính, nói tục, khiến Tố Hữu quê với thuộc hạ. Tố Hữu lựa lời nói với tướng Thiện :”Bao giờ anh mới bớt nói tục hả anh Thiện ?”. Tướng Thiện cười vào mặt Tố Hữu mà rằng :”Bao giờ anh thôi làm thơ thì tôi bớt nói tục.” Tố Hữu bẻ mặt, đánh bài lờ. Và để chứng minh tính cách độc đáo của mình, khi trở về qua Nam Hà, gặp một cuộc họp báo của tỉnh, tướng Thiện cười khà khà :

- Tụi mày chỉ dám đăng thơ của anh Tố Hữu, còn thơ của tao có báo nào dám đăng không ?

Rồi tướng Thiện đọc luôn :
“Thế gian nhất đẹp là l...
Nhất ngon là muối, nhất khôn là tiền.”

Và thấy cái ảnh của lão nghệ sỹ nhiếp ảnh Võ an Ninh chụp các nữ xã viên đang hái chè trên đồi chè Đào Giã (Phú thọ), tướng Thiện đề nghị nên chú thích vào tấm ảnh đó như sau :

“Em đi lên núi hái chè
Gặp thằng bỏ mẹ nó đè em ra
Nó bóp rồi nó lại xoa
Ngoảnh đi ngoảnh lại nó đút cái mả cha nó vào !”

Tất nhiên cả hội nghị cười hề hề, kể cả Lê Điền, bí thư tỉnh ủy Nam-hà, người đang chủ trì cuộc họp báo.

“Nhất khôn là tiền”, quả thật đó là sự mơ ước của tất cả những tụi cộng sản chóp bu từ thời kỳ đó, cho đến sau này là các Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ văn Kiệt v.v... Đương nhiên trong đó có ba anh em nhà Lê đức Thọ, Mai chí Thọ và Đinh đức Thiện.

Thời gian ở Sài-gòn sau 30-4-75, tướng Thiện đã thường xuyên đến tòa biệt thự của ông Đức Âm, ở đường Gia-long để “chiêm ngưỡng” kho tàng đồ cổ ở đó. Và, cuối cùng thì gần như trọn vẹn đồ cổ của nhà Đức Âm, chủ Đại Nam ngân hàng, lọt hết vào tay Đinh đức Thiện !

Mặc thì xuề xòa, nhưng tướng Thiện ăn và chơi lại hết sức xa hoa, đúng kiểu của Hồ chí Minh. Vốn tính thích đi săn, nên tướng ra Thiện ra lệnh cho tổng cục hậu cần cộng quân sản xuất những loại đạn đặc biệt cho khẩu súng săn đặc biệt để đi săn ngỗng trời, vịt trời trên sông Hồng. Tướng Thiện hay đi săn với tướng Phan trọng Tuệ, bộ trưởng giao thông và bưu điện. Nhà riêng trần thiết như cung điện của vua. Ăn thì ngọc dương, yến sào, bào ngư, gan gà thiến; rượu thì uống rượu ngâm nhung, sâm, cắc kè, rắn hổ v.v... hoặc huyết chim sẻ.

Sau cái chết của đại tướng Lê trọng Tấn ít tháng thì tướng Đinh đức Thiện đột ngột lăn ra chết. Tin chính thống thì nói tướng Thiện ngộ nạn khi đi săn. Nghĩa là bị một viên đạn bắn vào đầu. Cách giải thích đó nghe có vẻ hợp lý vì tướng Thiện là người hay đi săn. Nhưng nó không đầy đủ ở chỗ ai bắn tướng Thiện ? Hay tự tướng Thiện bắn vào đầu mình ? Với cây súng săn dài gần hai mét đó sao ?

Ngót nghét bốn chục năm lăn lộn ngoài chiến trường mà không bị thương vì bom đạn, thế mà cuối đời, trung tướng Đinh đức Thiện, bộ trưởng bộ dầu khí kiêm tổng tham mưu phó cộng quân; kiêm chủ nhiệm tổng cục hậu cần công quân; là ủy viên dự khuyết trung ương cộng đảng từ khóa 3 và đến khóa 4 là ủy viên trung ương chính thức trong số 101 ủy viên chính thức của ban chấp hành trung ương cộng đảng, lại chết vì đạn bắn... vịt trời.

Đúng là quả báo nhãn tiền. Bởi cái sự thật mà cộng đảng Việt Nam cố tình che dấu về cái chết của Đinh đức Thiện cuối cùng cũng lộ ra ngoài. Kẻ bắn chết tướng Thiện chính là đứa con trai duy nhất của tướng Thiện. Đứa con bị tướng Thiện đánh mù mắt, hỏng một tai và trở thành khùng khùng đó đột nhiên lên cơn điên, xách khẩu súng săn mà Đinh đức Thiện đang chuẩn bị đi săn vịt trời, bắn vào đầu Đinh đức Thiện, viên tướng thân cận của họ Hồ, cò bề dày tội ác với nhân dân và đất nước Việt Nam. Thiện mà ác nên phải chết thảm khốc như vậy, lẽ trời thật là công bằng.

Trời công bằng đến mức cha con thiếu tướng Phan Bình cũng bị đạn của “đồng chí” mình hạ sát.

Phan Bình là một viên tướng nắm về tình báo quân đội của cộng sản Việt Nam. Nói một cách khác thì Phan Bình dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Lê đức Thọ.

Từ sau 1975, Lê đức Thọ càng quan tâm đến quân đội nhiều hơn. Từ việc đưa tên đao phủ tàn sát giáo dân ở Ba làng an là Đồng sỹ Nguyên vào bộ chính trị giữ ghế phó thủ tướng đến việc cho Lê đức Anh thoát ra ẩn số để nay leo lên đến chức chủ tịch nước, Lê đức Thọ lo củng cố bộ máy tình báo quân đội, dùng làm công cụ giám sát Miên, Lào cũng như mở rộng sự hoạt động ra các nước láng giềng, bởi Lê đức Thọ không hoàn toàn tin tưởng vào cơ quan an ninh của ngành công an là nơi còn nặng dấu ấn Trần quốc Hoàn và phe cánh Trường Chinh. Chẳng thế mà vụ tên Tàu Hồng-kông in bạc giả ở Sài-gòn bỏ trốn mà an ninh của ngành công an bất lực. Sau phải nhờ đến tình báo quân đội của Phan Bình và Bạch Vân mới tóm được cổ tên in bạc giả đang trên đường lẩn trốn ở đất Miên.

Cũng sau 1975, các vụ âm mưu binh biến của đại tá Huỳnh văn Nghệ cho đến các vụ lớn nhỏ khác, hầu hết do tình báo quân đội phát hiện cho Lê đức Thọ. Việc Văn tiến Dũng ngồi ghế bộ trưởng quốc phòng để bà vợ Đặng thị Kỳ công khai khánh thành các dịch vụ buôn lậu trong quân đội đã tạo ra một loạt các nhà tư sản quân sự đỏ, cho đến việc “cái bí mật về 16 tấn vàng” mà Nguyễn văn Hảo, phó thủ tướng chính quyền Nguyễn văn Thiệu, khoe là đã giữ lại được cho ngân khố “quốc gia” (của cộng sản) cũng như việc mua bán máy bay của Tổng cục hàng không khiến cho viên tướng giữ ghế Tổng cục trưởng bị bắt giam không thời hạn, cho đến những cái chết của các đại tướng Hoàng văn Thái và Lê trọng Tấn, kể cả cái chết đột ngột của Phạm Hùng lúc đang giữ chức thủ tướng mà trong dân gian đã thắc mắc rằng :

“Nghe tin đồng chí Phạm Hùng
Chết ngã lăn đùng, chưa rõ nguyên nhân”.

Chắc chắn đều có bàn tay của Lê đức Thọ. Như thế có nghĩa là bàn tay Lê đức Thọ đã ra lệnh cho bộ hạ thi hành. Là một tướng tình báo quân đội, dưới quyền trực tiếp của Lê đức Thọ, tướng Phan Bình có thể thi hành lệnh của Lê đức Thọ mà cũng có thể là người biết về những “bí ẩn” đó. Đấy là nguyên nhân dẫn đến cái chết của cha con tướng Phan Bình.

Những chuyện nêu trên một lần nữa thức tỉnh toàn dân Việt Nam (và thế giới) rằng mô hình cộng sản ở Việt Nam là như thế nào. Thân phận người dân đã đành, đến như thân phận của lính và công an, là công cụ chuyên chính của tập đoàn cộng sản chóp bu tiếm quyền, cũng chỉ là những con tốt đen sẵn sàng bị thí bỏ vì một nước cờ nào đó của tụi tiếm quyền.

Những kẻ đã chết, dù bị “đồng chí mình” làm thịt hay bị con đẻ bắn chết, đều chưa xứng tội ác của họ đối với nhân dân Việt Nam. Họ là những tên đao phủ tự nguyện, đã giết hại biết bao thanh niên ưu tú của cả hai miền của Việt Nam. Trong họ, chưa một ai là viên tướng chân chính, vì cả bọn đều lợi dụng tình nghĩa đồng bào để đánh lừa những người đối lập, đẩy vào ngục tù một cách hèn hạ. Những tướng lãnh của từ Trần Hưng Đạo, Lê Lợi đến Quang trung cũng không tàn bạo với quân xâm lược phương Bắc bại trận mà đều hành xử đúng tinh thần thượng võ và nhân đạo.

Kẻ chết cũng đã chết rồi, nhưng kẻ sống vẫn còn đang gây tội. “Nhắc đến” kẻ đã chết để cùng nhau tỉnh táo đừng để “kẻ sống” lừa phỉnh, chia rẽ mà làm suy yếu lực lượng dân chủ, tự do ở cả trong và ngoài Việt nam.
Việt Thường - 1992
 
 
NB Việt Thường Chuyện Chưa Ai Nhắc Đến
(Bài 5)
 
 
Việt Thường, 3/1993

Ngày 30-4-1975, cộng sản Hà-nội đã thôn tính trọn vẹn miền Nam VN. Đó không chỉ là sự bất ngờ của đại bộ phận nhân dân cả hai miền, mà nó cũng bất ngờ đối với những người cầm quyền ở Hà-nội lúc ấy, thông qua lời tự thú của Văn tiến Dũng trong cuốn "Đại thắng mùa xuân". Cho nên cộng sản Hà-nội hoàn toàn không có kế hoạch tiếp quản miền Nam. Kẻ xâm lược và người bị xâm lược đều bị đảo lộn trong cái bất ngờ của 30-4-1975.
Người bệnh cạnh giường nhà thơ Tú Mỡ
Khu an dưỡng ở Quảng Bá (Hà-nội) chỉ dành cho cán bộ trung cao của cộng sản nằm dưỡng bệnh. Ngày 30-4-1975, nhà thơ trào phúng, trong nhóm Tự-lực Văn-đoàn, Tú Mỡ đang nằm dưỡng bệnh. Vì tuổi già cũng có mà còn vì ông ân hận đã đi nhằm vào cửa Tố Hữu cung đình, được Trường Chinh thay mặt chính quyền cộng sản, trao tặng huân chương, và trong phong trào Nhân-văn - Giai-phẩm, đã xuất hiện một bài thơ làm cho ông đau lòng, nhớ lại những ngày hạnh phúc khi còn nhóm Tự-lực Văn-đoàn. Bài thơ ấy như sau:
"Từ ngày ông Tú được mề đay
Thơ, phú của ông đ còn hay
Quản bút nay thành ống đu đủ
Đánh ác, trừ gian hết chua cay
Cung đình lưng uốn ngồi một xó
Cái xích văn nô đáng buồn thay
Này này nhắn nhủ cùng bà Tú
Mua giấy xi-măng đắp mặt dày!!!"

Ông đang kể lại cho mấy người nằm cạnh nghe về con đường đi vào dòng thơ trào phúng của ông là nhờ Nhất Linh và nhóm Tự-lực Văn-đoàn. Bỗng cái loa truyền thanh vang lên, nhắc lại tin "chiến thắng 30-4" và đọc danh sách những thành viên trong bộ máy quản lý miền Nam của cộng sản. Một ông già, nằm cạnh Tú Mỡ bỗng nhỏm dậy cười ha hả: "Bác sỹ Nguyễn văn Thủ là tôi đây. Tôi tôi được có tên trong danh sách ủy ban tiếp quản miền Nam. Mà mà sao chẳng ai bàn gì với tôi cả nhỉ. Ai ai đưa tôi vào Sài-gòn à à thành phố Hồ chí Minh bây giờ?" Mọi người ồ lên, nhưng chẳng ai ngạc nhiên vì tất cả đã quá quen với lối sống được điều hành bởi Nam tào và Bắc đẩu. Chỉ có nhà thơ Tú Mỡ, cười ruồi:
- Bộ ông Saù Thọ phải bàn xem anh có đồng ý không à?
Chuyện về Tự-lực Văn-đoàn và Tú Mỡ tạm đóng màn. Ai về giường nấy, giăng mùng nằm cho ruồi khỏi quấy, để suy nghĩ về thân phận sẽ được đẩy lên hay quật xuống. Cả phòng im phăng phắc đến độ tiếng ruồi bay đuổi nhau cũng nghe rõ mồn một.
Từ lúc tiếng loa 30-4-1975 loan tin danh dách ủy ban tiếp quản miền Nam VN, cho đến lúc đó xe ô-tô đến đưa bác sỹ Nguyễn văn Thủ đi làm nhiệm vụ cũng mất ba ngày. Nghĩa là ngày 4-5-1975. Bác sỹ Nguyễn văn Thủ lặng lẽ lên xe đi, bẻ mặt vì cán bộ ủy ban thống nhất đến đón ông cứ bô bô: "Tìm mãi mới biết bác sỹ nằm ở cái xó này. Nghe tên mình trên loa sao bác không điện thoại trình diện với ủy ban thống nhất hay ban tổ chức trung ương?"
Chỉ có người thường trực nhà an dưỡng chúc bác sỹ Nguyễn văn Thủ may mắn!
Mèo mù vớ cá rán
Câu nói trên của các cụ để lại thật đúng vào hoàn cảnh của bí thư trung ương cộng đảng Nguyễn văn Trân sau ngày 30-4-1975. Bởi vì cái ông bí thư trung ương đảng này đã từng nổi tiếng là chịu chơi và chịu nói. Ngày còn giữ ghế bí thư trung ương đảng kiêm bí thư thứ nhất thành ủy Hà-nội, ông Trân có một việc làm nổi tiếng và một câu nói nổi tiếng:
- Việc làm: Ông ta bắt nhân tình cả hai mẹ con một nhà tư sản nổi tiếng, cư ngụ lâu đời tại phố Hàng Bồ (Hà-nội);
- Câu nói: Khi giảng mở rộng nghị quyết 67/TU - tức là nghị quyết về giai cấp công nhân - ông ta đã cao hứng nhận xét: "Chưa chắc đảng ta (tức cộng sản) đã dám mở rộng dân chủ như thời nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng!"
Ngày về ngồi ghế bộ trưởng công nghiệp nặng, ông Nguyễn văn Trân có một quyết định thật là "táo bạo" theo kiểu cộng sản. Chẳng là ông đã cưa được cô bé Nguyễn thị M., bạn học với con gái của ông, tài không? Cô bé này cao, đẹp lại thích đánh bóng bàn như ông Nguyễn văn Trân vậy. Ngày ngày mang vợt mousse đến nhà riêng của ông Trân, tòa biệt thự cực đẹp, liền tường với biệt thự bà Nguyễn thị Thập, người khai phóng cho bà Nguyễn thị Bình, đương kim phó chủ tịch hội đồng Nhà nước cộng sản VN ở phố Hàng Chuối, để có cữ dợt tay nghề. Và, để cho người đẹp biết quyền uy ông chủ là gì, ông Nguyễn văn Trân đã chỉ thị cho cục kiến thiết cơ bản thuộc bộ công nghiệp nặng phối hợp với bộ tài chính (về tiền vốn) và bộ xây dựng (về kỹ thuật) để xây một sân đánh bóng rổ và một hội trường đánh bóng bàn khá hiện đại ngay khu đất thuộc trường Bách-nghệ do Pháp thực dân xây dựng ở đường Hai Bà Trưng - Quang Trung. Vật tư và kỹ thuật cũng như các nhân lực đều ưu tiên cho công trình này mặc dù lúc đó các nhà máy đang thiếu vốn và vật tự
Nam được "giải phóng", ông Nguyễn văn Trân được bộ chính trị cộng đảng cử ông phóng vào miền Nam lãnh việc tiếp quản và quản lý các cơ sở kinh tế. Ông làm việc thì ít mà chỉ lo đi bắt gái điếm: trưa một em, tối một em, công khai dùng xe ô-tô Falcon của Mỹ để lại đưa đón các em. Ông khoái các em hư hỏng hơn con nhà lành. Nhảy vào Sài-gòn, ông như "mèo mù" (ông cận rất nặng) "vớ cá rán" (các em do Mỹ đào tạo nên vừa thơm nước bông vừa thạo tay nghề). Chỉ tiếc là, đi "trưa" và đi "đêm" nhiều quá nên ông gặp ma dương - tức là dương mai và ông phải lén gặp riêng bác sỹ Lê kinh Duệ, chủ nhiệm khoa da liễu bệnh viện Bạch Mai (cũng lại gặp mai) ở Hà-nội. Để làm gì thì chỉ có ông Nguyễn văn Trân và bác sỹ Lê kinh Duệ biết với nhau mà thôi!
Tái ông mất ngựa
May rủi, rủi may xem như chuyện "tái ông mất ngựa" đời xưa, và thời nay là các ông Lê quý Quỳnh, bí thư tỉnh ủy Hải-hưng và Vũ Đại, phó chủ tịch, ủy viên thường vụ thành ủy Hà-nội.
Chẳng là khi còn làm bí thư tỉnh ủy Hải-hưng, ông Lê quý Quỳnh có sáng kiến giao nhiệm vụ cho ty thủy lợi của tỉnh tuyển chọn chị em, có khó khăn mặt này mặt nọ, vào các công trường thủy lợi của tỉnh để mua vui cho ông và các đồng chí thân cận, cũng như khi cấp trên về tỉnh kinh lý. Nói huỵch toẹt ra thì đó là "động quốc doanh" cấp tỉnh. Câu chuyện bị lộ vì sự tranh chấp quyền hành giữa ông và Nguyễn Chương, nguyên bí thư tỉnh ủy Hải-dương, khi hợp nhất hai tỉnh Hưng-yên và Hải-dương thành Hải-hưng. Đôi bên đều có quan thầy cỡ bộ chính trị, nên ông Quỳnh được đưa về trung ương chờ thời, còn ông Nguyễn Chương thắng trận nhưng lại thua luôn vì cái ghế bí thư tỉnh về tay ông Ngô huy Đông, bí thư tỉnh ủy Thái-bình sang ngồi.
Ông Vũ Đại khi làm phó chủ tịch Hà-nội kiêm thường vụ thành ủy, trưởng ban nông nghiệp thành ủy, trong lúc về công tác Nam-hà năng ở nhà giao tế, hứng tình gọi một nữ đoàn viên thanh niên, phục vụ nhà giao tế, vào nói chuyện đời. Ông say sưa kể thành tích khi làm bí thư đoàn thanh niên (trước Vũ Quang). Cô nữ đoàn viên say sưa nghe ông kể cứ như Đét-xđi-mô-na nghe Ô-ten-lộ Ông Vũ Đại tưởng bở, chắc tự hào tên mình trùng với tên làng của nhân vật Chí Phèo trong chuyện ngắn của Nam Cao, nên ông diễn màn Chí Phèo say rượu gặp Thị Nở ngủ ở bờ sông. Nào ngờ cô đoàn viên thanh niên la lên, chắc to hơn tiếng la của Thị Nở. Còn ông Vũ Đại chẳng có gan la át giọng Thị Nở như Chí Phèo, cho nên chuyện lộ và ông đành về ngồi cùng phòng với ông Lê quý Quỳnh ở trung ương, đánh cờ ca-rô hoặc cờ tướng, chờ dịp đới công chuộc tội với ông Saù Thọ.
Thời cơ đó chính là ngày 30-4-1975!
Ông Lê quý Quỳnh được bổ sung vào thường vụ thành ủy Sài-gòn, giữ chức chủ nhiệm ủy ban nông nghiệp của thành. Còn ông Vũ Đại, cũng được bổ sung vào thường vụ thành ủy Sài-gòn, giữ chức chủ nhiệm ủy ban kế hoạch của thành. Hai cái ghế thường vụ thành ủy Sài-gòn này còn béo và thơm hơn ghế bí thư tỉnh ủy Hải-hưng và thường vụ thành ủy Hà-nội rất nhiều. Mỗi ông một vi-la đẹp, to lớn và tiện nghi bằng "năm, bằng mười hay nhiều hơn nữa" so với dinh cư của hai ông ở Hải-hưng và Hà-nội. Ô-tô thì méc-xê-đéc, đẹp và êm cũng "gấp năm, gấp mười hay nhiều hơn nữa" so với xe Volga của Nga-xộ Cái thú vị nhất là hai ông tha hồ xả xú-páp. Đàn em trong đảng hoạt động nội thành rồi "hàng thần lơ láo" kiểu cựu dân biểu Ngô công Đức, cha đẻ kế hoạch thành lập khu tứ khoái cho lính Mỹ ở Thủ Thiêm (nhưng chưa kịp thực hiện) đã giúp hai ông có maù 35 này hưởng thụ tốc độ một tháng "tam thập dạ đế vương".
Chuột sa hủ gạo
Trước 30-4-1975, đại tá công an cộng sản biệt phái giữ chức cục trưởng cục phục vụ ngoại giao đoàn là Nguyễn văn Bút. Tuy ngồi cái ghế này cũng được đấm mõm khá nhiều, nhờ vào số nhân viên người Việt ở các sứ quán Ai-cập, Ấn-độ, Indonesia, vương quốc Lào, Đức, tổng đại diện Pháp, lãnh sự Anh v.v, nhưng cũng chỉ đến cái đồng hồ Seiko, vài chỉ vàng, hộp đá lửa, vài chai Johny Walker là cùng, hoặc vài trăm đô la Mỹ, mà phải cất dấu thật kỹ, lúc cần bán cho chân tay của ba Tàu làm kinh tài cho Trung cộng. So với miền Bắc lúc ấy là thuộc loại vớ bẩm.
Trong khi đó, trung úy Phương Nam; phóng viên quân sự biệt phái ở báo Tiền phong (Hà-nội), một vợ, bốn con nhỏ, ở chui rúc trong một phòng nhỏ đường Nguyễn Trãi, gần chợ Hàng Đa, lương tháng 65 đồng (biên tập 3) không thể đủ ăn dù chỉ là ăn cháo, cho nên hàng tháng phải bán maù ở bệnh viện Việt-Đức mỗi lần được 72 đồng, một bát phở tái, một hộp sữa và vào thị xã Hà-đông bán maù cho bệnh viện 354 (của quân đội) được 70 đồng chẵn. Điển hình mức sống của cán bộ sơ cấp của cộng sản. Là người Vĩnh-long, không vây cánh nên trung úy Phương Nam bị tòa soạn báo Tiền phong đẩy khéo đi B (tức thâm nhập miền Nam). Trên đường Trường-sơn, xe ô-tô bị trúng bom, tất cả bị chết, riêng trung úy Phương Nam sống sót. Thế là được đặc cách lên lon đạo úy. Và, được theo Hoàng anh Tuấn trong phái đoàn quân sự ở trại David sân bay Tân-sơn-nhất, làm nhiệm vụ người phát ngôn và được đeo lon thiếu tá.
Sau 30-4-1975, đại tá Nguyễn văn Bút giã từ Hà-nội vào Sài-gòn giữ chức giám đốc sở ngoại kiều và thiếu tá Phương Nam được lên lon trung tá, giữ chức phó giám đốc cho đại tá Bút. Ở vị trí này, đại tá Bút chẳng thèm nhận vài chỉ vàng hoặc vài chai Johny Walker, cũng như trung tá Phương Nam đâu còn phải mỗi tháng hai lần bán maù mua gạo nuôi vợ và các con. Môi giới đưa đến cứ từ dăm chục cây một lần. Trung tá Phương Nam còn cô bạn lai Âu tóc vàng, mắt màu nước biển, lái xe Peugeot 404 đưa người đẹp đi nhà hàng Tri kỷ ăn thịt trúc (tức con tê tê), uống rượu huyết rắn hổ.
Một người có thẩm quyền ở ban thanh tra bộ công an nói rằng: đại tá Bút có tới vài ngàn lượng vàng, chưa kể đô-la Mỹ, Franc Pháp và hột xoàn. Còn trung tá Phương Nam có thua cũng chẳng thua đại tá Bút là bao. Dù có những thư tố giác về bộ công an và các cơ quan khác, nhưng đại tá Bút và trung tá Phương Nam chỉ phải chuyển công tác mà thôi. Không những thế, Phương Nam còn đeo lon đại tá.
Thì ra: "Nén bạc đâm toạc tờ giấy".
Các cụ nhà mình ngày xưa giỏi thật!
Kim loại màu vàng
Sau 30-4-1975, tòa nhà 3 tầng lầu ngay trước tượng Không tử, Chợ-lớn đã là đối tượng theo rõi của sở an ninh nội chính Sài-gòn - Chợ-lớn, do thiếu tướng công an Mai chí Thọ làm giám đốc. Tổ theo rõi căn nhà đó do đích thân trung tá Saù Ngọc, phó giám đốc sở chỉ đạo. Và, một buổi tối tháng 6-1975, nhân viên an ninh đến đọc lệnh khám nhà. Gia chủ là một người Tàu, đóng cửa nhà ngay từ trước ngày 30-4-1975, nằm "chùm chăn", không đi lại buôn bán làm ăn gì, nghiêm chỉnh chấp hành lệnh và đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc khám xét. Khi kiểm kê các "hàng bất hợp pháp", trung tá Saù Ngọc cười toe toét trước các bao vàng lá đủ loại: Kim thành, Sư tử, Ba quả núi - có sọc và không có sọc, đếm được gần 2 chục ngàn lượng; lại còn 3 hộp biscuit đầy hạt xoàn tất cả đều được lập biên bản rõ ràng, có mặt cả an ninh nội chính quận năm là thiếu tá Phong và đại diện Hội-hoa-liên. Chủ nhà và tang vật được giao về sở an ninh nội chính ở đường Trần Hưng Đạo. Nhưng, chỉ hai tuần lễ sau thì đại sứ Trung cộng tại Hà-nội, là Trần chí Phương, gửi thư lên bộ ngoại giao cộng sản Hà-nội phản đối việc bắt bớ Vì, căn nhà đó là cơ sở hoạt động gián điệp của Trung cộng ở Sài-gòn dưới các chính quyền miền Nam từ tổng thống Ngô-Đình-Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, và đã ngưng hoạt động trước 30-4-1975 là ngày cộng sản Hà-nội hoàn thành cuộc thôn tính và đặt bộ máy cai trị lên miền Nam VN. Chủ nhà được hộ tống ra Hà-nội cùng gia đình và về Hoa-lục bằng xe lửa. Còn vàng và hột xoàn? Khi nhận trao trả, phiá Trung cộng đòi thử lại và phát hiện rằng tất cả là vàng giả và xa-phia chứ không phải hạt xoàn. Đôi bên tranh cãi, nhưng phía Trung cộng cứ theo biên bản vàng lá và hạt xoàn mới nhận. Nội vụ tạm chuyển ra trung ương giải quyết cũng như tạm ghi sổ là VN của Lê Duẩn nợ Trung cộng vậy, chờ hạ hồi phân giải.
Câu hỏi rằng vàng giả và hạt xoàn giả là từ khi còn ở căn nhà đường Khổng tử hay nó chỉ hóa thân khi vào kho của Mai chí Thọ còn là một bí ẩn như trăm ngàn bí ẩn khác của xã hội cộng sản VN.
Sau bài học đó, bộ công an được bộ trưởng Trần quốc Hoàn cho sáng kiến là khi tịch thu vàng và hạt xoàn của nhân dân dù giả hay thật thì cũng chỉ ghi vào biên bản: vàng là kim loại màu vàng, và hạt xoàn là đá quý. Cái sáng kiến này đã giúp công an cộng sản tạm giữ vàng thật và hạt xoàn của dân. Và, nếu đương sự không có vấn đề gì thì phần lớn được trả lại tang vật đúng là kim loại "màu vàng" và "đá quý".
Đúng là khẩu khí của Hồ chí Minh rằng: "Chỉ có người cộng sản mới dám nghĩ, dám làm". Tài thật!!!
Lá số tử vi và kịch bản sân khấu
Ngay sau ngày 30-4-1975, nhà văn quân đội cộng sản, trung tá Nguyễn Khải (nay là đại tá và là phó tổng thư ký hội Nhà văn VN cộng sản) đã có mặt tại Sài-gòn. Bên cạnh công tác thì ông cũng dành thì giờ làm tư tác, nghĩa là đi thăm bố đẻ ở đường Võ văn Tấn và vài người họ hàng, trong đó có ông Bùi tường Huân. Chẳng biết ông Nguyễn Khải nói ra sao mà ông Bùi tường Huân năn nỉ đưa ngày, giờ, tháng, năm sinh âm lịch để đưa ra Hà-nội xem tử vi giùm (!), chủ yếu xem cung quan lộc còn phát được hay không hay lại bị tù. Sài-gòn bao nhiêu thầy tử vi, chỉ tay, tướng mặt v.v lại còn có hội Thông linh học, thế mà ông Bùi tường Huân lại nhờ Hà-nội giải đoán giùm lá số tử vi qua trung gian của nhà văn cộng sản Nguyễn Khải, đệ tử thân cận của trưởng ban tuyên huấn trung ương Tố Hữu! Tài thật!
Ăn các món ăn đặc sản của Huế ở nhà ông Bùi tường Huân rồi, ông Nguyễn Khải còn được ăn cơm thịnh soạn ở nhà bố đẻ, có đông đủ một số họ hàng là "ngụy". Chẳng biết Nguyễn Khải cao hứng nói thế nào mà bà cô ngắt lời ông Khải hỏi:
- Anh thấy Sài-gòn có nhiều cột đèn không?
Nguyễn Khải, gương mặt sáng sủa thông minh vậy mà cũng phải ngẩn ra một lúc mới trả lời được:
- Nhiều lắm
- Liệu có đủ để mỗi cột đèn treo cổ một tên cộng sản không?
- Không!
Không khí bữa ăn trầm lại. Bà cô Nguyễn Khải cười mỉa:
- Nếu vậy mỗi cành cây treo cổ một đứa!
Trở lại tiếng cười khà khà đúng là của nhà văn quân đội, trung tá Nguyễn Khải lớn tiếng:
- Cũng không đủ!
Rồi Nguyễn Khải vui vẻ hỏi móc bà cô:
- Ghét cộng sản như vậy sao cô không đi Mỹ mà còn ở lại đây làm gì?
Bà cô cười khẩy:
- Người Sài-gòn ai cũng muốn đi, chỉ vì mắc kẹt nên tạm ở lại mà thôi. Ngay cột đèn, nếu có chân chúng cũng sẽ đi hết!
Cả cuộc đối thoại trong bữa cơm hôm đó được cho lên kịch bản sân khấu do đoàn kịch điện ảnh dàn dựng. Mục đích là để nói lên cái chất "phản động" của dân Sài-gòn. Dùng văn nghệ để chứng minh cho bài nói chuyện của trung tướng Hoàng minh Thảo ở hội nghị lịch sử quân sự, đại ý: "Cái sai của Nguyễn Huệ, một lỗi lầm chiến lược lớn nhật là không tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn Nguyễn ánh đã là nguyên nhân gây mầm họa sau này". Chúng ta cần rút bài học lịch sử để không đưọc phạm sai lầm đó. Kịch đó của trung tá Nguyễn Khải không được Tư Bình - tức Vũ đình Liệu - chủ tịch Sài-gòn cộng sản ủng hộ. Cho nên, vở kịch diễn được đúng một đêm ở nhà hát thành phố thì phải gói phông màn, đạo cụ dông về Hà-nội.
Cái ông nhân viên thu thuế muối thời Pháp thuộc ấy, quê ở Nam-định, thật là tài, chẳng trách được ông Saù Thọ cho giữ ghế chủ tịch Sài-gòn. Khi sang Nga-xô, ông Tư Bình tức Vũ đình Liệu này đã gọi Nga-xô là "tổ quốc thứ hai" và chuyến đi đó là "cuộc hành hương về thánh địa", lúc thì bằng giọng Nam bộ cho ra vẻ Tư Bình, lúc thì giọng Nam định cho ra vẻ Vũ đình Liệu. Thế nhưng, có hai đứa con ông ta đã giải quyết: trai cho sang Pháp học thay vì sang Nga và gái thì vào làm việc ở Seaprodex thay vì vào thanh niên xung phong xây dựng nông trường Lê minh Xuân.
Đúng là nhờ sự kiện 30-4-1975 mà bao "người tài" lộ mặt. Thật mừng lắm thay!!!

Về Hội Nhà Văn CS Việt Nam
(Bài 6)

Khi những ngôi nhà cao tầng đầu tiên được xây dựng ở Hà-nội (từ trước 1975) thì cũng xuất hiện câu chuyện tiếu lâm "thời sự" về
"Nhà 5 tầng"(1). Chuyện kể rằng :"Ngôi nhà 5 tầng đầu tiên sau khi hoàn thành, bộ trưởng kiến trúc cùng giám đốc sở kiến trúc Hà-nội và kỹ sư trưởng của công trình tổ chức họp báo và giới thiệu về tòa nhà. Sau khi tham quan xong, chủ khách trà nước, thuốc lá, bánh kẹo lai rai, các nhà báo đều thắc mắc rằng : tòa nhà rất đẹp nhưng mọi người không hiểu sao cả 5 tầng đều không có nhà vệ sinh (nhà cầu). Viên kỹ sư trưởng đứng dậy trả lời đại ý : theo chủ trương của bộ và sở,
tòa nhà này tầng một (tầng trệt) để làm nhà trẻ nên không cần phải làm nhà cầu. Lý do : các cháu bị cột chặt vào ghế có lỗ, bên dưới có bô đựng cứt từ lúc đến cho đến lúc bố mẹ đón về. Mót ỉa thì đã có bô nên không cần nhà cầu.
Tầng hai (lầu 1) giành cho sinh viên đại học ở. Nhưng sinh viên chỉ được ăn tiêu chuẩn nhà nước qui định là 15 đồng/tháng (tiền Hà-nội trước 1975) nền đói quá không có "cứt" mà ỉa, vì thế cũng không cần nhà cầu.
Tầng ba (lầu 2) giành cho công nhân ở. Mà công nhân lương quá thấp nên luôn luôn lãng công, hết hút thuốc lại đái iả cho hết ngày giờ qui định ở nhà máy. Cho nên về đến nhà còn cứt đâu mà ỉa. Vì thế cũng không cần nhà cầu.
Từng bốn (lầu 3) giành cho văn nghệ sỹ. Mà văn nghệ sỹ vốn từ khi có vụ đàn áp "bọn" Nhân Văn - Giai Phẩm, có thóii quen "ỉa vào mồm của nhau" nên cũng không cần nhà cầu.
Và, tầng năm (lầu 4) là tầng tột đỉnh của tòa nhà, phải là nơi ngự tọa của lãnh đạo cao cấp. Là lãnh đạo đương nhiên được quyền "ỉa lên đầu lên cổ nhân dân", có bao giờ ỉa nhà cầu đâu, nên cũng không cần đến nhà cầu.
Cử tọa nghe xong, trên từ bộ trưởng, dưới đến mấy anh làm báo của các đảng Dân chủ và Xã hội đều tấm tắc khen nhà thiết kế qủa đã thấm nhuần "tính đảng" trong công tác thiết kế xây dựng. Bế mạc cuộc họp báo mọi người cùng hát lớn các bài "ca ngợi đảng lao động Việt Nam", "ca ngợi Hồ chủ tịch" ; cùng hô to các khẩu hiệu : "Đảng lao động Việt Nam muôn năm", "Hồ chủ tịch muôn năm", "Vinh quang thuộc về chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại" và khẩu hiệu cuối cùng là :"Nhất định không cần nhà cầu", hội trường vang lên ba lần tiếng "nhất định". Chủ, khách ra về hồ hởi phấn khởi trong tinh thần cách mạng "dám nghĩ, dám làm".


Truyện tiếu lâm là một loại hình văn học. Mà văn học bao giờ cũng phản ảnh hiện thực của xã hội. Cơ sở chuyện "nhà 5 tầng" trong đó có nói đến việc văn nghệ sỹ dưới chế độ cộng sản có thói quen "ỉa vào mồm nhau" là một sự thật, chỉ cần lôi các báo, chí của Hà-nội từ sau năm 1959 sẽ thấy rõ ràng như vậy, nhất là tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Việt Nam. Hầu hết các văn nghệ sỹ đều cố tình hoặc bị dồn ép vào cái trò "ỉa vào mồm nhau" này do các cấp lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản Việt Nam như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh và nhất là Tố Hữu, bày cách và cổ suý. Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học cũng như những nhà lý luận "cóc cắn" ào ào lên tiếng sủa như chó làng ngày hội. Ai cũng nghiến răng trợn mắt, đao to búa lớn cố chứng minh cho đảng và bác Hồ thấy mình căm thù bè Nhân Văn - Giai Phẩm nhất. Ngư&oocirc;øi bắn phát pháo hiệu cuộc thi "ỉa bậy" đó là đại tướng Nguyễn Chí Thanh, uỷ viên bộ chính trị, chủ nhiệm tổng cục chính trị của quân đội, phó bí thư quân uỷ trung ương. Cái ông đại tướng này hay nói chuyện với văn nghệ sỹ và lúc nào cũng tự hào (thực ra là tự ti) là chỉ học đến lớp 4 nhưng có lập trường vô sản kiên định nên "vẫn làm được đại tướng và đánh thắng giặc Pháp". Tiếp đến là Tố Hữu, người khai sinh ra phong cách "thơ cung đình" trong lịch sử văn học Việt Nam. Khác với Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu hết sức né tránh nói đến trình độ văn hóa của mình. Là người đích thân ra đòn thù cũng như hoạch định cho các tay chân thân tín "chửi" những người trong phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Những gương mặt văn nô nổi bật nhất là Cù Huy Cận, Xuân Diệu, Bảo Định Giang, Nông Quốc Chấn, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Xích Điểu, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Phạm Hổ, Đào Vũ, Nguyễn Công Hoan v.v... Về nhạc có Phạm Tuyên, Huy Du, Đỗ Nhuận, Trần Hoàn, Ngô Sỹ Hiển v.v... Về họa có Mai Văn Hiền, Trần Văn Cẩn, Diệp Minh Châu v.v... Về điện ảnh và nhiếp ảnh có Nguyễn Đức Hinh, Đinh Đăng Định, Nguyễn Thụ. Giới phê bình có Hoài Thanh, Trương Chinh, Trường Lưu v.v... Các nhà lý luận có Năm Chuột (Trường Chinh, cái tên trong chuyện ngắn của cụ Phan Khôi) rồi đến Trần văn Giàu, Đào Duy Tùng, Nguyễn Khánh Toàn, Phạm Như Cương, Hồng Chương, Nguyễn Chương, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Hoàng Xuân Nhị, Trần Huy Liệu, Văn Tân, Trần Độ, Hà Huy Giáp v.v... Loại đánh hôi chưa có chỗ đứng trong văn học nghệ thuật và phê bình, lý luận có Vũ Đức Phúc (anh giáo viên trường phố huyện Gia lâm), Phạm Đình Sáu (giáo viên tỉnh lẻ Cao Bằng), Vũ Khiêu (giáo viên tỉnh biên giới Lạng Sơn) v.v... Trong giới báo chí có Hoàng Tùng, Thép Mới, Quang Đạm, Diệu Bình, Lưu Quý Kỳ, Mạnh Hồng, Hoàng Tuấn, Lê Bá Thuyên, Huỳnh Văn Tiểng v.v... Để "nêu danh" những kẻ đê tiện nhất trong tay chân của Tố Hữu, người dân đen ở Hà-nội có hai câu :

"Xuân Diệu , Xuân Sanh như Xuân Tóc Đỏ
".

:
"Mồm Phạm Hổ, cổ Hoài Thanh, nanh Đức Phúc" (tức Vũ Đức Phúc).

Có thể nói rằng trọn vẹn những kẻ tham gia "ỉa bậy" do lãnh đạo chóp bu của cộng sản Việt Nam động viên và chỉ đạo từ đó cho đến nay đều bước rất nhanh trên bậc thang "quan lại đỏ". Tố Hữu từ một ủy viên dự khuyết trung ương leo vào bộ chính trị kiêm bí thư trung ương, phụ trách trưởng ban tuyên huấn trung ương, rồi giữ luôn cả ghế phó thủ tướng thứ nhất, thường trực thường vụ hội đồng chính phủ. Giá không xảy ra vụ "nhà thơ" Tố Hữu làm "kinh tế" về "giá, lương, tiền" thì chắc chắn anh chàng Lành (tức Tố Hữu) mà Độc này đã thay thế Phạm Văn Đồng rồi chứ đâu có đến lượt Phạm Hùng. Cù Huy Cận, nhà thơ được thanh niên Hà-nội đổi tên thành Cù hay Cắn (bậy), nay giữ ghế chủ tịch uỷ ban liên hiệp văn học nghệ thuật; Trần Hoàn lên ghế bộ trưởng văn hóa; Nguyễn Khải, phó tổng thư ký hội nhà văn; Nguyễn Thụ, cục trưởng cục điện ảnh v.v... Một số khác tuy chết nhưng là chết trong "vinh quang" ở cái lúc đã có ngôi thứ trong bộ máy cai trị của cộng sản. Riêng ba chàng đánh hôi, từ cái chỗ đứng khiêm tốn ở nhà trường mái lá tỉnh lẻ, phố huyện đã leo tót về trung ương : Vũ Khiêu làm viện trưởng viện mỹ học Marx-Lénin; Phạm Đình Sáu làm vụ trưởng vụ ca múa nhạc (trước Trung Kiên) và Vũ Đức Phúc làm viện phó viện văn học. Còn Nguyễn Đình Thi, con người có kiến thức đa dạng, cũng có tác phẩm văn học, cũng làm nhạc, cũng làm thơ, cả thơ tình nữa và cũng có nhiều mối tình "bẩn thỉu" không thua gì "mối tình bẩn" của Tố Hữu, liên tục giữ chức tổng thư ký hội nhà văn cho đến tận nhiệm kỳ vừa qua mới nghỉ...hưu, cái chức vụ mà người dân bình thường gọi là "chó giữ cửa". Nhờ vào dịp thi "iả bậy" đó, một nhân vật có máu "chó săn nòi" đã xuất hiện và trở thành kẻ có uy quyền lừng lẫy và cũng lẫy lừng về các vụ làm tiền và bắt "bồ nhí", đó là trung tướng công an Dương Thông, tổng cục phó tổng cục an ninh của chính quyền cộng sản Việt Nam. Và, cũng từ đó, Dương Thông cho đến nay vẫn đóng một vai trò quan trọng, đôi lúc còn là chính yếu trong các vụ thi "iả bậy". Hầu như tất cả những đệ tử năng nổ của Tố Hữu đều trở thành kẻ công tác chặt chẽ với cơ quan an ninh của Dương Thông. Và, chính Tố Hữu, dù lúc nào cũng tự coi con người mình như gồm các tế bào "bằng thơ" cấu thành cũng thấy được quyền uy của công an trong chế độ độc tài, công an trị, nên có đứa con một tuy là gái nhưng không cho theo nghiệp thơ văn mà cho đi làm nghề "công an".

Tất cả những người kẹt trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm đều nằm tù hoặc bị cải tạo lao động ở các nông trường hoặc công trường, trừ Trần Duy (tức Trần Quang Tăng). Bị tù như Nguyễn Hữu Đang, Thụy An v.v...; đi chăn bò ở Ba Vì như giáo sư thạc sỹ triết học Trần Đức Thảo v.v...; làm thơ đấu (đào đất) như Văn Cao, Lê Đạt, Hoàng Cầm v.v... . Bị cắt hộ khẩu khỏi Hà-nội như Trần Dần...để đưa đi miền núi. Riêng Trần Duy, làm lao động phất phơ ở công trường bẩy mẫu (công viên Lê-nin hiện nay) độ một tháng thì được biên chế về hội Mỹ thuật để ăn lương nhưng nằm nhà vẽ tranh cho các sứ quán Đông Âu dưới cái tên Hồng Hà. Riêng cụ Phan Khôi, bản thân bị đày ải, bôi nhọ cho đến chết. Đau nhất là đứa con trai bất hiếu của cụ là Phan Thao, đã "đấu bố" đúng tinh thần "con người xã hội chủ nghĩa" nên vẫn là đảng viên cộng sản lại còn được ông Hồ Chí Minh cho làm tổng biên tập báo Thống Nhất. Nhưng một hôm Phan Thao đi làm về qua hồ Thuyền Cuông thì tự nhiên lè lưỡi, trợn mắt mà chết như bị ai bóp cổ. Dân Hà-nội thì kháo nhau đó là hồn cụ Phan Khôi bóp cổ cho chết đứa con bất hiếu. Tuy không viết một chữ nào về văn nghệ, nhưng cụ bà Phan Khôi cũng bị làm nhục bàng cách cho xếp ở một căn phòng nhỏ như cũi chó ở ngay cạnh chỗ iả đái của cơ quan Liên-hiệp văn-học nghệ-thuật (51 Trần-Hưng-Đạo, Hà-nội) với con gái, và cụ bà làm việc hầu hạ nước nôi, quét dọn văn phòng cho các ông quan "văn nghệ đỏ" gồm : Nguyễn Đình Thi, Bảo Định Giang, Đỗ Nhuận, Mai Văn Hiếu v.v...


Văn nghệ sỹ, vốn làm chức năng "tải đạo" cho xã hội, thì nay trong sự nhào nặn của ông Hồ Chí Minh và đảng của ông ta, những ai muốn làm NGƯỜI, một người VIỆT BÌNH THƯỜNG cũng không thể được. Trong chế độ xã hội ở miền Bắc Việt Nam - sau 1954 - và ở cả nước Việt Nam - sau tháng 4-1975 - một chế độ, do sử gia cộng sản Việt Nam chính thống ca ngợi, mà cha đẻ là Hồ Chí Minh, dù Bá Di và Thúc Tề có còn sống cũng bị khai báo hộ khẩu để công an quản lý. Văn nghệ sỹ chuyên nghiệp trở thành văn nô : viết gì, viết lúc nào v.v... đều có lãnh đạo của nhà cầm quyền cộng sản, do nhà cầm quyền cộng sản trả lương. Tất cả hội viên của hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật đều ăn lương của hội, cũng chịu sự xếp lương của cán bộ tổ chức như các ngành nghề khác như công nhân vệ sinh, thợ hớt tóc, lấy dáy tai thuộc công ty phục vụ v.v... Bậc lương của họ không tùy thuộc vào tác phẩm, vào tài năng mà căn cứ vào sự "tự nguyện thuần hóa thành văn nô của họ". Thí dụ như nhà văn Quang Dũng, lương tương đương cán sự 3 trong lúc anh chàng làm thơ "cóc cắn" Bảo Định Giang lương chuyên viên 5, nghĩa là hơn gấp hai lần tiền mặt danh nghĩa, còn giá trị thực thì chênh lệch một trời một vực. Bởi lẽ tất cả mọi nhu cầu ăn, mặc, ở của Quang Dũng đều trói tròn trong đồng lương bậc 3 (khoảng 64 đồng tiền Hà-nội trước 1975). Còn Bảo Định Giang được ở nhà, điện, nước cho đến giường nằm, tủ quần áo, xe hơi, máy thu thanh... đều do "đảng" cung cấp. Đã thế còn có sự khác biệt về chế độ ốm đau, nơi khám bệnh, nơi mua hàng theo giá rẻ gấp nhiều lần so với thị trường tự do và tiêu chuẩn mua hàng thanh lý và hàng "viện trợ", và cuối cùng lúc chết cũng khác biệt về vải liệm, áo quan, vòng hoa viếng (loại bao nhiêu tiền) và nơi chôn cũng như được đảng cáo phó hay không v.v... Trong sáng tác lại còn phân biệt hơn nữa. Trước hết, tác phẩm không cần phải thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của người đọc mà phải "thỏa mãn tính kiêu căng, tự mãn" của ông Hồ Chí Minh và những người thừa kế (thường nhập nhằng trong khái niệm "đảng"); tác phẩm không được phản ảnh đúng hiện thực của xã hội mà phải "tô hồng" với ta, "bôi đen" với địch và "bóp méo" dữ kiện lịch sử. Văn nghệ sỹ không còn quyền sáng tác tự chủ mà trở thành người thợ thủ công "đẻ" tác phẩm theo mẫu mã, kích thước và thời gian giao hàng do ông Hồ Chí Minh và những người thừa kế ra lệnh. Dưới chế độ xã hội mà ông Hồ Chí Minh là kẻ "phóng tác", nếu như các tiểu chủ như đạp xích lô, hớt tóc dạo v.v... phải gia nhập bắt buộc vào các hợp tác xã của nhà nước cộng sản để chịu sự quản lý mọi mặt từ con người, lao động, loại sản phẩm, giờ giấc sinh hoạt của cả cuộc đời cho đến tư tưởng, thì, văn nghệ sỹ cũng bị quản lý như vậy. Có chút khác biệt là cái cơ chế quản lý văn nghệ sỹ, về nội dung là một hợp tác xã, còn về hình thức thì được tô màu lòe loẹt là "Hội". Đương nhiên,, các chức sắc của "Hội" được tuyển chọn theo tiêu chuẩn có "tai, mũi, mắt" của "chó giữ nhà", và bọn họ đều chịu sự lãnh đạo hai chiều : phần "sáng tác" do ban tuyên huấn trung ương chỉ đạo (xưa là Tố Hữu nay là Đào Duy Tùng) và phần "an ninh chính trị" do Dương Thông trung tướng công an, tổng cục phó an ninh. Bản thân các chức sắc của "Hội" lại bị giám sát bằng một mạng lưới "mũ" (tức công an chìm) của Dương Thông qua các lái xe, thợ in, chủ quán cà phê, trà chén, và ngay chính một số hội viên của hội. Văn nghệ sỹ đúng là phải sống trong cảnh "thiên la, địa võng" ngoài sợi dây buộc chiếc bao tử như cái hàm thiếc ngoàm vào mồm con ngựa. Có điều trớ trêu là ông Hồ Chí Minh rất "khoái" Tố Hữu và Dương Thông về cái sản phẩm "thiên la, địa võng" đó, cũng như Tố Hữu và Dương Thông "khoái đàn chó giữ nhà" và bầy "gác-điêng" do mình tạo dựng ra, nhưng thực ra nhiều văn nghệ sỹ vẫn làm được cái việc "thăng thiên, độn thổ", trở về lòng Mẹ là nhân dân và tổ quốc để phủ lên các đồi hoang văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa bằng rừng xanh văn học dân gian, bằng cách nói nước đôi, bằng mượn chuyện xưa răn đời nay v.v...

Sau vụ đàn áp phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm ít lâu, có những nhà văn "gọi là còn có lòng" cũng tự làm lấm cuộc đời sáng tác văn học của mình, như Nguyễn Huy Tưởng, viết "Truyện anh Lục", ca ngợi cố nông có tài "vu láo". Một số tài năng xuất sắc bị "cất bút" không cho sáng tác, nhất là về thơ như Lê Đạt, Trần Dần, Hữu Loan, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm v.v... chủ yếu là sự đố kỵ về tài năng của nhóm Tố Hữu, Cù Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên; hoặc về văn như Phùng Quán, Vũ Cao, Bùi Quang Đoài, Quang Dũng, Trần Lê Văn; hoặc về nhạc như Văn Cao, Tử Phác; hoặc về họa bị chèn ép như Văn Cao, Nguyễn Sáng, Trọng Kiệm, Bùi Xuân Phái v.v... về điện ảnh và sân khấu như Trần Công, Phan Tại (bị tù). Tuy không đủ gan nói trắng trợn như Mao Trạch Đông rằng :"Trí thức không bằng cục phân", nhưng trong xử dụng thì ông Hồ Chí Minh và tay chân của ông ta coi "trí thức và văn nghệ sỹ" như cục phân thực thụ. Tất cả đều bị bỏ vào ủ trong cái cơ chế "hố xí hai ngăn xã hội chủ nghĩa"(2). Bao tài năng bị hủy bỏ, bao tài năng bị ủ trong "hố xí hai ngăn xã hội chủ nghĩa" đã biến chất văn nghệ sỹ thành các thứ nô lệ tôi mọi, lo lắng và hành động theo bản năng thấp hèn. Xuân Diệu, Hoài Thanh... chỉ lo đi giới thiệu và bình thơ Tố Hữu. Còn Chế Lan Viên thì bốc thơm thơ Sóng Hồng (tức Trường Chinh). Tất nhiên, cả bộ máy "hợp tác xã văn nô" được huy động vào việc "nịnh" ông Hồ Chí Minh. Mỗi văn nghệ sỹ đều cố sáng tác thật nhiều tác phẩm ca ngợi ông Hồ Chí Minh. Đó là công điểm, là lập trường cách mạng, là lá bùa hộ mạng mà cũng là cần câu cơm cùng bậc thang danh vọng của giới "hợp tác xã văn nghệ xã hội chủ nghĩa". Tố Hữu, Trần Hoàn (hiện nay là bộ trưởng văn hóa, quan thầy của Trịnh Công Sơn), Diệp Minh Châu, Đinh Đăng Định v.v... điển hình của văn nô về cái bén nhạy trong "thi công" văn học, nghệ thuật xã hội chủ nghĩa.

Vườn hoa văn học nghệ thuật truyền thống của nước Việt Nam văn hiến đã bị các loại cỏ độc cộng sản do ông Hồ Chí Minh gây giống làm thui trột. Với cách đào tạo, cải tạo, nuôi dưỡng, quản lý và sử dụng như vậy, lẽ đương nhiên phải nảy sinh những con người dạ thú. Ngay như Xuân Diệu, chỉ một "Phấn thông vàng" và các bài thơ làm trước 1945 cũng đưa ông ta lên đỉnh cao, vậy mà được cải tạo trong hố xí hai ngăn xã hội chủ nghĩa của ông Hồ Chí Minh, Xuân Diệu nỡ trắng trợn "ăn cướp" công trình sưu tầm thơ về Hồ Chí Minh qua tập "Sáng tháng năm" của sinh viên đại học tổng hợp văn (Hà-nội) là Hạ Bá Nền (lý do tiền là phụ mà lý do chính là muốn "lấy điểm" với ông Hồ Chí Minh!). Chỉ cần một phần nhỏ gia sản sáng tác của mình trước 1945 Chế Lan Viên cũng được mến mộ, vậy mà có thể uốn ngòi bút để ca ngợi thơ của Sóng Hồng (chỉ vì Sóng Hồng tức là Trường Chinh) với thơ kiểu "quan vỏ" trong chuyện tiếu lâm Việt Nam. Thơ Sóng Hồng với những câu :


"Sắt chạm sắt, loé lửa
Tiếng chạm tiếng đinh tai..."

khác gì thơ "quan vỏ"

"Chẳng phải voi, chẳng phải trâu
Ấy là con chó cắn gâu gâu

Khi ngủ với nhau thì phải đứng

Trăm năm chẳng được hớp chè tàu"

Có điều thơ "quan vỏ" do anh phó may Nịnh, còn thơ Sóng Hồng do Chế Lan Viên nịnh! Nhờ đó nên bước vào đại hội 4 cộng đảng, Chế Lan Viên bị trượt phiếu ở đảng bộ cộng sản ở hội liên hiệp văn học nghệ thuật, lập tức được Trường Chinh (tức Sóng Hồng) hỏa tốc cho vào ứng cử ở đảng bộ tỉnh Lâm Đồng! (Thật kỳ quái!). Đặc biệt văn nô Hoài Thanh còn chấp nhận cả một thứ công việc vô sỉ nữa là vụ lấy vợ vào lúc mà cả hai hàm răng đã rụng không còn cái nào. Chẳng là một goá phụ của một cố bộ trưởng hồi xuân, ngụ tại đường Trần Quốc Toản (Hà-nội) hay được mấy con bướm trong trung ương đảng (cộng sản) đến hút nhuỵ, để xẩy ra ghen tuông làm ầm cả phố phường. Ông trùm lãnh đạo tư tưởng Tố Hữu có sáng kiến ghép đôi lưá bà quả phụ hồi xuân đó cho Hoài Thanh, nhỡ có gì thì làm nhiệm vụ "đổ vỏ" cho mấy ông trung ương "ăn ốc". Đó là võ cũ của nhà thơ Tố Hữu, trước năm 1959, đã gạt cô "bồ nhí" sang cho một họa sỹ trẻ, em nuôi của cô ta. Rồi một nhà văn, tác phẩm thì tầm thường, nhưng có dáng người cao ráo, đã hãnh diện vì vợ được kèm đàn tại tư gia cho một ông đại tướng, nên đã leo rất nhanh thành "quan văn nghệ đỏ". Cũng như một nhà thơ kỳ cựu đã giới thiệu cô "bồ nhí" đến an ủi cho vị nguyên thủ nên có nhiều bê bối mà vẫn "huề cả làng". Nhiều lắm, có kể cả thế kỷ cũng không hết những thí dụ về "người thật việc thật". Chính những "tấm gương" rất "cộng sản" đó đã làm tha hóa biết bao nhiêu văn nghệ sỹ. Và, cái hợp tác xã văn học nghệ thuật trở thành chốn dung thân cho những kẻ lấy "sáng tác" làm nghề phụ mà nghề chính là "thổi ống đu đủ", là "lăn, lê, bò, toãi", là "ỉa bậy"!


Nhà nước của ông Hồ Chí Minh và những người thừa kế ngày đêm lo hoàn chỉnh bộ máy đàn áp và thống trị các tầng lớp nhân dân thì ngược lại những người bị áp bức cũng hoàn chỉnh các cách chống lại tụi thống trị. Công nhân, xã viên nông nghiệp, xã viên thương nghiệp, cán bộ, nhân viên, bộ đội, trí thức, sinh viên v.v... luôn đẻ ra nhiều cách lãng công, hối lộ, vô hiệu hóa công cụ chuyên chính của chế độ. Còn văn nghệ sỹ? Họ dùng nghề nghiệp của mình là sáng tác, là phản ảnh hiện thực của xã hội, tìm cách "luồn lách" vào các sơ hở của chính quyền, thực sự "dựa vào dân" để nhớ, để lưu hành miệng, để hoàn chỉnh mọi tác phẩm tấn công vào nhà nước bạo quyền của ông Hồ Chí Minh và chân tay thân tín. Ngoại trừ một số những sáng tác luồn lách để in được do các tác giả có dụng ý như truyện ngắn "Cây táo ông Lành" trên báo văn nghệ; "Nhà Lý" trên báo Thống Nhất; "Vào đời" của nhà xuất bản Văn Học; cho đến các truyện ngắn "Cái gốc", "Tờ Hoa" v.v... thì ngay cả những nhà văn có một thời "lỡ sống hên", về cuối đời đã liều mình chơi lại ngón "đà đao" như Nguyễn Công Hoan với "Đống rác" và "Nhớ gì ghi nấy"; Như Tú Mỡ nằm dưỡng bệnh "chờ chết" ở Quảng Bá (Hà-nội) khi nghe tin trên đài báo "Miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng" đã nói với mọi người rằng "Nhờ Nhất Linh và anh em trong Tự Lực Văn Đoàn mà trở thành nhà thơ trào phúng" và thường buồn bã kể lại những kỷ niệm đẹp của thời sống với Tự Lực Văn Đoàn v.v..., không thèm hé răng nói gì đến "Bác Hồ" với "đảng của Bác" hoặc cái hợp tác xã văn học do Nguyễn Đình Thi làm chủ nhiệm!

Cả bộ máy tuyên huấn trung ương do Tố Hữu chỉ đạo, phối hợp nhịp nhàng với cơ quan an ninh của Dương Thông và Quang Phòng luôn tìm cách trấn áp, bôi nhọ, vu cáo những văn nghệ sỹ chân chính, như viết bài tố cáo cụ Phan Khôi là mật thám của Pháp; giáo sư Trần Đức Thảo là đạo văn; Trần Dần, Đặng Đình Hưng là nói phản động, trong nhóm với Đinh Hùng (ở miền Nam); Hoàng Cầm biến chất; Lê Đạt bị "mụ gián điệp" Thuỵ An mua chuộc; Vũ Trọng Phụng (đã chết từ trước 1945) và Trương Tửu là phần tử Troskiste; Tữ Phác là con quan lại phản động v.v... Thôi thì đúng như cụ Nguyễn Du đã "tiên đoán"


"...Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh"...

hay :
"...Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi"...

Bảo Định Giang thôi làm thơ "con cóc" mà cả ngày viết báo cáo "đồng kính gửi" Tố Hữu và Dương Thông về thái độ của từng văn nghệ sỹ "khả nghi". Ông ta lưu ý cấp trên đến cả việc Nguyễn Tuân vắng mặt trong ngày "viếng" đại tướng Nguyễn Chí Thanh là biểu hiện cụ thể của hành động "chống đảng". Mai Văn Hiến thì bò như rắn lên cầu thang ở nhà tập thể đường Nguyễn Thái Học (Hà-nội), áp tai vào cửa phòng của họa sỹ Nguyễn Sáng xem "bàn luận" gì với Văn Cao. Xuân Diệu đi khắp các trường đại học nói chuyện "về tên Hoàng Cầm" đã dám chê thơ của "lãnh tụ Tố Hữu" là đục lờ lờ như nước vo gạo. Vũ Đức Phúc thì gào lên rằng "văn học dân gian là phản động"! v.v... Còn Nguyễn Đình Thi, hàng ngày đều dặn đi xe hơi đến nhà riêng Tố Hữu nhận kế hoạch "trấn áp tư tưởng" lũ "văn nghệ sỹ chống đảng". Trong lúc đó Trần Duy suốt ngày "đeo cái mác thư ký tòa soạn báo Nhân Văn" cưỡi xe mô-bi-lét đời mới do thân nhân ở Pháp gửi cho để "thăm dò tư tưởng" giới trẻ và giám sát những người qua lại với Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm v.v... lấy tài liệu viết báo cáo định kỳ nộp cho Dương Thông hoặc qua tay Quang Phòng chuyển tới Dương Thông. Nông Quốc Chấn (thứ trưởng văn hóa) có vẻ thực dụng hơn nên "đánh bè lũ Nhân Văn" bằng cách làm hại đời con gái của một nhà văn lão thành trong nhóm Nhân Văn. Người Hà-nội chua chát nói đến chuyện này kết hợp với việc Nguyễn Đình Thi dụ dỗ một ca sỹ trẻ (tên là V.O.) ở đài phát thanh, khi "bể mánh" lại đến tận đài phát thanh gặp Trần Lâm, tổng biên tập của đài, đề nghị cho cô bé nhẹ dạ đó "nghỉ việc". Cũng may, nhẹ dạ trong tình yêu nhưng cô ca sĩ có thần phù trợ nên còn lưu được lá thư bút tích của Nguyễn Đình Thi xin lỗi lỡ hẹn vì "phải đi nghe cố đạo giảng kinh" (ý nói bị Tố Hữu gọi lên nghe lệnh). Lá thư được gởi đến tay Tố Hữu nên cô ca sỹ khỏi bị "đuổi việc". Còn Nguyễn Đình Thi, lưng còng hơn nữa trước Tố Hữu và bị cảnh cáo cho nghỉ "nhiệm vụ nghị gật" trong quốc hội bù nhìn! Câu nói đó là :


" Kinh tày đình, thằng Thổ hại cô Thái
Họa xiếc khỉ, tên Thi hiếp nàng ca."

Các báo Nhân Văn, tạp chí Trăm Hoa và Giai Phẩm... bị đóng cửa vĩnh viễn, nhưng chính quyền của ông Hồ Chí Minh không thể nào "đóng cửa" được "báo nói" của đích thực những "văn nghệ sỹ nhân dân". Truyện tiếu lâm thời đại, thơ ghế đá được truyền miệng cả Hà-nội đến nông thôn, vừa sâu sắc vừa kịp thời. Đối tượng bị đả kích là ngay lãnh chúa Hồ Chí Minh, thí dụ như :

"Việt nam có một ông già
Râu dài, tóc bạc tên là Chí Minh
Ông hay uống rượu một mình
Hễ buồn lại rủ Trường Chinh uống cùng
Say sưa ông nói lung tung
Việt nam mình sẽ sánh cùng năm châu
Này ông, chuyện ấy còn lâu !"


Ngày lăng Hồ Chí Minh được khánh thành cũng có thơ ghế đá truyền khắp Hà-nội:

"...Cũng lăng, cũng lính, cũng kèn đồng
Xác chết da xương, tim óc không
Nằm quan tài kính cho người ngắm
Xác nhắm mắt nghiền chẳng dám trông
Sở thú kề gần dăm, bảy bước
Thú NGƯỜI, người THÚ, nực cười không !"

Ngày tượng Lénine được dựng xong, ai đó đã khoác chiếc áo "đại cán" rách và cái nón cối rách lên tượng, cùng lúc bài thơ ghế đá ra đời :


"Lê-nin quê ở nước Nga

Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này

Ông vênh mặt, ông chỉ tay :
Tự do, hạnh phúc mày còn xa
Kìa xem gương của nước Nga
Bảy mươi năm lẻ có ra thế nào !"

Nói về thành tích "Bác, Đảng" đem lại cho nhân dân :

"Tự do chết đói cả nhà
Hạnh phúc vợ góa, mẹ lòa, con côi
Độc lập kiểu ấy... thì thôi !!!"


Giới lãnh đạo cộng sản điên cuồng. Trường Chinh đến trường đảng cao cấp Nguyễn Aí Quốc hằn học lên án "bè lũ ăn cơm xã hội chủ nghĩa mà chửi chủ nghĩa xã hội". Tố Hữu cho tổ chức "ôn nghèo nhớ khổ" trong các ngành và cho in tập tài liệu "lưu hành nội bộ" có tựa đề "Về bè lũ Nhân Văn - Giai Phẩm chống đảng". Ban tổ chức trung ương ban hành lệnh thành lập bộ phận "bảo vệ đảng" ở tất cả các đảng bộ. Bộ công an tăng cường lập thêm màng lưới đặc tính trong "hợp tác xã văn nô", nhằm vào "giới trẻ" và kẻ "có tội trong sinh hoạt". Nhà văn quân đội, trung tá Nguyễn Khải được Tố Hữu ra lệnh viết một loạt 9 bài "hơi tiêu cực" để đăng trên báo...Nhân Dân (!). Kết quả : chỉ có một thầy giáo trẻ "hưởng ứng" và bị quân của Dương Thông hỏi thăm sức khỏe. Tố Hữu bẻ mặt, Nguyễn Khải bị mọi người cầm bút xa lánh như tránh hủi (tất nhiên có cả văn nô làm ra vẻ ta "đàng hoàng"). Nhờ thành tích "cò mồi" đó mà văn nô Nguyễn Khải đã nhanh chóng qua mặt các đàn anh, đeo lon đại tá, giữ chức phó tổng thư ký hội nhà văn kiêm uỷ viên đảng đoàn của hội liên hiệp văn học nghệ thuật. Trong số các "mú" mới của Dương Thông, phải kể đến hai "mú cái" : một là nhà văn Ngọc Tú, được tuyển chọn sau chuyện bị bắt quả tang "đ...bậy" (không phải ỉa bậy) với kịch tác gia kiêm uỷ viên bộ biên tập báo Văn Nghệ, Xuân Trình, ngay trên bàn làm việc ở tòa soạn; hai là cô giáo dạy tiếng Pháp Đỗ Phương Quỳnh, sau khi đã "cắm sừng và bỏ chồng" nhưng vẫn "ham vui", được về làm báo ở Nhà xuất bản ngoại văn. Còn "mú đực" cũng nên lưu ý là Nguyễn Quang Sáng, một người ham "ăn nhậu" và thích kết bạn với các cai tù để được hành lạc với "tù hình sự nữ". Hay đi theo Nguyễn Quang Sáng đến "chơi" các trại cải tạo có Trịnh Công Sơn và Miên Đức Thắng, hai người đã được an ninh và trí vận miền (Nam) móc nối từ trước 1975 để làm "suy yếu sức mạnh chống cộng của miền nam".

Ngày nay, sức mạnh chính nghĩa của thời đại cùng với hào khí của dân tộc Việt Nam vẫn đang lay tận gốc chế độ xã hội phi nhân do ông Hồ Chí Minh và những người thừa kế thiết lập và củng cố. Những văn nghệ sỹ chân chính vẫn là một sức mạnh đáng kể. Lớp đàn anh trong phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm đã có nhiều người chết, số còn lại quá già yếu hoặc bắt đầu... muốn nghỉ hưu. Nhưng lớp trẻ ở cả trong và ngoài nước ngày càng nhiều, rất sung sức trong việc dùng ngòi bút góp phần xóa bỏ chế độ xã hội phản dân hại nước hiện nay ở Việt Nam. Đương nhiên, để đối phó lại nhà nước cộng sản Việt Nam cũng tuyển chọn một đội ngũ "văn nô" và "mú văn học" ở cả trong và ngoài nước. Chỉ cần tỉnh táo đôi chút sẽ phân biệt được văn nghệ sỹ chân chính với văn nô. Bởi vì văn nô cũng giống như kẻ giả vờ giết rắn : giơ tay cao đánh nhẹ vào khúc đuôi chứ không dám đánh vào cái đầu. Có điều, nhân dân Việt Nam đã ba đời bị "lừa bịp" nên mau chóng có kinh nghiệm phân biệt thực giả. Cho nên dù cho Đào Duy Tùng và Dương Thông có cho văn nô quốc nội sang tiếp sức cho văn nô hải ngoại như đoàn của Lê Đình Kỵ và Ma Văn Kháng vừa xong cũng chỉ là cảnh "chết đuối"vớ "bọt bèo".

Cái ngày tất cả các tầng của tòa nhà 5 tầng (tức 4 lầu) sẽ có nhà cầu đầy tiện nghi không còn bao xa. Và, tầng 4 (tức lầu 3) sẽ là nơi ở của những nhà văn nghệ sỹ rất VIỆT NAM.

9-1992

Chú thích :


1) Ngoài Bắc gọi là nhà 5 tầng, còn trong Nam gọi là 4 lầu 1 trệt.


2) Hố xí hai ngăn là phát minh của chế độ Hồ Chí Minh để ở các cơ quan trường học đi đại tiện. Hồ xí có hai ngăn 2 thùng đựng phân khi đi đầy thùng phân thứ nhất thì được bịt kín lại bằng đất và người đại tiện phải đi vào thùng thứ hai. Khi thùng thứ hai đầycậy thùng thứ nhất ra lấy phân đó nói là đã được ủ lên men đi xử dụng cho nông nghiệp và cứ như thế.
 
 
 

 

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website