CHÍNH KHÍ VIỆT

Thursday, November 16, 2017

(CHƯƠNG 13, 14, 15) Sự Tích Con Yêu Râu Xanh



Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

 
 

Việt Thường

Bài 13.

Nếu trước Tết Mậu Thân (1968), ngày “nhập ngũ” được coi là ngày hội, trống dong cờ mở, tặng lưu niệm v.v… thì sau đó ngày “nhập ngũ” biến thành ngày “bắt lính” thực sự. Địa điểm tập trung phải ở xa chỗ đông dân, và đại diện các đoàn thể đố dám ló mặt lên lớp động viên, dặn dò này nọ. Vũ Quang, bí thư thứ nhất cái gọi là “đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh” đã nhiều lần bị nghe chửi khi đến các nơi tập trung tân binh để động viên, nên sau này cho ăn kẹo cũng không dám vác mặt đến chỗ tập trung tân binh. Nhất là từ ngày tân binh thuộc khu Hoàn Kiếm (Hà-nội) đã chửi Vũ Quang như móc họng, rằng: “Đ… mẹ thằng hiếp dâm vợ người, sao không cho hai thằng con của mày đi làm nhiệm vụ quang vinh này mà lại cho chúng đi Nga, đi Đức học!!!
Ô-tô chở tân binh cũng rất chật vật, vì họ phá ghế xe, cửa kính, và còn giấu gạch củ đậu ném vào đám đông. Những cuộc chuyển quân vào khu bốn để rồi từ đó thâm nhập miền Nam Việt Nam, hầu hết bằng tàu hỏa, mà đi lúc nửa đêm. Các tàu hỏa bị đóng cửa như chở thú vật. Hai đầu toa tàu có lính mang tiểu liên áp tải, sẵn sàng nhả đạn nếu ai định mở cửa bỏ trốn. Tuyến đường sắt từ Văn-điển (Hà-nội) vào đến Hàm Rồng (Thanh-hóa) lính ngụy nằm phục kích, đề phòng tân binh nổi loạn, cướp tàu.
Cũng từ đó, ngụy quyền Hồ chí Minh đẻ ra cái gọi là “đơn vị giao quân”. Đó là tổ chức của ngụy quân được trang bị hầu hết tiểu liên, có nhiệm vụ “áp giải” lính đưa vào Nam (gọi là đi B), và thường giao quân ở bờ phía Nam bến phà Linh Cảm, rồi chúng quay lại nhận đợt tân binh khác. Tất nhiên lính bị đưa vào Nam hoàn toàn không có vũ khí. Phải vào đến phần miền Nam rồi mới được trang bị để đi làm bia đỡ đạn thi hành “sự nghiệp” của Hồ. Thời kỳ ngụy quyền Hà-nội xâm lăng Căm-bốt, Lê khả Phiêu làm nhiệm vụ tải lính sang Căm-bốt cho Lê đức Anh nướng. Với thành tích đó, Phiêu đã leo lên đến địa vị số 1 của mafia đỏ.
Sau vụ Mậu Thân (1968), nhiều tân binh vẫn tìm cách không chịu đóng vở kịch “sinh Bắc tử Nam” của ngụy quyền Hồ chí Minh, khiến chúng phải lập một nhà tù ở Lai-châu để giam giữ, bắt lao động khổ sai những tân binh đó, mà chúng gọi là “lính B quay”.
Điều đó minh chứng Hồ đã dùng “chuyên chính” để bắt lính chết cho chiến lược bành trướng của thực dân đỏ. “Ông tiên” của Lữ Phương thực sự là kẻ tội phạm tàn bạo nhất, đã cưỡng bức nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam bắn giết nhau vì tham vọng ích kỷ của hắn, tức cái “sự nghiệp Việt gian” của hắn.
Vụ Mậu Thân (1968) đã cho thấy sự trả thù đê hèn, khát máu của ngụy quyền Hồ chí Minh, lên người dân ở Huế, có sự chỉ điểm, đồng lõa của những tên nằm vùng như anh em Hoàng phủ Ngọc Tường, Lê văn Hảo v.v… Còn ở Sài-gòn, chẳng biết Lữ Phương đã góp công như thế nào để dzọt ra bưng được gia nô của “anh hùng giải phóng dân tộc” của Lữ Phương ban cho cái chức “thứ trưởng” hữu danh vô thực, hệt như mấy anh “lý trưởng mua” thời thực dân Pháp. Còn tên nằm vùng Trịnh công Sơn, vẫn tiếp tục sáng tác nhạc “phản chiến”, đóng góp rất tích cực và hiệu quả một trong “ba mũi giáp công” của họ Hồ. Viết nhạc đủ cả mây, gió, lá lủng, nhưng tuyệt đối như mù không thấy nắm mồ tập thể ở Huế để cất lên dù là chỉ một tiếng thở dài. Nhưng khi ngụy quân mafia đỏ lết xích xe tăng trên đường phố Sài-gòn, thì ngay buổi phát thanh đầu tiên của ngụy quân mafia đỏ vào chiều 30-4-1975, Trịnh công Sơn đã hồ hởi ôm đàn hát bài hắn sáng tác: “Nối vòng tay lớn”. Và, ít lâu sau hắn còn ra viếng lăng Hồ. Cha ông ta đã dạy là: “đồng thanh tương ứng”, nên chỉ những kẻ cùng tần số với Trịnh công Sơn mới thương khóc khi hắn bị Diêm Vương tống vào hỏa ngục!!!
Còn ngụy quyền Hà-nội, từ lúc Hồ còn sống cho đến nay, chưa bao giờ chúng cho việc giết dân thường như thế là sai. Nên, còn e ngại, ở Sài-gòn chúng chưa làm, nhưng ở Cần-thơ, chúng đã đặt tên một đường phố là Mậu Thân, tự hào chiến tích giết dân của Hồ! Lữ Phương và những tên than khóc, vinh danh tên mật vụ nằm vùng Trịnh công Sơn có biết điều đó không?(!!!)
*****
Sau thất bại thảm hại của vụ Tết Mậu Thân (1968), Hồ vừa hằn học vì thất bại, vừa bắt đầu ngày đêm tính toán lá tử vi của hắn, cũng như của đứa con hoang với cô bé đưa cơm ở hang Pắc-bó. Hắn lén lút đi Ba-vì nhiều lần, ngắm Hồ Suối hai, là công trình mà hắn lệnh cho Trần quốc Hoàn (bộ trưởng công an) phải bắt tù làm cho xong như ý hắn, cho đúng với bộ vì miếng đất mà hắn đã lén chôn tất cả những cái răng thật của hắn (vì Hồ làm cả hai hàm răng giả ở Nga-xô), hy vọng phát cho đứa con hoang của hắn.
Hồ là người mê và đọc nhiều truyện của Tàu. Một vài người thân cận với Hồ có dịp được nghe Hồ khen hai nhân vật. Một là Tấn văn Công (tức công tử Trùng Nhĩ), và hai là Tào Tháo. Thuở của năm 1944-46, Hồ cho tay chân tung tin là mắt Hồ có hai con ngươi như công tử Trùng Nhĩ (kẻ phải bôn ba 20 năm, trở về cầm quyền nước Tấn và làm nên nghiệp bá). Một trong những kẻ có công tung tin như thế là Xuân Thủy. Còn Tào Tháo, tên tự là Mạnh Đức, Hồ bèn đảo ngược, đặt tên cho thằng con hoang, hy vọng nó sẽ làm nên như Tào Tháo. Vài người biết chuyện này nói đùa với nhau rằng: “Đảo ngược tên của Tào Tháo đặt cho thằng con hoang, Hồ ngu mà không thấy rằng rồi ra thằng đó sự nghiệp cũng sẽ giống như sự nghiệp của Tào Tháo bị đảo ngược. Nghĩa là, Tào Tháo thì từ một cái vỏ gươm (vì lưỡi gươm đã dâng Đổng Trác) và con ngựa già làm nên sự nghiệp. Còn thằng con hoang của Hồ thì dù gia nô của Hồ có đặt sẵn nó lên cái ghế lãnh đạo thì sự nghiệp tương lai sẽ chỉ còn “cái vỏ gươm và con ngựa già” mà thôi!!!
Vài năm trước đây, một số nhà báo và giáo sư sử học ở trong nước có lên tiếng than phiền việc đỉnh núi Tản Viên bị “nhà cầm quyền” địa phương san đi làm miếu thờ. Mafia đỏ mà “làm miếu thờ” thì phải có nguyên nhân thầm kín. Mấy vị nhà báo và giáo sư không hiểu rằng việc làm đó được tiến hành sau khi họ Nông dzọt lên chức chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội, và vào cả bộ chính trị của mafia đỏ nữa. Đấy là nằm trong “lịch trình” của Hồ trước khi chết để lại, không có trong di chúc.
Cả cuộc đời Hồ, hai bàn tay đã vấy đầy máu của nhân dân Việt Nam, của những người Việt Nam đấu tranh cho độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; cả máu những ân nhân của Hồ; cả máu những “đồng chí” của Hồ, và cả máu trinh của biết bao cô gái trẻ đã phải qua tay con “yêu râu xanh” Hồ chí Minh ấy thế mà con quỷ đỏ Hồ chí Minh, sau vụ thất bại của Tết Mậu Thân (1968) đã sợ chết. Việc viết đi viết lại “di chúc” không phải như lũ bút nô cung đình của Hồ và vài anh “trí thức mọt sách, táo bón kiến thức” tỏ vẻ là Hồ “thanh thản” trước “ngày đi xa”. Chỉ riêng cái việc Hồ né chữ “chết” cũng đủ thấy hắn sợ “chết” đến như thế nào. Hắn tự an ủi là “đi thăm Các-mác, Lê-nin”. Cái điểm son tinh thần Việt gian, trung thành với mẫu quốc đỏ cho đến giờ phút cuối cuộc đời và lời căn dặn ân cần cái tổ chức Việt gian của hắn, rằng phải bảo vệ mẫu quốc đỏ, nên hắn đã được Nga-xô tận tình giúp đỡ ướp xác, xây lăng, vào cái lúc mà cuộc không chiến trên miền Bắc Việt Nam đang ở cao điểm!
Mấy nhà “hư cấu” cố tình chạy tội cho Hồ, dựa vào nội dung “di chúc của Hồ” và tin lọt từ me-xừ Vũ Kỳ, một gia nô tin cẩn của Hồ, trung thành hơn loài bốn chân, để nói rằng nhóm Lê Duẩn đã làm trái nguyện vọng của Hồ là “hỏa thiêu và đừng làm tang lễ linh đình”, v.v…
Cần phải nhớ rằng:
Bản thân Hồ và cái tập đoàn Việt gian của hắn chưa bao giờ làm những gì mà thảo thành văn bản. Hồ cũng như tụi kế nghiệp hắn cho đến nay là Nông đức Mạnh đều làm những điều không tuyên bố công khai.
Thí dụ:
+ Hồ nói là “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam” thì hắn lại dâng “Hoàng-sa” cho Tàu cộng. Tất cả những gì Hồ viết trong bản tuyên ngôn độc lập “đọc ngày 2-9-1945” chưa bao giờ được Hồ thi hành. Hắn còn làm ngược lại là đằng khác, vì hắn viết cốt để dụ khị lừa đảo nhân dân lúc đó cũng như các thế hệ sau này mà thôi. Thằng con hoang họ Nông của hắn bây giờ cũng thế, đi sang Tàu vừa qua là dâng đất cho Trung cộng.
+ Hồ nói chống tham ô, hủ hóa thì chính hắn là thằng trùm hủ hóa, và những kẻ kế cận của hắn cũng thế. Khù khờ và cái chết kề miệng lỗ như Tôn đức Thắng mà cũng cho xây một biệt thự ở Hải-dương, đóng cửa bỏ đấy, ngay lúc chiến tranh đang ác liệt, dân thiếu ăn, thiếu mặc. Võ nguyên Giáp cũng thế, bao nhiêu biệt thự ở Đồ-sơn không chịu ở, bắt công binh xây mới biệt thự cho hắn, mà phải phá đi xây lại nhiều lần cho đến khi hắn vừa ý mới thôi.
+ Thằng con hoang họ Nông cũng nói chống tham nhũng, nhưng ai mà ủng hộ và phát hiện tham nhũng thì bị đàn áp, bỏ tù. Còn xung quanh nó, có thể nói toàn bộ cái chính trị bộ mafia đỏ của hắn đều có tài sản ăn cắp chí ít cũng hàng trăm triệu đô-la Mỹ mà có thấy chống đâu, mà còn hợp tác toàn diện là đằng khác.
Nếu quả Lê Duẩn đã làm sai ý nguyện của Hồ thì bây giờ bọn chúng sửa lại cái sai của Duẩn đi, cho hỏa thiêu cái thây ướp của Hồ hoặc đem chôn, rồi làm mả cho lớn cũng được. Đằng này, chúng vẫn duy trì cái gọi là “sai” của Duẩn, mà còn làm “quá đáng” hơn nữa là thành lập một bộ tư lệnh bảo vệ lăng, chỉ riêng tiền nuôi đám lính tráng đó cũng tốn cả trăm tỷ mỗi năm; rồi lại bày trò làm lễ chào cờ hằng ngày cũng như bảo vệ cái thây ma Hồ cũng tốn kém rất nhiều nữa.
Tại sao chỉ có Vũ Kỳ nói là Lê Duẩn sai mà mấy thằng thay nhau làm tổng bí thư không dám sửa cái sai đó mà còn làm sai hơn nữa? Đúng như kiểu kết tội Lê Duẩn, Lê đức Thọ về “vụ án xét lại chống đảng”. Đấy nếu không là lệnh miệng của Hồ (lệnh thiệt, còn lệnh trên giấy tờ là lệnh rởm để tuyên truyền mà thôi) thì sao bây giờ họ Nông nắm quyền lực cao nhất, không ra lệnh làm theo “di chúc” cha của hắn, mà vẫn duy trì, còn bày thêm trò dâng hương ở tất cả mọi nơi đánh dấu bước chân Việt gian của Hồ.
Rành rành như vậy mà vẫn cố tình mặc áo “chống đối” để làm việc “chống đỡ”, thật là vừa ngu vừa hèn!!!
*****
Việc Hồ giết Nguyễn chí Thanh và yêu cầu Trung cộng rút công binh về nước là biểu hiện cụ thể cả tư tưởng lẫn hành động của Hồ luôn luôn thống nhất với “di chúc” của Hồ là chỉ nghĩ đến mẫu quốc đỏ Nga-xô và bảo vệ Nga-xô. Hồ hoàn toàn không nghĩ gì đến Tổ tiên Việt Nam. Ngay nội dung cái “di chúc” của Hồ cũng giống mọi điều hắn đã nói và viết, đều nhằm một mục đích duy nhất là lừa đảo lòng tin của nhân dân Việt Nam nói chung kể cả các “đảng viên thường” trong tổ chức mafia đỏ của hắn. Hồ thân Nga-xô hay thân Trung cộng, chắc chắn điều đó cả Nga-xô và Trung cộng đều biết rõ hơn mấy chàng “hư cấu”. Hãy chịu khó đọc lại lời chia buồn khi Hồ chết của Nga-xô và Trung cộng được đăng trên báo Nhân dân, cơ quan nói láo của ngụy quyền Hà-nội, thì sẽ rõ trắng đen! Ai tiếc Hồ và ai ghét Hồ!!!
Tội ác của Hồ không chỉ phát động vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, chấp nhận để nhân dân và đất nước Việt Nam thành vật thí nghiệm và nơi thử nghiệm các loại vũ khí, các chiến lược, chiến thuật quân sự, nơi cho Mỹ và Nga-xô tìm cách làm “chảy máu” của nhau. Hồ vẫn tiếp tục thi hành nhiệm vụ mà mẫu quốc đỏ trao cho khi thành lập tổ chức mafia đỏ, năm 1930, mang tên “đảng cộng sản Đông-dương”. Nghĩa là hắn cho tiến hành vũ trang xâm chiếm cả Căm-bốt và Lào.
Ai có dịp qua thăm huyện Lương-sơn (Hòa-bình) sẽ thấy nhiều trường tập trung dành cho thiếu nhi mà ngụy quyền Hồ chí Minh cho bắt làm con tin, mang từ miền Nam ra, nhất là các em thuộc sắc tộc Khờ-me; mang từ rừng núi Tây Nguyên và Khu năm ra; mang từ Căm-bốt và Lào ra. Từ Hênh Xôm-brin cho đến Hun-xen (thủ tướng Căm-bốt hiện nay) đều ăn học và được đào tạo tại Bắc Việt Nam. Những trẻ em thuở đó được đào tạo để sử dụng hiện nay vậy. Và, thuở đó những gia đình có con em bị đưa ra Bắc, bắt buộc phải hợp tác với mafia đỏ, nghĩa là làm cái việc “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Cái hoạt động ấy tất yếu dẫn đến cuộc chiến của mafia đỏ Việt Nam bành trướng sang Căm-bốt và cuộc đụng độ với Ba Tàu cộng ở phía Bắc vào năm 1979!
Tóm lại là, Lê Duẩn chỉ đi theo đúng cái “lịch trình” mà Hồ đã vạch ra khi hắn còn sống, và tiếp tục cái “lịch trình” đó một cách trung thành sau khi Hồ ngỏm!
Kiểu lý luận như Lữ Phương, thì tội xâm lược Việt Nam thời Trần của quân Nguyên-Mông, là do Thoát Hoan chứ vua Nguyên chắc không có tội!
Việc tụi được mafia đỏ phong cho là “trí thức yêu nước” thuở trước 1975, thật ra bọn đó chỉ là một lũ không bằng con chó của Lafontaine, thả mồi bắt bóng. Bởi con chó bị lầm vì nhìn thấy cái bóng dưới nước. Còn lũ này đâu có nhìn thấy cái “bóng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc” đâu vậy mà “thả mồi dzô bưng”.
Xưa, kẻ sỹ một lần “bàn sai” là vô bưng ở ẩn! Vậy mà nay vẫn tồn tại loại “kẻ sỹ” ở bưng nhào ra khua môi, múa bút không biết mỏi mà “đầu trắng vẫn trắng tay”, chẳng ra mafia đỏ cũng chẳng ra chống mafia đỏ; “phi điểu phi thú” như con dơi, tốt nhất là nên trốn trong bóng tối mà ăn muỗi!!!
Năm 1979, Trung cộng có thể dám lùa quân, bất ngờ và nhanh chóng, tiến sâu vào nội địa Việt Nam được dễ dàng, tàn phá, giết bao người dân miền Bắc Việt Nam chính là cái hậu quả tội ác Việt gian của Hồ, đã để Trung cộng đưa quân sang làm đường để di chuyển dễ dàng, để nắm được địa hình, địa vật, tâm lý nhân dân. Và, hơn nữa cái bánh vẽ của Hồ làm dân mất cảnh giác, đó là những khẩu hiệu như “tình huynh đệ bền vững”, nào là “môi với răng”, nào là “tinh thần đoàn kết vô sản cao cả”; nào là như bài hát:
“Việt Nam, Trung hoa
Núi liền núi, sông liền sông
Hồ chí Minh, Mao trạch Đông”
.

Những người ở Hà-nội vào năm 1969, làm sao quên được vụ 1-5-1969. Ngày hôm đó từ tinh mơ, học sinh trường trung học Trung hoa dưới sự điều động của “hồng vệ binh”, mang trên tay sách đỏ trích lời Mao. Tất cả đều đeo lung lẳng trước ngực huy hiệu của Mao, to bằng lòng bàn tay, tụ tập cùng Hoa kiều trong hội Hoa liên, để mít-ting chào mừng ngày “quốc tế lao động (1-5)” kết hợp với “ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước”. Đấy là lý do công khai để tụ tập. Nhưng sự thực là sứ quán Trung cộng đã chỉ đạo để biến cuộc biểu tình này thành cuộc đập phá sứ quan Nga-xô. Được tin này, Trần quốc Hoàn (bộ trưởng công an ngụy quyền Hà-nội) te tái báo cáo Lê Duẩn, Trường Chinh và Phạm văn Đồng xin ý kiến giải quyết. Cả bốn tên Việt gian chóp bu mặt xanh như đít nhái, vì nếu để sứ quán “anh cả Nga-xô” bị đập phá có khác gì bằng chứng chúng không có khả năng bảo vệ “Liên-xô thành trì cách mạng thế giới” như Hồ căn dặn và ghi trong các nghị quyết của chúng. Mà nếu dẹp biểu tình của “anh hai Trung cộng” thì cũng bỏ mẹ vì bọn chúng đã đập phá sứ quán Nga-xô đâu. Cả bốn tên quyết định vào xin ý kiến của trùm Hồ. Nên nhớ, giai đoạn đó Hồ đang bịnh. Mặt xưng lên, đi đứng phải có người dìu, và sau đó đúng 4 tháng thì Hồ chết lăn queo.
Khi Hồ được bọn Lê Duẩn báo cáo thì đoàn Tàu biểu tình đã qua Hàng Bông, gần tới cửa Nam, tức là đi bộ chừng 20 phút đồng hồ là tới sứ quán Nga-xô.
Con cáo già gần kề miệng lỗ vẫn còn ma mãnh hơn lũ đệ tử. Vừa nghe báo cáo dứt lời, Hồ ra lệnh “kéo còi báo động như có máy bay Mỹ vậy, đuổi hết đoàn biểu tình xuống hầm cho đến khi nào đoàn biểu tình mệt mỏi tự tan hàng ngũ, đuổi chúng quay về Hội Hoa liên hãy kéo còi báo yên.”
Ngày 1-5-1969 là ngày đầu tiên Hà-nội “báo động máy bay Mỹ” liên tục gần 6 tiếng đồng hồ liền. Với lý do thi hành lệnh phòng không bảo vệ tính mạng cho người đi đường, công an bỏ áo màu chó vàng, mặc thường phục, đóng vai “thanh niên cờ đỏ” cùng với “thanh niên cờ đỏ” thứ thiệt và tự vệ đường phố, đã nhã nhặn hướng dẫn đoàn biểu tình vào hết các hầm trú máy bay ở Cửa Nam, ở Ngõ Cấm Chỉ và suốt đường Phùng Hưng, đường Quán Sứ v.v… Cái nóng tháng 5, lại nằm trong hầm kín, nhiều tên biểu tình bị ngất vì thiếu không khí. Và, chỉ chưa đầy hai tiếng đồng hồ sau, nhiều tên phải chui ra khỏi hầm, được “thanh niên cờ đỏ” hướng dẫn quay đầu trở lui về phố Hàng Buồm. Để cho chắc ăn, tận xẩm tối mới kéo còi báo an.
Chuyện này, nhà “trí thức yêu nước” Lữ Phương có thể hỏi nhiều người dân thường lẫn quan lại mafia đỏ ở Hà-nội hồi đó đều biết, chắc chắn kể cả gia nô tin cẩn của Hồ là Vũ Kỳ. Như vậy, là những việc quan trọng, cho tới ngày sắp chết Hồ vẫn được hỏi ý kiến và cho những lệnh quyết định chứ không phải “bị cho ra rìa” hoặc bị Lê Duẩn bắt Hồ phải tống cổ cô con gái Tây lai của Hồ về Pháp như người ta “hư cấu” để chạy tội cho Hồ, để gây lòng ái ngại cho Hồ mà tội nghiệp cho tên đại Việt gian, đại gian hùng loại siêu trong suốt bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam cho đến nay!
Gần cả năm trước khi chết, Hồ ra công soạn “di chúc” viết đi viết lại mà vẫn lưu bản nháp. Một con người như Hồ đã thể hiện bản chất nhất quán suốt đường đi của hắn đến quyền lực, làm sao không dặn dò tỷ mỷ mọi chi tiết rằng sau khi hắn chết thì phải làm gì.
Hồ từng hỗn láo khi đứng trước đền thờ Đức Thánh Trần, rằng:
“… Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dẫn năm châu đến đại đồng…”

Một con người với khẩu khí như vậy, tự tay mình cướp được quyền lực cho bản thân và đồng bọn, sẵn sàng giết tất cả những ai trở ngại trên con đường đi đến quyền lực, làm sao có thể đóng vai Chúa Chổm để Lê Duẩn đóng vai Trịnh Kiểm! Cho nên việc xây lăng ở cạnh “phủ chủ tịch” là ý nguyện của Hồ. Hắn muốn làm cái việc của Lê-nin là “dẫn năm châu tới đại đồng” thế tất cũng muốn theo gương Lê-nin để có cái lăng và ướp xác nằm ngay giữa thủ đô. Lăng Lê-nin ở Quảng trường đỏ, gần điện Krem-lin, thì đương nhiên lăng họ Hồ ở Quảng trường Ba-đình và gần “phủ chủ tịch”. Khi sống hắn đã nghênh ngang đứng trên lễ đài bắt nhịp cho mọi người hô hắn “vĩ đại”, làm sao khi chết hắn lại chịu “không vĩ đại” bằng các vua nhà Nguyễn được chứ!
Còn một điều nữa, mà ngay những người không “nghiên cứu” nhiều về ngụy quyền mafia Hồ chí Minh cũng biết chí ít là trong ngụy quân cộng sản thì Võ nguyên Giáp và Nguyễn chí Thanh không ưa nhau; trong chóp bu mafia đỏ thì Lê Duẩn và Trường Chinh kình nhau. Nếu những nhà “hư cấu” cho rằng Hồ và Giáp cùng phe và bị nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ kiềm chế. Như vậy là nội bộ chóp bu mafia đỏ có ba phe:
1. Lê Duẩn, Lê đức Thọ và v.v…
2. Hồ và Giáp và v.v…
3. Trường Chinh, Hoàng quốc Việt và v.v…
Thử hỏi rằng Hồ có phải là loại cù lần đến mức không biết liên kết với bọn Trường Chinh mà chơi lại nhóm Lê Duẩn hay sao? Thủ đoạn này chỉ là mẹo vặt làm sao so sánh với âm mưu thâm độc khác của Hồ!
Các vị “hư cấu” có bao giờ đặt ra các câu hỏi như:
- Tại sao đại hội 3 (1960) của mafia đỏ phải hoãn ba lần để đến 1976 mới tổ chức đại hội 4?
- Tại sao Hồ chết đi mà trong đảng mafia đỏ bỏ luôn cái chức “chủ tịch đảng”, và Lê Duẩn nếu là kẻ nắm trọn vẹn quyền lực sao không ngồi luôn cái ghế “chủ tịch nước” như Hồ, mà phải để hai anh già bù nhìn đỏ là Tôn đức Thắng và Nguyễn lương Bằng vào các chức vụ “chủ tịch” và “phó chủ tịch”?

Chẳng phải các vị “hư cấu” không biết chuyện đó cũng như không có khả năng giải đáp các vấn đề đó, mà vì các vị chót “hư cấu” ra cái chuyện “Hồ bị ra rìa” để chạy tội cho Hồ, nên há miệng mắc quai. Nào trích ý của một tên gia nô của Hồ là Vũ Kỳ và tên gia nô của Lê Duẩn là Trần Quỳnh, nhưng chẳng bao giờ nhìn vào sự thực trắng đen rõ ràng để phán đoán.
Sau đại hội 3 mafia đỏ (1960), phải hoãn 3 lần trước hết vì cả nhóm Lê Duẩn lẫn Trường Chinh đều quân bằng lực lượng trong bàn tay cầm cân, nẩy mực của Hồ. Cho nên nếu mở đại hội thì sẽ hỗn loạn về nhân sự vì đấu đá mà quên nhiệm vụ “chuyên chính” ở miền Bắc và xâm lược ở miền Nam. Bởi vậy “chủ tịch đảng” là Hồ không cho mở đại hội.
Sau khi Hồ chết, để lại cái “gia sản quân bình lực lượng” đó, nên cả Lê Duẩn, cả Trường Chinh đều không đủ hậu thuẫn tuyệt đối nên cũng chưa dám tổ chức đại hội và chưa đứa nào đủ mạnh để tranh lấy cái ghế “chủ tịch nước”, vì thế mới đến lượt Tôn đức Thắng và Nguyễn lương Bằng là hai tên “ngu si hưởng thái bình” như các cụ nhà ta xưa đã nói vậy. Cái ghế “chủ tịch đảng” cũng đành bỏ luôn.
Kể từ đó, hai nhóm Lê Duẩn và Trường Chinh đều ngấm ngầm bố trí nhân sự, ra mặt bao che tay chân. Thí dụ cụ thể, như việc Phạm văn Đồng “vô tình” vào Hà-tây, theo đơn khiếu nại của tập thể giáo viên ở thị xã Hà-đông, đã cách chức hiệu trưởng của mụ vợ của bí thư tỉnh ủy Hà-tây, là Bạch thành Phong. Sau đó Bạch thành Phong chỉ đạo đại hội đảng bộ của tỉnh để đề cử và bầu vợ hắn vào làm “tỉnh ủy viên” phụ trách trưởng ban tuyên huấn, nghĩa là mất chức hiệu trưởng mà lại được tiến cử lãnh đạo cả ba ty là giáo dục, y tế và văn hóa thông tin. Chuyện này được “báo cáo” cho cả Phạm văn Đồng và Lê đức Thọ, nhưng vẫn huề cả làng, vì Bạch thành Phong là đệ tử ruột của Trường Chinh và được Trường Chinh bao che.
Chuyện còn đi xa hơn nữa khi Lê Duẩn “đày” bà vợ cả “già và xấu” của Lê Duẩn xuống Hải-phòng, công tác ở báo Hải-phòng Kiến thiết, đã bị me xừ phó tổng biên tập uống mật gấu “vuốt râu hùm”. Chuyện đổ bể, Trường Chinh vội cho đưa anh chàng phó tổng biên tập bị bệnh to gan đó về Hà-nội, nằm ở phố Lý Thường Kiệt, giữ cái ghế vụ phó vụ xuất bản kiêm phó giám đốc nhà xuất bản Phổ thông (nghĩa là lên chức). Tất nhiên Lê Duẩn phải tức giận, nhưng “nghĩ đến đại sự” nên lờ đi, chỉ lệnh đưa bà vợ già đó qua Bắc-kinh lạnh lẽo như lãnh cung, công tác ở sứ quán đến chết!
Chính cái thực tế của hai nhóm kình chống nhau trong nội bộ tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ là nhóm Lê Duẩn và nhóm Trường Chinh càng chứng minh việc “Hồ bị ra rìa”, Lê Duẩn làm sai di chúc của Hồ, đổi ngày Hồ chết, hoàn toàn là âm mưu của mafia đỏ chạy tội cho Hồ, biến Hồ thành thần tượng “vĩnh cửu” phục vụ cho quyền lợi vị kỷ của một thiểu số đầu lãnh mafia đỏ cầm quyền.
Nếu chỉ để cho bọn gia nô cung đình làm việc “phục chế” lại bộ mặt Việt gian khát máu của Hồ thì hiệu quả tuyên truyền bị hạn chế, vì nhân dân Việt Nam phần lớn đã ngấy dàn kèn đồng bốc thơm của gia nô mafia đỏ, cho nên tập đoàn chóp bu mafia đỏ đã láu cá bằng cách này, cách khác (như việc rò rỉ “tin thâm cung” qua miệng Vũ Kỳ chẳng hạn) khiến cho một số ngòi bút hoặc cơ hội, hoặc “lẩn thẩn” đã vô thức hoặc hữu thức tích cực tham gia viết chạy tội cho Hồ, mà cũng là chạy tội cho tập đoàn Việt gian mafia đỏ.
“Thử hỏi, tại sao nếu Lê Duẩn làm sai thì Trường Chinh phải lợi dụng việc đó mà “đấu” Lê Duẩn chứ. Việc Trường Chinh đồng lõa với Lê Duẩn chỉ có thể giải thích rằng tất cả những điều Lê Duẩn đã làm đều theo đúng ý nguyện của Hồ với bằng chứng vững chắc.
“Thử nghĩ xem, nếu mọi người đều biết Lê Duẩn cho “Hồ ra rìa” từ lâu (1956), thì Lê Duẩn cố tình xây lăng cho Hồ để làm gì? Để đời đời nhớ đến việc cái kẻ nằm trong lăng đã bị Lê Duẩn “cho ra rìa” hay sao? Việc xây lăng cho Hồ chẳng giúp ích gì cho Lê Duẩn, nếu không nói là thêm khó khăn vì lúc đó cuộc chiến xâm lược miền Nam đang ác liệt.
Tiết lộ của Hoàng văn Hoan sau khi trốn sang Trung cộng là bất khả tín. Vì thứ nhất, Hoan là tên Việt gian chính hiệu do Trung cộng nhào nặn, nuôi dưỡng cài vào lòng tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Từ khi Hoan còn là ủy viên loại chót bảng của chính trị bộ mafia đỏ kiêm phó chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội sau khi Nguyễn chí Thanh bị Hồ khử, thì rất nhiều người ở miền Bắc biết Hoan chỉ còn chức vụ như làm cảnh, cho “anh hai Trung cộng” khó mở miệng trong kế hoạch đu dây của Hồ. Vì thế Hoan chẳng làm gì ở Việt Nam, phần lớn thời gian là sang Tàu lục địa dưỡng bệnh, có về đến Hà-nội thì lại cả ngày hú hí cô bồ nhí tên là Hoa, ở căn vi-la trên đường Quan-thánh (gần Hồ-tây). Nghĩa là chẳng bao giờ Hoan họp chính trị bộ, vì biết những việc quan trọng hễ có mặt Hoan thì hoãn cách này cách khác cho đến khi Hoan vắng mặt. Đúng như Xuân Thủy đã nói với AFP ngày Hoan bỏ trốn. Hoan chửi Duẩn làm sai đường lối của Hồ, chẳng qua là đi tìm sự ủng hộ trong “cán bộ đảng viên” và trong nhân dân Việt Nam còn u mê chưa nhận rõ bộ mặt Việt gian của Hồ. Có thế thôi.
Còn tiết lộ của Trần Quỳnh và, nhất là Vũ Kỳ, chỉ là âm mưu của tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ muốn Hồ là kẻ ăn ốc mà Lê Duẩn (vì đã chết) làm kẻ đổ vỏ. Cũng có thế thôi, vì đó là thời kỳ Trường Chinh quay lại cầm chịch! Nhưng chúng cũng không dám công khai đề cập đến chuyện đó cho đúng tầm quan trọng của nó, mà chỉ là “chuyện hành lang”!!!



Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

Việt Thường

Bài 14

Tội ác của Hồ giáng lên đầu nhân dân cả nước Việt Nam, từ số liệu người chết, do chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam mà Hồ phát động được trưng ra bởi tên trung tướng ngụy quân cộng sản Nguyễn đình Ước; số liệu người chết vì “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cách mạng văn hóa tư tưởng”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” cũng đã vài triệu; chưa kể đến tụi mafia đỏ không cho phép thống kê số người chết đói, chết bệnh vì thiếu thuốc men v.v… Tất cả những cái chết đó đều bắt nguồn từ âm mưu của Hồ lèo lái chiến tranh giải phóng dân tộc, do Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc hội Khóa 1 lãnh đạo, thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.
Cũng vì phục vụ chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ mà Hồ đã dâng đất, dâng biển cho Trung cộng, đánh thức dậy dã tâm cướp đất, cướp biển của Tàu lục địa để mở đường cho chúng tiếp tục chính sách bá quyền bành trướng và làm mẫu mực bán nước cho đến bây giờ là bè lũ Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Lê khả Phiêu, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nông đức Mạnh noi theo.
Những tội ác trên là rõ ràng, không thể chối cãi và nhiều người đã công khai lên án. Nhưng, một tội ác khủng khiếp mà hậu quả của nó chưa biết bao giờ chấm dứt, đó là Hồ sử dụng tập đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn phá tan truyền thống nhân ái, liêm chính, hỷ xả của nhân dân Việt Nam.
Nhìn vào bức tranh xã hội Việt Nam hiện nay, dù là đã bị sàng lọc qua ngòi bút của chính nhân sự của ngụy quyền Hà-nội, thì thật là khủng khiếp. Tham nhũng, đĩ điếm, nếp sống vô luân, vô liêm sỉ, cơ hội, mánh mung v.v… không chỉ ở cái như xưa kia gọi là “tầng lớp hạ lưu”, mà nó thành lối sống của ngay chính tập đoàn thống trị, tầng lớp trí thức cho đến cả các hội đoàn tôn giáo (quốc doanh), cả thành thị, cả nông thôn, cả miền núi và cũng đang rục rịch ra hoa kết trái ngay trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại!!!
Một vài ngòi bút ở hải ngoại đã và đang viết sách chửi cả dân tộc Việt Nam, y như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, chửi cả làng Vũ-đại vậy. Và từ đó thì Chí Phèo nổi tiếng có thể nói là hạng nhất của làng Vũ-đại. Trong khi đó, những người bình thường, hiền hòa, an phận không muốn nổi danh – dù thơm hay thối – vẫn bốn mùa chăm lo cày cấy; vẫn đều đặn tiếng chuông nhà thờ, tiếng chuông chùa. Và, khi có giặc thì cũng góp máu xương giữ làng, giữ nước. Có nghĩa là, đứng ở góc độ người dân (không muốn chơi trội, không có máu bon chen, cơ hội để cố ngoi lên làm lãnh tụ) trong đó có cả Thị Nở, thì làng Vũ-đại vẫn là cái gì đó thân thương quyện vào máu thịt, quyện vào từng hơi thở. Chỉ có duy nhất Chí Phèo phải mượn rượu để đủ can đảm chửi đổng cả cha, cả mẹ, cả trời, cả đất và cuối cùng là cả làng Vũ-đại!
Sự tồn tại của dân tộc Việt Nam đến tận ngày nay chẳng lẽ là do “thiếu tự hào dân tộc”, “đố kỵ ghen ghét nhau, “tôn thờ bạo lực và ác độc đối với nhau” và v.v… Người có nhận xét và sử dụng chữ nghĩa đó chính là me-xừ Nguyễn gia Kiểng với cái tên cuốn sách cũng đặt “lộn tùng phèo” là “Tổ quốc ăn năn”. Lá gan to như vậy, phải ra đến hải ngoại mới dám lớn lối, còn lúc trong vòng kiềm tỏa của mafia đỏ thì nó co lại có phần còn nhỏ hơn gan muỗi. Có lẽ cái tâm lý ấy dẫn dắt nên bây giờ nó nổ tung ra.
Nêu lên cái hiện tượng “Âu dương Phong luyện chưởng” trong làng viết ở hải ngoại, để thấy đấy cũng là nạn nhân của sự phá hoại các giá trị tinh thần của Việt Nam do tên đại gian, đại ác Hồ chí Minh thực hiện, còn hệ lụy đến nay và ra cả hải ngoại!
Trong tình hình hiện nay, nhiều ngòi bút bị mất phương hướng nên bày ra cái trò “bát quái trận đồ”, mà tập đoàn mafia đỏ cố tình cổ võ và chỉ đạo, để bút mực, công sức ở hải ngoại phí phạm vào cái trò tranh luận “kiểu lá diêu bông là cái gì” mà quên rằng chúng ta chỉ có một cách duy nhất, một khả năng trội hẳn là dùng ngòi bút để vạch rõ tội ác của tập đoàn Việt gian bán nước Hồ chí Minh mà điểm quan trọng nhất là chính tên Việt gian Hồ chí Minh!!!
Nhân dân trong nước, nhất là nông dân đã bắt đầu vùng lên, lan rộng cả ba miền Trung, Nam và Bắc Việt Nam. Những nơi được coi là “hang ổ của cách mạng mafia đỏ” lại là nơi mâu thuẫn gay gắt nhất như Thanh-hóa, Thái-bình, Bến-tre v.v… Nhưng chỉ đến thế thì chững lại.
Tại sao vậy?
- Tất nhiên là bị ngụy quyền cộng sản Hà-nội dùng mọi âm mưu vừa đàn áp, vừa dụ khị.
- Tại sao chúng lại dụ khị được?
Chính nhờ cái bóng ma của Hồ chí Minh vậy!!!
Nhân dân đã bị nhồi nhét từ nhiều năm vào đầu những “huyền thoại về Hồ chí Minh” do chính hắn tạo dựng ra; do bộ máy trí nô cung đình của hắn tô vẽ; do những cây bút người nước ngoài thiếu thông tin trung thực và cũng vô trách nhiệm nữa. Và nguy hiểm hơn nữa là do những cây bút, hiện nay đang được xếp vào loại chống đối, làm cho người dân tin rằng họ khổ là do “cán bộ” làm sai đường lối của Hồ. Vì thế, người dân hy vọng sẽ có sự sửa sai để thi hành đúng tư tưởng của Hồ là cái bánh vẽ khiến nhiều người trong họ đã dành cả cuộc đời hoặc phần lớn cuộc đời tin theo.
Thế là ngọn lửa cách mạng của người dân (nông dân) bị tụi mafia đỏ đương quyền dập tắt có sự tiếp tay của những cây bút đeo nhãn “chống đối”, tiếp tay bằng những “huyền thoại về Hồ chí Minh”.
Bản thân những “huyền thoại về Hồ chí Minh” của vài ngòi bút “chống đối” ở trong nước đã là nấm độc rồi, nó lại được bảo chứng bằng các báo, tạp chí ở hải ngoại mà người dân trong nước mặc nhiên tin tưởng đó là tiếng nói của các tổ chức chống cộng nên ăn những nấm độc đó không chút nghi ngờ.
Sự thiếu thông tin là điều không chấp nhận được của thời đại hiện nay. Nhưng điều cực kỳ nguy hiểm là dư thừa thông tin giả.
Cho nên tập đoàn mafia đỏ ngụy quyền Hà-nội hiện nay ra công ngăn nhiều bài viết tố cáo các tội ác của bọn chúng, nhưng không chặn hoàn toàn. Bởi vì nội dung nhiều bài đã chuyển tải nhiều điều có lợi cho chúng, đặc biệt là việc đề cao tên Việt gian Hồ chí Minh.
Chính vì thế mà đã xảy ra chuyện trái khoáy là những người bị áp bức căng khẩu hiệu “Đả đảo đảng” bên cạnh khẩu hiệu “tư tưởng chủ tịch Hồ chí Minh muôn năm”!!!
Vậy phải làm như thế nào?
Xin nhắc lại công trình của giáo sư Lê Hữu Mục và cộng đồng người Việt hải ngoại, đã chứng minh Hồ chí Minh là tên đạo văn, buộc UNESCO phải hủy việc tổ chức vinh danh hắn là “danh nhân văn hóa thế giới”. Chuyện này đã rõ ràng như vậy mà một cây bút “chống đối” xuất sắc ở trong nước là ông Trần Khuê (một nhà nghiên cứu) vẫn tự hào vì Hồ được Liên Hiệp Quốc vinh danh là “danh nhân văn hóa thế giới” và ông ta đề xướng ra cái gọi là “chủ nghĩa Hồ chí Minh”!!!(?)
Một thí dụ nữa là tướng Trần Độ. Những bài viết của ông Trần Độ có tác dụng tố cáo tội ác của tập đoàn mafia đỏ đương quyền hiện nay, cả trong và ngoài nước. Rõ ràng là có tác động tích cực, khơi dậy được sự bất bình của nhiều người có thâm niên tham gia tổ chức cộng sản (tức mafia đỏ) để hưởng ứng cuộc đấu tranh chống tụi thống trị hiện nay. Nhưng, ông Trần Độ vẫn tự hào về những tấm huy chương của Hồ trao tặng; tự hào về những chức vụ đã được ngụy quyền Hồ chí Minh ban cho; tự hào là “công dân loại 1, loại siêu” như ông tuyên bố. Như thế có nghĩa là đối với ông Trần Độ, họ Hồ vẫn là thần tượng, là chân lý. Ông Trần Độ chưa tính được xem bao nhiêu quân, dân miền Nam đã chết vì “tài cầm quân” của ông, theo lệnh Hồ, vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam; bao nhiêu thanh niên Bắc Việt Nam bị ông lùa vào lửa đạn bom của những người miền Nam Việt Nam chiến đấu tự vệ chống lại đạo quân xâm lược của ông. Chính những suối máu, núi xương và thác nước mắt của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng được cô đọng thành những tấm huân chương trên ngực ông và những ngôi sao cấp tướng của ngụy quân cộng sản. ở cương vị của ông, với trình độ lý luận của ông, có thể nào ông không hiểu những âm mưu thâm độc Việt gian của họ Hồ và cái tổ chức mafia đỏ của hắn. Về vị trí trong bộ máy ngụy quyền Hồ chí Minh, ông Nguyễn Hộ chưa bằng ông, nhưng ông ấy đã có đủ thông tin hơn ông để nhận đúng diện mạo thực của họ Hồ và cái tập đoàn bán nước của hắn nên ông Nguyễn Hộ đã có một thái độ vừa anh hùng vừa trung thực vừa có trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Hộ đã tự chặt bỏ hơn nửa thế kỷ cuộc đời, giai đoạn xanh tươi nhất, vì nó đã bị nọc độc của con hổ mang bành Hồ chí Minh. Ông tự ý ra khỏi đảng mafia. Còn ông Trần Độ phải chờ bị đuổi khỏi “đảng” mà vẫn không nỡ rời.
Nếu ông Trần Độ kể cho mọi người (nhất là tuổi trẻ) biết ông và thế hệ của ông đã bị họ Hồ và cái bánh vẽ “chủ nghĩa cộng sản” lừa đảo, để hai tay ông nhuốm máu chính đồng bào mình, hai tay chỉ huy phá hoại chính tài sản cả vật chất cả tinh thần của nhân dân, đất nước Việt Nam như thế nào thì chính là ông đã tự gột rửa được hết sai lầm và càng được trân trọng, được ghi ơn.
Cùng góp phần giải quyết công việc nội bộ của dân tộc của đất nước Việt Nam thì càng cần minh định trắng, đen, sai, đúng.
Hết lòng ủng hộ, chân thành ủng hộ cuộc bút chiến của các ông Trần Khuê, Trần Độ v.v… đấu tranh với tập đoàn Việt gian Nông đức Mạnh hiện nay, nhưng không được lờ đi những cái mơ hồ, sai sự thực của các ông ấy. Bởi không minh bạch chuyện này, cứ đổ lỗi là việc vạch ra những sự thật lúc này làm ảnh hưởng xấu đến việc đoàn kết các lực lượng “chống cộng” hiện nay, sẽ không chỉ tác hại trước mắt mà cả lâu dài. Vì không phản đối nghĩa là chấp nhận.
Nếu chấp nhận cái giai đoạn ông Trần Độ xua ngụy quân cộng sản xâm lược miền Nam Việt Nam, gây thương vong cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bắn giết nhân dân miền Nam Việt Nam, phá hoại làng mạc, thành thị và nếp sống của miền Nam Việt Nam không phải là trọng tội thì chẳng hóa ra những liệt sỹ QLVNCH, những thương phế binh của QLVNCH, những bà mẹ, trẻ em miền Nam Việt Nam v.v… bị bắn giết và sau tháng 4-1975, hàng triệu quân, dân, cán, chính của miền Nam Việt Nam bị tù đày, chết cả vài chục ngàn; hàng triệu gia đình bị đuổi đi lên miền núi hoang hóa cho chết dần chết mòn cả tinh thần, cả thân xác; hàng triệu người phải bỏ nước ra đi mà ít nhất cũng có cả 300 ngàn người nằm dưới biển Đông v.v… là không có ý nghĩa chăng?
Ông Trần Độ là người có công lớn với ngụy quyền Hồ chí Minh. Nhưng cái công đó càng lớn bao nhiêu thì tội ác đối với nhân dân cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam càng lớn bấy nhiêu.
Ông Trần Độ vẫn tự hào về những công lao đó. Ủng hộ việc ông chỉ trích trích ngụy quyền Hà-nội hiện nay là vấn đề chấp nhận được. Nhưng nếu cố tình quên việc làm quá khứ của ông ta thì sự tuẩn tiết của những anh hùng liệt sỹ QLVNCH như các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ; Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn Văn Long v.v… và những mất mát của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam do cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam của Hồ phát động sẽ giải thích như thế nào? Là đúng hay là sai!!!
Chẳng biết do thiếu thông tin hay vì một nguyên nhân bí ẩn nào đó (kiểu ném đá giấu tay) mà ở hải ngoại hiện nay có tình trạng khó hiểu: Vinh danh loạn cào cào. Ông Vũ đình Huỳnh mà cũng được nhắc đến còn nhiều hơn cả Tướng Nguyễn Khoa Nam, Anh Trần Văn Bá v.v… Có thể khẳng định rằng ông Vũ đình Huỳnh chẳng có chút công trạng nào với dân với nước.
Là một người công giáo, ông bỏ đạo đi theo “cộng sản”. ở giai đoạn đó, động cơ đi hoạt động của ông chắc chắn là muốn chống thực dân Pháp, nghĩa là có yêu nước. Như hàng ngàn hàng vạn thanh niên Việt Nam khác. Năm 1945, ông được đưa làm thư ký cho họ Hồ. Khi kháng chiến, ông được cho làm vụ trưởng vụ lễ tân bộ ngoại giao. Đó là chức vụ trời ơi, đất hỡi vì lúc ấy có sứ quán nào đâu. Đến khi Nga-xô và Trung cộng công nhân và lập sứ quán, thì bọn chúng chủ yếu tự lo liệu lấy. Năm 1954 về Hà-nội thì ngoài sứ quán Nga-xô và Trung cộng thì có thêm ủy ban quốc tế giám sát đình chiến, với Canada, Ba-lan và Ấn-độ. Nhưng cái vụ lễ tân đâu có gì quan trọng như đề ra chính sách đối ngoại hay giao dịch gì. Việc của ông Vũ đình Huỳnh là lo những bữa tiệc, lo người phiên dịch, lo xe đưa đón, lo sắp xếp chỗ ngồi theo chức vụ của khách. Ông Huỳnh là một lão thành “cộng sản” chứ không phải là một cán bộ quan trọng. Ông bị “cộng sản” bỏ tù vì nằm trong “vụ án xét lại chống đảng”. Nếu cái gọi là “chống đảng” là có thật thì chỉ có nghĩa ông đi tù vì  “đảng” của ông không thi hành đúng điều lệ “đảng”. Nghĩa là khi ông “bảo lưu ý kiến” về việc không tán thành nghị quyết 9, đúng “với điều lệ đảng”, thì ông bị đi tù. Tuy ở trong”đảng” thâm niên nhưng ông vẫn chẳng hiểu gì về “đảng và bác Hồ” của ông nên ông vẫn dại dột tin vào điều lệ, hệt như bây giờ mấy người còn tin vào hiến pháp của ngụy quyền Hà-nội vậy. Ngay việc “chống nghị quyết 9” thì cũng chỉ là muốn Việt Nam đi vào quỹ đạo Nga-xô, nghĩa là làm nô lệ cho Nga-xô chứ có phải đòi hỏi cơm ăn, áo mặc cho dân, đòi hỏi thực thi dân chủ cho dân và v.v… đâu. Vậy nên ở trong nước đề cao ông Vũ đình Huỳnh đã là sự vô lý, thế mà ở hải ngoại cũng đề cao ông ấy nữa thì thật là không biết phải nói như thế nào!!!
Ngoài ông Nguyễn Hộ và mấy người trong nhóm của ông thì phải kể đến những người dũng cảm dám vì dân chủ và tự do lên tiếng, sau khi được tận mắt thấy miền Nam Việt Nam, mà Sài-gòn là tượng trưng cho mầm dân chủ, tự do và phồn vinh. Đó là nhà viết kịch bản sân khấu Lưu quang Vũ; nhà thơ Bùi minh Quốc; nhà văn nữ Dương thu Hương; phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu); nhà thơ Hữu Loan; nhà văn Phùng Quán; nhà báo Phùng gia Lộc; nhà thơ Trần Dần; ông Nguyễn đình Huy; bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… Nhiều người nổi tiếng trong phong trào “nhân văn – giai phẩm” hụt hơi trong cuộc chạy marathon đã bỏ cuộc hoặc ngã ngựa; một số giữ được trọn vẹn tấm lòng kẻ sỹ cho đến chết như Quang Dũng, Bùi quang Đoài v.v… Một số vì còn sống sót trong “vụ án xét lại chống đảng” dựa vào khí thế của những người nói trên đi tiên phong, đã được sự ủng hộ và chỗ dựa vững chắc là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, làm chiếc loa đánh động dư luận quốc tế rất hiệu quả, bấy giờ mới góp sức vạch tội ngụy quyền Hà-nội hiện nay. Cũng từ đó, dần dần có thêm nhiều lão thành “cộng sản” ngay thẳng, có cuộc sống gần dân hoặc trở lại làm dân tham gia.
Nhưng, cái vốn quý nhất cần được bảo vệ, ủng hộ, khuyến khích là lực lượng trẻ, tiêu biểu là luật sư Lê chí Quang, thương gia Nguyễn khắc Toàn, nhà báo Nguyễn vũ Bình… Những cái đầu tàu này sẽ lôi kéo tuổi trẻ trong nước nhập cuộc.
Nếu không đề cao tinh thần trách nhiệm khi đưa tin, cứ bỏ tuốt luốt tất cả chung một rọ, có lẽ đến lúc nào đó, tên khát máu Nguyễn hà Phan cũng sẽ được đề cao như là nhân vật “đấu tranh cho dân chủ”, vì cách đây vài năm cuộc đấu đá nội bộ mafia đỏ khiến Nguyễn hà Phan bị lột chức ủy viên chính bộ mafia đỏ.
Rồi nữa, nếu Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Nguyễn văn Trấn v.v… được đề cao như là một loại “yêu nước” thì chắc những kẻ ngã ngựa trong đấu đá nội bộ bọn mafia đỏ như Tố Hữu, Nguyễn chí Thanh, Trần Phương, Trần Quỳnh, Cao sĩ Kiêm v.v… cũng sẽ lần lượt được đề cao?!!!
Cách đây một năm thôi, ông Trần Khuê, cây bút chống đối trong nước còn “ca ngợi”, “trích dẫn” lời Lê khả Phiêu mà không thấy rằng hắn đang học múa lại bài võ của họ Hồ theo kiểu “voi đú chuột chù đú theo”, nghĩa là nói thì ra vẻ lắm, mà làm thì lại nâng tên trùm tham nhũng Phạm thế Duyệt lên ngay bên hắn, ở vị trí thứ hai!!! Ngay sắc sảo như nhà văn Dương thu Hương cũng trật lất khi nhận xét về tên con hoang Nông đức Mạnh!
Nói chung, cộng đồng người Việt ở hải ngoại được mặc nhiên thừa nhận là cái mộc bảo chứng “mác chống đối” cho những cây bút chống đối ở trong nước. Nhưng nói riêng, vẫn có những cá nhân hoặc vài ba nhóm nào đấy thuộc loại “phi điểu phi thú”. Xưa “chống cộng” hời hợt, nay “chống cộng” với lập trường mơ hồ, giả tỉnh giả mê ăn tiền. Xin đưa một thí dụ cụ thể: Võ nguyên Giáp, đại tướng ngụy quân cộng sản, bị đồng bọn cho về vườn, nay bày đặt viết hồi ký. Ấy thế mà ở hải ngoại đã có ngòi bút nâng bi rồi. Ca ngợi “thịnh tình của đại tướng Võ nguyên Giáp với văn nghệ” là ân cần trích dẫn: “Một chiến sỹ tài hoa trong đoàn quân Tây tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng”, đã có những câu thơ:
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà-nội dáng kiều thơm
.
Rồi chợt nhớ rằng năm 1956, Quang Dũng bị Tố Hữu phê phán bài thơ “Tây tiến” đó và bị đánh không ngóc đầu lên được, không được sáng tác cho đến chết! (Xin lưu ý bạn đọc rằng, Quang Dũng giỏi cả thơ, văn, họa và cả võ nữa). Cũng năm 1956 đó thì Võ nguyên Giáp đang ở đỉnh cao của vinh quang. Vậy mà Giáp có thèm biết đến Quang Dũng là cái gì đâu. Còn sau năm 1970, Giáp ở thế lép vế đến mức Phạm huy Thông còn dám cắm cho Giáp một cặp sừng, vậy mà Giáp dám đưa tay đỡ cho tên trung tá, bác sỹ riêng của Giáp, được về giữ chức giám đốc sở y tế Hà-nội, can tội dùng quyền cưỡng bức một nữ y tá trẻ ở bệnh viện St. Paul (Hà-nội) phải hiến thân cho hắn. Nhờ Giáp can thiệp, tên trung tá vẫn nguyên chức, chỉ có cô y tá bị đuổi việc.
Chuyện rành rành như thế, mà “ngòi bút nâng bi” cố bào chữa cho Giáp rằng: “Ông đại tướng không có thẩm quyền gì trong việc phê phán văn học”.
Viết ngu đến như thế mà cũng dám cầm bút! Vậy trong hồi ký, Giáp trích bốn câu thơ trên của Quang Dũng và khen, là đang làm cái gì? Có phải phê phán văn học không?
Lý luận kiểu đó nên mới dám viết về việc trưa ngày 30-4-1975, tên nằm vùng Trịnh công Sơn đã ôm đàn lên đài phát thanh của ngụy quân cộng sản hát bài hắn sáng tác, mang tên “nối vòng tay lớn”, rằng: “Thật ra anh có hát hay không hát thì chế độ VNCH cũng tan rã”!!!
Chính những ngòi bút “thùng rỗng kêu to”, có căn “nịnh bợ” đó, đã trộn lẫn thật giả, tô hồng, bóp méo làm nhiễu loạn thông tin, phí giấy phí mực, công sức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Rồi sợ mọi người biết tẩy của Giáp là thằng hèn, tận sau khi Quang Dũng đã về trời từ lâu, và chuyện “nhân văn – giai phẩm” đã thành cổ tích, Giáp mới lưu manh đưa Quang Dũng vào “đánh bóng” cho tập hồi ký, hòng lừa thế hệ trẻ, “ngòi bút nịnh ở Paris” cố công bào chữa hộ “ông không phải là người đãi bôi, và ở địa vị, tư thế, tuổi tác ông, không việc gì phải đãi bôi.” Ghê không! Giọng lưỡi hệt vệ sỹ của Giáp.
 “Văn là người”, đọc những dòng trên có thể biết đó là hạng người như thế nào!!!
Cho nên cần cẩn thận khi đọc, khi đề cao những nhân vật chống đối trong nước. Đồng thời nên vô hiệu hóa những ngòi bút bẩn, xin cơm thừa canh cặn của mafia đỏ, đang múa may ở hải ngoại.
Việc nâng bi, vinh danh ồn ào bộ mặt đại Việt gian như Hồ, bộ mặt đao phủ Võ nguyên Giáp, Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn v.v…; những bộ mặt trí nô cung đình mafia đỏ Cù huy Cận, Xuân Diệu, Hoài Thanh; bộ mặt mật vụ, phản bội “xanh vỏ đỏ lòng” Trịnh công Sơn; cho đến Nguyễn Duy, kẻ đi đâu cũng đọc bài thơ hắn sáng tác, đại ý trong khi ngụy quân cộng sản vào xâm lăng miền Nam Việt Nam, hắn bị một “tên biệt động quân” bắn, chút xíu hắn bị bể sọ. Hắn cầm súng định bắn lại, nhưng rồi hắn chỉ đuổi để bắt sống (vì nhân đạo). Vào nhà người ta ăn cướp mà phách lối thế đấy!!! Vậy mà, một số “phóng viên” ở hải ngoại đã phỏng vấn cho hắn ăn nói mất dạy như vậy mà giả mù, giả điếc đề cao! Thật khó hiểu!!!
Thử đặt câu hỏi, về vai vế Võ nguyên Giáp còn trên Nguyễn chí Thanh, vậy mà tại sao Giáp lại chịu để Thanh “nhéo tai, bóp mũi” như thế? Về sau này, các đàn em cấp dưới của Giáp cũng “khinh” Giáp?
Bây giờ đã có nhiều bằng chứng để lý giải chuyện đó. Một là, Giáp khi còn đi học, tham gia biểu tình bị thực dân Pháp bắt và kết án tù 18 tháng. Nhưng mới ở có ba tháng thì được tha lại còn tiếp tục đi học, vì Giáp đã “đầu hàng”, đã làm đơn xin “mẫu quốc” cho học để phục vụ “mẫu quốc” và vì thế được tên chánh mật thám của thực dân Pháp ở Đông-dương lúc ấy, là Marti, nhận làm con nuôi. Hai là, có thể đi đến kết luận là khi Hồ bảo Giáp bỏ học trường võ bị Hoàng-phố (Tàu) về giúp Phùng chí Kiên trong trung đội vũ trang tuyên truyền, thì, dù là theo gợi ý của Hồ, nhưng Giáp là kẻ trực tiếp bán Phùng chí Kiên cho mật thám Pháp. Còn chuyện bê bối, đĩ bợm, lãng phí quan cách v.v… của Giáp thì khỏi nói, đúng là “học trò giỏi” của họ Hồ. Và, tài cầm quân của Giáp thì: chiến dịch biên giới 1950, có đại tướng Trần Canh của Trung cộng chỉ huy giùm; trận Điện-biên-phủ có nguyên soái Vi quốc Thanh, đại tướng Trần Canh và thiếu tướng La quý Ba của Trung cộng chỉ huy hộ. Riêng trận Vĩnh-yên 1951, Giáp đích thân chỉ huy thì giống như Tết Mậu Thân (1968) sau này vậy. Đấy chính là những hòn sỏi trong miệng Giáp, khiến Giáp lúng búng, không dám đụng. Và, vì thế, dù Giáp có công phò tá Hồ nhưng Hồ vẫn không thể ban cho Giáp cái lon “nguyên soái”.
Thời kỳ phong trào “nhân văn – giai phẩm”, Võ nguyên Giáp đang là ngôi sao sáng và cũng như Phạm văn Đồng, được mấy anh “nâng bi” ca ngợi là người yêu quý trí thức. Thế nhưng Giáp không hề “an ủi” một ai, chứ đâu cần phải che chở, từ Hoàng Cầm, Trần Dần đến Quang Dũng, tuy tất cả đều ở dưới quyền Giáp. Cũng như thế, các đại tá chánh văn phòng; cục trưởng quân báo của Giáp không hề được Giáp “minh oan” khi họ bị Nguyễn chí Thanh cho bắt.
Tại sao? Bởi Giáp biết rằng tất cả những việc ấy đều do lệnh của Hồ, chứ không phải “không có thẩm quyền gì trong phê phán văn học” như nhà báo “thùng rỗng” ở Paris đã viết.
Cái sự ngậm miệng của Giáp cho đến tận năm 2000 mới dám nhớ tí chút đến Nguyễn Tuân, Quang Dũng, trong hồi ký, mà lại nhắc đến những húy kỵ của thời đánh “nhân văn – giai phẩm”, như bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng, như “Tùy bút kháng chiến” của Nguyễn Tuân, rõ ràng là thuở đó Giáp phải bị “sợ đến cấm khẩu” luôn. Kẻ đó, ngoài Hồ, làm Giáp sợ còn là ai nữa?!!!
Cho nên phải thấy Hồ mới là “đầu não” gây nên tội ác về cái gọi là đánh “nhân văn – giai phẩm”. Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Tố Hữu chỉ là những tên đao phủ thừa hành trong vụ án “nhân văn – giai phẩm mà thôi.
Lại nữa, thử đặt câu hỏi: Tại sao Võ nguyên Giáp cũng né không đả động đến cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng”, mà trong đó có biết bao đàn em, trong ngụy quân cộng sản của Giáp dính trấu, như tướng Đặng kim Giang, tướng Nguyễn văn Vịnh, tướng Lê Liêm, các đại tá Lê vinh Quốc, Đỗ đức Kiên, trung tá Văn Doãn v.v…
Câu trả lời cũng giống như trên, nghĩa là Võ nguyên Giáp biết rằng Lê đức Thọ chỉ thừa hành khẩu lệnh của Hồ để trừng trị nhóm “chống nghị quyết 9 xin bảo lưu ý kiến”, bị chụp cho cái nón cối “vụ án xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”.
Vì thế, những nạn nhân trong vụ “nhân văn – giai phẩm” cũng giống hệt những người bị quy tội “xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”, khi bị bắt thì kêu oan mà chẳng đi tới đâu. Đến khi được tha thì cũng mập mập mờ mờ.Mấy đời “tổng bí thư” đều tránh né nói rõ nguyên nhân, chỉ muốn cho chìm xuồng trong yên lặng!
Một câu hỏi nữa lại được đặt ra: Tại sao người ta lại kết tội Lê đức Thọ và Lê Duẩn, thậm chí người ta còn “chứng minh” rằng họ Hồ cũng là nạn nhân của sự lộng quyền của hai anh chàng họ Lê ở trên đã có lý giải, nay xin nói rõ hơn.
Không phải tất cả đều mơ hồ về sự nhúng tay của Hồ mà Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ. Bởi vì người ta vẫn tự hào cái quá khứ kháng chiến chống Pháp, mà không nhìn ra hoặc không đủ can đảm để nhìn ra rằng cái gọi là kháng chiến chống Pháp từ đầu 1952 thực tế chỉ là nằm trong lịch trình thay thầy đổi chủ. Nghĩa là thay thực dân Pháp bằng thực dân đỏ Nga-xô, mà kết quả đã cho thấy thực dân đỏ còn tàn bạo gấp vạn lần thực dân Pháp. Một điều rõ ràng nhất, là nhiều trí thức do Pháp đào tạo đã trở thành những người yêu nước nồng nàn như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Trần Trọng Kim, bác sỹ Trần Văn Lai v.v… Còn trí thức do “thực dân đỏ” (cả Nga-xô và Trung cộng) đào tạo thì đều thành lũ gia nô hay nói như Dương thu Hương là “trí thức mang trái tim chó”, hay nói như Mao trạch Đông là “không bằng cục cứt”. Và ngay những trí thức của Pháp đào tạo, đã có những lúc sống đẹp và hào hùng, khi kết hợp với thực dân đỏ cũng thành hèn, thành gia nô. Những điển hình là Phan Anh, Huỳnh văn Tiểng, Mai văn Bộ, Nguyễn văn Huyên, Hoàng minh Giám, Kha vạng Cân, Trần đăng Khoa, Nghiêm xuân Yêm, bác sỹ Phạm khắc Quảng, bác sỹ Trần duy Hưng, giáo sư Hoàng xuân Nhị, Bùi Kỷ, Phạm văn Bạch, luật sư Nguyễn thành Vĩnh và v.v… nhiều lắm, gần như trọn vẹn những ai chót mắc vào lưới nhện của Hồ (đại diện của thực dân đỏ).
Nếu thẳng thắn nhìn vào bộ mặt Việt gian của Hồ thì có nghĩa là phải chặt bỏ hết cả cuộc đời, phải thừa nhận tội đồng lõa với Hồ. Điều này không phải dễ dàng. Phải có dũng cảm như ông Nguyễn Hộ mới dám đoạn tuyệt với cái quá khứ đó.
Cho nên (dù là nạn nhân của Hồ) người ta vẫn phải đề cao Hồ, cố nhắm mắt bỏ qua mọi bằng chứng tội ác rành rành của Hồ mà họ có phần góp sức, để tấn công vào Lê Duẩn và Lê đức Thọ, cũng như tụi đầu nậu sau này. Họ không thấy rằng hầu hết nhân dân Việt Nam bị Hồ lừa, ở các mức độ khác nhau. Cho nên bị lừa nhiều hay bị lừa ít chỉ biểu thị là nạn nhân nhiều hay nạn nhân ít trong các hành động tội ác của Hồ mà thôi. Sau này khi nhắm mắt xuôi tay, có muốn nói, muốn viết cũng chẳng được. Lịch sử sẽ phán xét công bằng và sáng suốt.
Nhưng, cái tai hại cực kỳ nghiêm trọng cho toàn dân Việt Nam lúc này lại chính là việc tiếp tay với tập đoàn mafia đỏ đương quyền đề cao họ Hồ.
Việc làm này, như trên đã phân tích, đã và sẽ làm chững lại phong trào vùng lên của nông dân, vì họ hy vọng sẽ có sửa sai để đi đúng con đường của Hồ. Bọn cơ hội đi hai hàng ở hải ngoại lại làm nhiễu thông tin để sức mạnh dư luận quốc tế bị lái lệch hướng. Còn tập đoàn mafia đỏ cầm quyền, cứ núp sau cái thây ma của họ Hồ (mà ngay những kẻ chống đối chúng và một số cây bút hải ngoại vẫn đề cao; một số báo, tạp chí giúp chuyển tải những sự đề cao Hồ có tính xuyên tạc đó) để “đại hội này sửa sai”, rồi “lại đại hội sau sửa sai” và cứ thế, người dân cứ việc chờ ăn bánh vẽ, còn chúng thay nhau làm “tổng bí thư”. Thí dụ cụ thể: Đỗ Mười nghe mãi câu chuyện tham nhũng của Phạm thế Duyệt, Nguyễn công Tạn, Võ văn Kiệt v.v… Mười lui cho Lê khả Phiêu, ấy thế mà Phạm thế Duyệt lại được Phiêu nâng lên thành nhân vật số 2; và băng của Phiêu xuất hiện một cây tham nhũng mới: tên trung tướng Phạm văn Trà. Đến khi Phiêu lui thì lại đến Nông đức Mạnh lên, những bộ mặt tham nhũng cũ không bị đụng cọng lông chân như Kiệt, Tạn, Duyệt, Cao sĩ Kiêm, Nguyễn tấn Dũng, Trương tấn Sang, Lê xuân Tùng v.v… Riêng Phạm thế Duyệt, không nằm trong trung ương mafia đỏ nữa, nhưng vẫn ngồi cái ghế loại cha bố của xã hội chủ nghĩa đỏ. Đó là Duyệt giữ chức chủ tịch đoàn chủ tịch Mặt trận tổ quốc trung ương!!! Và, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao Việt Nam (mà cũng là cả thế giới), nhân vật loại 2 của Bắc triều là Lý Bằng đến Việt Nam, mà cả ba đời “tổng bí thư mafia đỏ Việt Nam” ra sân bay quỳ lạy “sứ thiên triều”. Đó là ba tên Việt gian trong băng đảng của họ Hồ, lần lượt là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh, những đứa bán đất đai và biển của Việt Nam cho ba Tàu cộng, đúng như Hồ đã làm khi hắn còn chưa bị bắt giam ở hỏa ngục (âm ty).
Xin hỏi các cây bút “chống đối” ở trong nước, đã dũng cảm tố giác tội bán nước của bè lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Phan văn Khải, Trần đức Lương, Nguyễn văn An v.v… sao không thấy rằng chúng đi đúng đường lối của Hồ đấy. Sao kết tội chúng mà không kết tội Hồ?
Cái chưa bao giờ hiện hữu là “chủ nghĩa Hồ chí Minh” thì nhìn ra và mô tả cứ như mấy nhà văn, nha thơ ba Tàu ngày xưa viết về “Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện”; còn tội ác bán nước, giết dân, đụ bậy, tham nhũng, lãng phí, đạo văn của Hồ thì còn bút tích; còn số liệu, tên người; còn nhân chứng; còn chứng cớ, hình ảnh; còn bằng chứng thì lại giả vờ hoa mắt không chịu nhìn ra!!!
Và, một điều trái khoáy nữa là chính Hồ, một thằng cha dám làm mọi việc “Trời không dung, Đất không tha”; một thằng tham danh, tham quyền, bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích; một thằng tự đề cao một cách lố bịch và vô liêm sỉ dám phét lác là sẽ “”đưa năm châu đến đại đồng”, mà bản thân hắn không dám nhận mình đẻ ra “chủ nghĩa” gì. Thế mà có người lại nhìn ra “dê đực của Tô Vũ đẻ dê con”. Thật là đại tài nhưng lại đại tai cho nhân dân Việt Nam, nói chung!!!


Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

Việt Thường

Bài 15.

Nếu điểm lại kỹ càng những việc Hồ đã làm, từ khi hắn lấy cái tên Nga là Line, trở thành mật vụ cho Nga-xô, cho đến ngày hắn chết, thì mới thấy cái lưu manh của Hồ trong nội dung di chúc của hắn.
Hồ soạn mấy cái di chúc để đệ tử tiện sử dụng tùy thời lúc hắn chết. Nhưng tựu trung vẫn chỉ là căn dặn đệ tử:
1. Phải coi việc bảo vệ mẫu quốc là trọng tâm hoạt động của toàn tổ chức mafia đỏ Việt Nam
Cái nội dung của nhiệm vụ trung tâm nói trên có nghĩa là phải tiếp tục thực hiện chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ, tức xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Sau nữa, có thể mở rộng ra cả vùng Đông-nam-á. Muốn thế, về đối nội phải tiếp tục chuyên chính, nghĩa là dùng bạo lực cưỡng bức toàn dân theo lệnh của tụi chóp bu của tổ chức mafia đỏ Việt Nam. Phải hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, nghĩa là phải tiếp tục vô sản hóa toàn dân, biến toàn dân thành nô lệ kiểu mới, thành tài sản của tổ chức mafia đỏ. Có thế mới có điều kiện thực thi nhiệm vụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ.
Cái mà Hồ nói đến là “chủ nghĩa quốc tế vô sản” là thứ màu mè che đậy nội dung của “chủ nghĩa thực dân đỏ”. ở Paris, có nhà luật học đã cố tình quay lưng với thực tế, làm trò xiếc tung hứng chữ nghĩa để viết rằng “Hồ là phe quốc tế”, còn những Nguyễn Thái Học, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu v.v… là “phe dân tộc”!!!
Tổ tiên ta đã dạy: “Đừng buôn chung với Đức Ông”. Cho nên nước lớn thì dùng cái mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che bộ mặt thật là thực dân. Còn mấy tên làm chính trị của nước nhỏ thì đeo mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che đậy bộ mặt Việt gian, dựa vào nước lớn để giữ vững quyền lợi cá nhân và phe nhóm mà thôi.
Cuộc chiến tranh họ Hồ phát động ở hai miền Bắc và Nam Việt Nam có lợi cho ai, thật rõ ràng. Còn nhân dân và đất nước Việt Nam bị mất đủ mọi thứ, cả tinh thần, cả vật chất.
Bè lũ Lê Duẩn đi tiếp con đường phản dân hại nước của Hồ, càng dìm nhân dân và đất nước Việt Nam vào đầm lầy, ngõ cụt. Gây chiến sang Căm-bốt, chiến tranh với Trung cộng, và để Nga-xô hưởng không cảng Cam-ranh chẳng tốn một xu và các mỏ dầu hỏa ở biển Đông thì liên doanh theo kiểu “chủ ăn thịt, chó gặm xương”!
Rồi khi “mẫu quốc đỏ” ngủm củ tỏi, bọn đệ tử của Hồ lại tiếp tục cái sự nghiệp “quốc tế vô sản” của Hồ, quay lại với “anh hai Trung cộng” xin sự che chở bằng dâng đất và biển, hệt như Hồ đã làm trước đây.
2. Bảo vệ sự đoàn kết trong tổ chức mafia đỏ
Khi còn sống, Hồ tạo ra hai băng Lê Duẩn và băng Trường Chinh kình chống nhau, nhằm mục đích không băng nào dám phản lại Hồ. Nhưng khi sắp chết, Hồ biết bọn chúng chỉ chờ Hồ nằm xuống là làm thịt nhau, nên Hồ mới căn dặn bọn chúng phải “đoàn kết” nghĩa là phải biết san sẻ quyền lợi, nhân nhượng để giữ vững quyền lợi “mẫu quốc đỏ” và quyền lợi của chính tổ chức mafia đỏ Hồ chí Minh. Kẻ phát biểu cái ý đó của Hồ chính là Tố Hữu, viết bài thơ ngay sau khi Hồ chết với đại ý rằng: “Nay cha mất rồi, anh em nên cùng nhau chia việc gánh vác”!
Đấy là một lối đãi bôi đểu giả của Hồ với băng Trường Chinh, vì hắn thừa biết là băng Lê Duẩn sẽ thắng thế. Nhưng, mục đích chính của Hồ là để hậu thế vẫn thấy hắn là còn người luôn vì nghĩa lớn, luôn luôn đi theo con đường “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!!!”
3. Tha thuế cho nông dân
Từ cuối năm 1954, do hiệp định Genève về Việt Nam, Hồ đã nắm được quyền cai trị từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc Việt Nam. Hắn nắm quyền cai trị suốt 15 năm trời, chưa bao giờ hắn mở mỏ nói đến giảm thuế, giảm sưu cho dân. Mỗi phong trào hắn phát động là lại đem đến chém, giết, tù đày, đói khổ cho người dân Bắc Việt Nam, đặc biệt là nông dân. Ngay không phải thời gian giáp vụ thì cả miền Bắc Việt Nam đã phải trường kỳ ăn độn; ở nông thôn nhiều nơi chết đói nhưng tuyệt nhiên báo, đài không được đưa tin. Mọi tội lỗi của Hồ và tổ chức mafia đỏ của hắn gây ra cho nhân miền Bắc Việt Nam đều đổ cho “Mỹ-Ngụy”. Và, lũ bút nô ra công bịa các chuyện đói khổ ở miền Nam Việt Nam, để xoa dịu lòng dân. Nào là trong miền Nam, đàn bà con gái phải làm điếm kiếm ăn; gạo thiếu đến mức nhà buôn phải trộn hạt ny-lông vào gạo. Ngay lính Mỹ cũng bị “đói” đến mức phải cưỡi trực thăng đi cướp gạo của nông dân. (những điều này “hư thực ra sao” chắc Lữ Phương không thể chối là không biết!)
Cơ quan khoa học của Hồ được lệnh khuyến khích nhân dân ăn các thứ bá láp, nhưng lại chứng minh ra vẻ rất khoa học. Nào là ốc sên có nhiều đạm; ăn 7kg lá khoai mì cũng bổ tương đương bằng 1kg thịt bò; thịt cóc, nhái đều có nhiều đạm; rồi phổ biến làm “thủy sâm”; me-xừ Lý Ban, bí thư đảng đoàn bộ ngoại thương (thời kỳ Phan Anh làm bộ trưởng và Nguyễn văn Đào làm thứ trưởng), cũng là phái viên của Trung cộng trong trung ương mafia đỏ Việt Nam, thì ra công phổ biến cách nhịn ăn, sáng sớm uống độ 2 lít nước âm ấm. Me-xừ bác sỹ Nguyễn khắc Viện, tuy việc chính là “bịp” quốc tế về tình hình miền Bắc Việt Nam, có máu cơ hội nên hưởng ứng bằng bài báo nghiên cứu về “rau muống” đăng trên tờ Văn Hóa. Rồi nào là ngô bổ hơn gạo v.v… Và ngụy quyền Hồ chí Minh khuyến khích ăn thai nhi và nhau đàn bà đẻ. Và, chuột cống thành phố cũng được coi là nguồn thịt ngon lành.
Biết bao người ngộ độc vì ăn ốc sên, thịt cóc, thịt chuột, có nơi chết cả gia đình. Còn môn thuốc chữa đói của me-xừ Lý Ban cũng làm nhiều người trương bụng lên mà chết.
Những việc đó Hồ đều biết. Ngay cả ở chợ Đồng-xuân (Hà-nội), Hồ cũng hóa trang (nhà nghề gián điệp mà) giả làm một người già có bệnh ra mua tem thịt tiêu chuẩn 150gr một tháng, bị con bé mậu dịch viên bán thịt vứt cho cục xương và nói: “Không có thịt, ăn tạm cục xương này, không thì thôi!” Câu chuyện đó được nối dài thêm vào những “huyền thoại về Hồ”. Còn từ con bé mậu dịch bán thịt, cho đến cửa hàng thịt, ban quản lý chợ v.v… chẳng ai việc gì!!!
Cho nên trước khi chết, Hồ để di chúc mong nông dân được tha thuế lại chỉ là trò tự đánh bóng cố hữu của Hoà, trút cái khó khăn lại cho đệ tử. Nếu chúng “tha thuế” thì đó cũng là lệnh của Hồ; nếu “không tha thuế” thì dân oán chúng mà vẫn ơn Hồ và tiếc vì Hồ đã chết nên “cán bộ” làm sai tâm nguyện của Hồ. Đòn ma giáo này của Hồ còn nhằm phối hợp với ý thứ tư trong di chúc của hắn.
4. Đừng làm ma to, cho Hồ, lãng phí của dân
Một số bồi bút cung đình, một số cây viết người nước ngoài thuộc loại “dễ tính, vô trách nhiệm khi cầm bút” và “óc ít nếp nhăn” cứ tô vẽ thêm vào cho Hồ là giản dị, tiết kiệm v.v… để “huyền thoại về Hồ” càng thêm nhiều điều phét lác.
Trong lịch sử Việt Nam, trải dài hơn 4000 năm, chưa có kẻ nào lãng phí máu xương, tài nguyên của Việt Nam như tên Việt gian Hồ chí Minh. Lê long Đỉnh bất quá giết mấy ông sư. Gióc mía lên đầu cũng chỉ dăm ba người, cho hổ ăn thịt cũng độ chục mạng. Trần thủ Độ có chôn sống cũng chưa đến 100 người thân tộc, sủng thần của nhà Lý. Ngay Gia Long, Minh Mạng cũng giết dân khá nhiều, nhưng cũng chỉ tới số ngàn.
Còn Hồ, chỉ riêng số thanh niên cùng gia đình và bạn bè quen biết của họ, bị Hồ bán cho mật thám Tây năm 1929 cũng đã ở con số hàng ngàn. Báo cáo của Hà huy Tập gửi quốc tế 3 đề ngày 20-4-1935 viết:
“Trước và sau đại hội của đảng, một số đồng chí khi nói chuyện với nhau thường bàn về đồng chí Quốc (tức Hồ). Họ cho rằng Quốc chịu trách nhiệm về việc mật thám bắt hơn một trăm hội viên đoàn thanh niên, bởi vì:
a) Quốc biết rõ Lâm đức Thụ là một tên khiêu khích nhưng vẫn làm việc với hắn.
b) Quốc đã phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên nộp hai bức ảnh, ghi rõ tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, cụ kỵ cùng với tên của từ 2 đến 10 người bạn.
c) ở trong nước, ở Xiêm (Thái-lan) và ở trong tù, người ta vẫn còn bàn tán đến trách nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối.”
Năm 1945, Hồ còn cho lệnh ám sát những người đối lập, các đảng phái không cộng sản, kể cả nhóm troskít, cho đến tín đồ và chức sắc các giáo phái cũng vài chục ngàn. Rồi cải cách ruộng đất của miền Bắc Việt Nam cũng ở con số ngót nghét một triệu, chưa kể các trò ma quái khác, kể cả việc xâm lăng miền Nam Việt Nam!
Khi còn sống, Hồ đã chứng kiến bao sự lãng phí trong các ngày lễ, nào in ảnh màu (trước khi hoàn thành nhà máy in Tiến bộ) ở nước ngoài; nào ảnh dệt của Hồ; tượng lớn tượng nhỏ của Hồ cũng như các thứ huy hiệu mang hình Hồ v.v… cùng với sự lãng phí của các đệ tử của Hồ, có bao giờ thấy hắn trừng phạt ai đâu. Hắn chỉ nêu chung chung lấy cớ siết chặt mọi nhu cầu thiết yếu của dân mà thôi, như ủng hộ “miền Nam”, “anh Trổi chị Quyên” để rồi lính ngụy và thanh niên xung phong tiết kiệm mặc quần áo cũ, trả lại quân phục mới; công nhân thì làm thêm giờ, không đi phép năm; nông dân “xin” đóng thuế vượt mức v.v… và tự túc mỗi năm 3 tháng lương thực đi “lao động nghĩa vụ” (tức làm sưu); công nhân, xã viên hợp tác xã, cán bộ, nhân viên trong các nhà máy, cơ quan cũng phải gánh thêm phần việc của nhau để mỗi năm 3 tháng đi “lao động nông nghiệp”!
Cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam càng ác liệt thì Hồ càng thẳng tay trấn lột nhân dân tàn bạo hơn. Nhà dân bị rỡ làm cầu, làm đường không bồi thường. Các nghĩa trang bị san bằng lấy cớ làm trận địa phòng không. Học sinh mẫu giáo phải đóng tiền “làm hầm” trú ẩn, mà lạ nỗi là hầm cũ còn đó mà cứ mỗi năm hoặc nửa năm lại đóng mới lại. Nhưng, tàn bạo vô lương tâm nhất là Hồ cho tổ chức đám cưới các thương bệnh binh nặng với các nữ thanh niên, nhằm trút gánh nặng toàn bộ cho người phụ nữ nông dân. Vì thế mà xảy ra biết bao vụ vợ giết chồng hoặc tự tử để “thoát nợ đời”.
Tất cả sự lãng phí của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn đã đẩy số phận đa số phụ nữ miền Bắc thành điếm! Muốn vào làm việc ư; muốn được vào biên chế ư; muốn được nhập hộ khẩu ư; muốn được lên lương ư; muốn được đi học hay đi lao động ở nước ngoài ư; muốn vào đại học ư, và v.v…, hàng trăm thứ muốn. Người phụ nữ chỉ cần chấp nhận (nhiều khi không chấp nhận cũng không thể được) mang hiến cái phao câu của mình cho cấp có thẩm quyền (cán bộ tổ chức, cấp ủy mafia đỏ, công an hộ tịch, giám đốc, chủ nhiệm, bộ trưởng, thứ trưởng v.v…). Đâu có phụ nữ là cũng có tình trạng đó, có thể nói là 100%. Vì từ trên Hồ đến Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Tố Hữu, Nguyễn văn Trân, Ung văn Khiêm, Nguyễn Côn, Hoàng Tùng, Trần danh Tuyên, Nguyễn đình Thi, Bảo định Giang, Lưu trọng Lư, Nguyễn tư Thoan, Vũ Đại, Vũ Quang, Nguyễn trọng Vĩnh, Hồng xích Tâm v.v… cho đến cấp cơ sở như tên Phán (đồng hương của Phạm văn Đồng) chỉ là cửa hàng trưởng cửa hàng văn phòng phẩm Tràng Tiền (Hà-nội) mà có 42 nữ nhân viên thì hắn đã “gặm phao câu” của tới 40 nàng kiều!!!
Chuyện hiến thân cho cấp trên phổ biến đến mức, trung tá ngụy quân Hà minh Tuân, nhà văn kiêm giám đốc Nhà xuất bản Văn học phải viết cuốn “Vào đời” để kêu gọi dư luận xã hội. Nhưng kết quả ngụy quyền Hồ chí Minh chẳng những không sửa sai mà còn cất chức và cất bút của nhà văn Hà minh Tuân và bọn chúng cố tình cho tên của ông ta vào lãng quên. Những Nguyễn Khải, Lê Lựu v.v… có thời là đàn em của Hà minh Tuân, nhưng có ai dám nhớ đến nhà văn dũng cảm đó!!!
Ngay cái ngụy quyền mafia đỏ, của Nông đức Mạnh bây giờ, vẫn còn những gương mặt tự hiến phao câu nên đã nhẹ nhõm leo nhanh trên bậc thang quan lại đỏ, như Cù thị Hậu, Nguyễn thị Hằng, Võ thị Thắng, Nguyễn thị Bình (phó chủ tịch nước), Trương thị Mỹ Hoa (phó chủ tịch quốc hội) v.v…!!!
Cù thị Hậu xuất thân từ thợ dệt ở nhà máy dệt Nam-định. Để trở thành chiến sỹ thi đua, đã phải “chiều lòng” từ cấp ủy nhà máy đến tỉnh, rồi cả “phóng viên thường trú của Việt Nam thông tấn xã cho đến ban thi đua bộ công nghiệp nhẹ, ban thư ký tổng công đoàn”. Vì thế mà trở thành đại biểu “cuốc hội”, mỗi lần đi họp thì chủ yếu chờ mua hàng đặc biệt do thương nghiệp phục vụ “cuốc hội”. Đến mức, chính Hồ còn toe toét cười hỏi: “Các cô chú ở thương nghiệp có chuẩn bị nhiều hàng cho đại biểu yên tâm họp không?” Mỗi lần như thế, bác sỹ Trần duy Hưng lại nhanh nhẩu đứng lên hô: “Hồ chủ tịch muôn năm!” Cả hội trường hô theo ầm ĩ khen: “Bác tâm lý thật”!
Đúng vậy, do nghề gián điệp, chỉ điểm nên Hồ rất “tâm lý”. Trong di chúc thì dặn đệ tử tha thuế, dặn đừng làm ma to cỗ lớn, đúng là giản dị thật. Nhưng sự thực là hắn đã nghĩ đến cái “mả” của hắn từ trước 1960.
Khi theo lệnh Hồ, Trường Chinh ký lệnh tập trung cải tạo tất cả những người Hồ cho là không thích hợp cho chế độ thực dân đỏ của Hồ, vào ngày 20-6-1961, thì thực tế đa số đã bị bắt giam từ 1960, cùng lúc với “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Cục lao cải của bộ công an (sau này gọi là cục quản lý trại giam) là đơn vị cục vụ duy nhất có chỉ huy trưởng là cấp tướng: thiếu tướng Lê hữu Qua (ngay vụ tổ chức cũng chỉ là đại tá Hoàng Thao; chánh văn phòng là đại tá Hồng Hà; viện trưởng viện khoa học công an là đại tá Mai văn Mạc). Cái “cục lao cải” quan trọng đến mức phải do cấp tướng chỉ huy vì nó có một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng mà Hồ giao cho Trần quốc Hoàn. Đó là xây hồ Suối Hai ở Ba-vì, là nơi, theo thầy địa lý, có miếng đất đế vương, nhưng phải cải lại một chút vì xưa kia đã bị ba Tàu yểm (hình như thời Cao Biền đô hộ). Cho đủ bộ vì, phải có Hồ Suối Hai để thăng bằng với đỉnh núi Tản. Hồ đích thân lén chôn những chiếc răng của hắn, gọi là có cốt, ở mảnh đất “phát vương” đó. Nhưng hắn “đa nghi” nên chơi trò “năm ăn, năm thua”. Nghĩa là, ngộ nhỡ mảnh đất đó không phát thì nếu chôn cả cái thây của hắn ở đó, có thể có kẻ phá (hắn biết có lắm kẻ thù là nhân dân); còn chôn răng không thôi cũng sợ có thể phát mà cũng có thể không. Vì thế hắn muốn có cái lăng nằm chình ình giữa thủ đô, để chí ít thì cũng như Lê-nin, và cũng sẽ hy vọng là “vinh quang” mãi mãi!
Trong lúc đang chiến tranh, nhân dân còn đói khổ mà lại ghi vào di chúc là xây lăng thì chỉ có kẻ ngu! Hồ chưa bao giờ làm việc gì mà không “thủ đoạn, ma giáo”. Cho nên hắn lại diễn lại vở kịch cũ. Đó là những ngày đầu (sau cuộc chiến bùng nổ ra ngày 19-12-1946) chạy lên Việt-Bắc, Hồ không chịu được mùi thuốc rê, vì hắn chỉ quen hút ngày vài bao thuốc lá thơm Craven A, là thứ chỉ có thể mua được ở Hà-nội, là nơi quân Pháp tạm thời quản lý. Cho nên hễ “vào cuộc họp là Hồ ra công ho”. Và, theo đề nghị của Phạm văn Đồng, “trung ương mafia đỏ” (lúc đó còn chưa công khai) gồm Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Hoàng quốc Việt, Nguyễn Khang, họp và ra nghị quyết bắt buộc Hồ phải hút thuốc thơm Craven A để khỏi ho. Và, tất nhiên Hồ tôn trọng và chấp hành ý “trung ương”. (Điếm thật!!!). Người được giao trách nhiệm lo cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ hút, nghĩa là phải cử người lén vào Hà-nội mua, là Trần dụ Châu, bèn được Hồ cho cái lon đại tá ngụy quân, phụ trách quân nhu.
Lợi dụng việc đó, Trần dụ Châu đã dùng tiền của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, lãng phí vô tội vạ. Thị trấn Thanh-cù (Phú-thọ) là nơi ăn uống xa hoa của thuở đó, chủ yếu là nhân viên dưới quyền Trần dụ Châu. Và, hang ổ của hắn ở Ao-châu (huyện Ấm-thượng, Phú Thọ) thì tiệc tùng thâu đêm. Chính đại biểu quốc hội khóa 1 là giáo sư Đoàn Phú Tứ, đã chứng kiến các vụ việc đó, giáo sư viết thư “hạch tội” họ Hồ. Thế là Hồ cho lệnh tử hình Trần dụ Châu ngay. Hồ đi quả bất ngờ này nên Trần dụ Châu chưa kịp khai báo gì nhiều, và chuyện đến đó là hết, không lôi theo các vụ việc khác như vụ Phạm văn Đồng cưỡng ép một “cháu” học sinh ở miền Nam ra, chẳng hạn. Hồ bèn đặt vào cái ghế chủ nhiệm quân nhu một nhân vật do bề tôi thân cận và trung thành của Hồ là Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ hay anh Cả Đỏ) giới thiệu. Đó là Trần đăng Ninh, được đeo lon thiếu tướng và được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ từ đại hội 2 (1951). Ngoài việc cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ, Trần đăng Ninh còn là kẻ kiếm gái người dân tộc thiểu số cho Hồ chơi. Nạn nhân Nông thị Xuân chính là do Trần đăng Ninh lựa chọn và “làm công tác tư tưởng” trước khi tiến cung!
Việc làm công tâm của đại biểu Quốc hội khóa 1 là Đoàn Phú Tứ càng khiến Hồ nóng lòng ra tay “tiêu diệt âm thầm” Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc hội như đã trình bày ở những phần trên.
Cho nên trong di chúc để công khai với toàn dân và quốc tế thì Hồ đóng trò “thanh liêm”, nhưng bên trong Hồ cho khẩu lệnh khác, vì thế mới có sự nhất trí của chính trị bộ mafia đỏ là xây lăng, ướp xác cho Hồ, dám làm trái di chúc của Hồ khi thây Hồ còn chưa kịp lạnh và đã sẵn sàng đội ngũ chuyên gia ướp xác Nga-xô từ ngàn dặm kịp thời có mặt!
Thật là mọi chuyện rõ như ban ngày. Có mù như sẩm thì cũng sờ bằng tay hay nghe bằng tai được!
Cái lăng của Hồ là một “tội ác tàn bạo” nữa của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn giáng lên đầu nhân dân Việt Nam. Không kể tiền bạc, tài vật, mà nó là kết tinh của bao khối máu dân, bao giọt nước mắt của những người có chồng con chết trong khi chuyên chở gỗ, đá để xây lăng cho hắn, nếu có hứng chắc cũng nhiều như nước ở thác Bản Giốc mà thằng con hoang của Hồ là Nông đức Mạnh vừa dâng cho ba Tàu bành trướng bá quyền.
Hãy thử nghĩ xem, những năm đó, chiến tranh do Hồ phát động xâm lược miền Nam Việt Nam, đang ở thời kỳ ác liệt cả trên không, trên bộ và sông biển. Vậy mà gỗ là lấy từ rừng núi Tây nguyên chở ra Hà-nội. Tìm gỗ và lấy gỗ cũng phải bao nhiêu mạng người. Rồi lại qua đường gọi là “đường mòn Hồ chí Minh”, cứ mười phần thì tới Hà-nội chưa được một. Số còn lại cùng những đơn vị chuyên chở, gỗ và máu xương quyện lại với nhau và mãi mãi nằm lại trên đường đi! Còn đá xây lăng là do mẫu quốc Nga-xô ban cho, lấy từ vùng Caucase, chở bằng tàu biển đến phao “0” ở Hải-phòng. Từ đó, công binh ngụy quân cộng sản phải chở ngầm bằng phao vào vì cảng Hải-phòng bị bỏ mìn phong tỏa. Biết bao nhiêu con người Việt Nam nữa lại chết vì chuyên chở đá.
Xã hội Việt Nam trải qua bao triều đại, cũng có nhiều hôn quân, cũng có nhiều giai đoạn bị cai trị bởi tụi xâm lược phương Bắc (tức ba Tàu), và cho đến thực dân Pháp nữa, chưa bao giờ máu xương nhân dân Việt Nam lại bị sử dụng một cách tàn bạo và vô ích như thế. Các vua chúa ngày xưa cũng chẳng bao giờ khi còn sống bắt dân thờ sống trong từng nhà. Và, có xây lăng cũng chẳng bao giờ xây lúc đang có chiến tranh. Cũng chẳng bao giờ xây chình ình giữa lòng thủ đô như họ Hồ. Đã thế, sau khi lăng được hoàn thành, bọn đầu lãnh mafia đỏ còn ra lệnh đưa chỉ tiêu cho các địa phương, cơ quan, trường học v.v… theo kế hoạch điều động dân luân phiên đưa nhau viếng lăng, đảm bảo lúc nào cũng đông người viếng đều đặn. Biết bao lãng phí về công lao động, xăng dầu, xe cộ để phục vụ cho sự điên loạn tàn bạo của họ Hồ và tập đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn.
Rồi bây giờ, họ Nông lên cầm quyền, hắn làm lễ dâng hương cho con yêu tinh râu xanh, cha đẻ của hắn là họ Hồ, cùng lúc dâng hương cho cả Trần Phú và Hà huy Tập, cố tình làm nhòa đi những báo cáo của Trần Phú và Hà huy Tập đã méc với quốc tế 3 các thứ tội của cha hắn. Đồng thời, Phan văn Khải ra nghị quyết về “lễ hội”. Có nghĩa là tập đoàn đầu nậu mafia đỏ chuẩn bị dựa vào “truyền thống dân tộc” để tiến dẫn những tên cộng sản Việt gian ác ôn, có nợ máu với nhân Việt Nam, vào chiếc ghế “thành hoàng” ở các làng xã!!!
Ngày cái lăng họ Hồ “khai trương”, chỉ có “lãnh đạo” các cơ quan, đoàn thể đi xem trước, có một số phóng viên các báo, đài cũng được đi. Ấy thế mà chẳng biết canh gác ra sao để đến nỗi một bài thơ châm biếm đã dán ở gốc cây, nội dung như sau:
“Cũng lăng, cũng lính, cũng kèn đồng
Xác ướp da xương, tim óc không
Nằm quan tài kính cho người ngắm
Xác nhắm mắt nghiền chẳng dám trông
Sở thú kề gần dăm bảy bước
Thú người, người thú nực cười không!!!”

Ai làm thơ, ai dán, chắc cho đến nay bọn mafia đỏ vẫn chưa điều tra ra. Nhưng, rút kinh nghiệm “quả hớ” đó, kể từ ngày “khánh thành chính thức” cho đến về sau, nội quy bắt gửi lại đồ, người đi viếng phải tự kiểm soát nhau, không được tách ra đi một mình và v.v… Đến lúc ấy thì tự cái xác của Hồ, dù chỉ còn da; tim, gan, óc, phèo, phổi (không biết cái tạo ra Nông đức Mạnh còn không) đều bị moi ra hết, thế mà vẫn bị “thối”. Cái mũi chó săn của Hồ bị lỗ chỗ, phải đắp sáp. Và “nghe nói” cái xác của Hồ, thứ thiệt thì ngâm thuốc dưới hầm, còn cái trưng ở trong quan tài là bằng sáp nặn mà thôi.
Quả là họ Hồ, khi sống, lúc chết đều là giả dối hết!!!
Còn một câu hỏi nữa, đó là ngày chết của Hồ. Đầu tiên là 3-9-1969. Sau do “tiết lộ” của Vũ Kỳ rằng ngày đó là sai, do nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ tự ý thay đổi, chứ Hồ chết vào đúng 2-9-1969! Và, thế là tụi mafia đỏ Việt Nam cho đổi lại ngày chết của Hồ cho đúng với tiết lộ của me-xừ Vũ Kỳ, gia nô tin cẩn của Hồ!
Chuyện vô lý đến thế mà cũng có nhiều người tin. Cả cái gọi là di chúc của Hồ với bút tích của hắn hẳn hoi mà bọn Duẩn, Chinh, Đồng, Thọ v.v… còn làm ngược lại như đừng “ma to cỗ lớn, lãng phí” thì chúng còn “lãng phí không chỉ tiền của trong xây lăng, mà cả xương máu”. Mỗi đời “tổng bí thư” lại bổ sung thêm những “chi tiêu lãng phí” cho cái lăng đó. Như bây giờ là thành lập bộ tư lệnh bảo vệ lăng; tổ chức chào cờ trước lăng hằng ngày v.v… “Tha thuế” vẫn là chuyện “hứa lèo”. Nếu có thi hành chút chút thì như bài tây ba lá, rút chỗ này, chập chỗ kia, nghĩa là tăng thêm các khoản đóng góp đủ loại nghĩa vụ! Đời Hồ đã bán đất, bán biển cho ba Tàu (các thư do Ung văn Khiêm, rồi đến Phạm văn Đồng gửi cho ba Tàu còn đó); đời con là Nông đức Mạnh lại còn tặng đất, tặng biển cho ba Tàu bạo hơn. Thế mà nay chỉ vì tên gia nô mà răm rắp sửa sai cái việc chẳng có chút gì quan trọng. Vì, đến ngày sinh của Hồ cũng toàn là “rổm” cả. Sao không sửa lại đi?
Vậy tại sao lại sửa ngày chết của Hồ?
Trước khi trả lời câu này, xin lưu ý bạn đọc rằng tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh ra lệnh “xóa bỏ mê tín dị đoan”, là xóa đối với nhân dân thôi, còn bọn chúng thì làm ngược lại. Từ Hồ trở xuống, từ Tố Hữu trở lên, thằng nào cũng rất tin vào tướng số, địa lý, tử vi.
Hoàng văn Hoan căm thù nhà văn Vũ Trọng Phụng đến mức dựa vào vụ “nhân văn – giai phẩm”, ra “khẩu lệnh” bắt hủy bỏ và cấm in, phổ biến mọi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Có hai nguyên nhân để Vũ Trọng Phụng bị “căm thù”, mặc dầu ông đã chết từ 1940, mà theo lời nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, khi bịnh nằm ở khu an dưỡng đã “tâm sự” với người viết rằng:
1- Thấy Vũ Trọng Phụng nổi tiếng nên Trường Chinh móc nối muốn đưa Vũ Trọng Phụng gia nhập “cộng sản”, nhưng Vũ Trọng Phụng từ chối, lại còn nói, đại ý: “Bọn các anh chỉ mượn danh cách mạng để làm tiền những người yêu nước, dùng vào những việc đen tối!”
2- Trong tác phẩm “Giông tố”, lão già “cách mạng” kiêm thầy địa lý mà Vũ Trọng Phụng mô tả chính là mượn hình ảnh ngoài đời của Hoàng văn Hoan vậy.
Đỗ Mười từng bị điên phải sang Trung cộng chữa chạy, có thằng con trai cũng “điên điên, khùng khùng”. Một giáo sư sử học cũng có tiếng tăm, chuyên nghiên cứu tử vi, có dịp xem tử vi cho Đỗ Mười từ khi Mười còn là phó thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, đã phán rằng Đỗ Mười sẽ phát đến bậc đầu lãnh số một của tập đoàn mafia đỏ. Và, khi mới ở ngôi vị thứ 2, sau Nguyễn văn Linh, thì Đỗ Mười đã “mời” viên giáo sư sử học đó làm cố vấn chìm. Qua Đỗ Mười, viên giáo sư sử học có điều kiện “cố vấn tử vi” cho hầu hết tụi đầu nậu mafia đỏ, kể cả gia đình nhà anh em Lê đức Thọ. Còn Trường Chinh thì “cả họ” nhà hắn, cả gái cả trai đều say mê tử vi.
Chính nhân vật “cố vấn tử vi” đó đã trình bày rằng ngày giờ Hồ chết không ổn, hãy bỏ ngày thật 3-9 đi mà đổi thành ngày 2-9-1969 thì hay hơn. Và, nếu không tin ở ngày giờ xấu, tốt thì cũng nên thấy cái việc không hay là ngày hôm trước thì kỷ niệm “dựng nước” (tức quốc khánh), ngày hôm sau đã “đại tang”! Chi bằng cho chung vào một ngày vừa kỷ niệm “dựng nước” vừa “nhớ” người “có công dựng nước”. Cả bọn đầu lãnh mafia đỏ đã ủng hộ ý kiến đó, nên mới có cái vụ “tiết lộ” của me-xừ Vũ Kỳ.
Câu chuyện trên do chính giáo sư Từ Chi kể lại, tên của viên “cố vấn tử vi” sẽ được nêu ra vào lúc thích hợp.
Nhiều người đã được giáo sư Từ Chi kể chuyện này. Nhưng có điều kỳ lạ là có người biết như vậy nhưng vẫn a dua và cổ võ mọi người, cùng a dua tấn công nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ, cố tình bỏ qua những phi lý rành rành “như canh nấu hẹ”.
Ở đây không phải là sự vô tình, mà “người ta cố ý hư cấu” các sự việc, diễn dịch các sự kiện thật, giả lẫn lộn. Vì sao vậy?
Vì tất cả đều biết rằng Hồ và cái thây ma của hắn là chỗ sinh tử của tổ chức Việt gian mafia đỏ. Nếu đánh vào đó, nghĩa là tập trung công sức vạch bộ mặt thật của họ Hồ ra thì tổ chức Việt gian mafia đỏ sẽ tan vỡ ra từng mảnh.
Chính vì thế, những kẻ có liên quan đến họ Hồ có thể hạ bệ nhau bằng mọi thủ đoạn, nhưng lại nhất trí với nhau bảo vệ và đề cao họ Hồ, như kiểu giữ cái nhãn đã được quốc tế và trong nước cầu chứng. Bọn họ ít nhiều đều đã có cổ phần trong cái công ty Hồ chí Minh, cũng vì quyền lợi cá nhân (hoặc nhóm) nên giả mù không dám phanh phui chuyện kinh doanh đĩ điếm, bài bạc, ma túy của cái công ty đó. Họ không ngu nhưng họ không trung thực và không là kẻ sỹ như nhiều người lầm tưởng.
Cho nên nếu chúng ta không tỉnh táo, vừa cổ võ họ vừa nuốt những lập luận đề cao họ Hồ của họ, có nghĩa là chúng ta chỉ chống vài tên “đang cầm quyền”, chứ không phải là chống toàn bộ tổ chức Việt gian và hệ lụy của nó.
Chẳng cần ai chống thì Trường Chinh cũng thay Lê Duẩn, rồi Nguyễn văn Linh lại thay Trường Chinh; Đỗ Mười thay Nguyễn văn Linh; Lê khả Phiêu thay Đỗ Mười và mới đây Nông đức Mạnh lại thay Lê khả Phiêu.
Cứ xét những bài viết mạnh bạo của cây bút “chống đối” xuất sắc là ông Trần Khuê thì thấy y như cái “đèn kéo quân”. Vừa mới đề cao Đỗ Mười thì đã quay ra khen Lê khả Phiêu, và rồi lại tin ở sự “ôn hòa” của Nông đức Mạnh. Sau Nông đức Mạnh sẽ đến ai đây? Vì cả ba thằng Mười, Phiêu, Mạnh đều vừa cấu kết bán đất, bán biển cho ba Tàu cộng! Bọn chúng có bán đất, bán biển thì cũng chỉ là đi theo cái việc họ Hồ đã làm từ thập niên 50 mà thôi!
Cho nên đấu tranh cho dân chủ là phải đấu tranh chống từ nguồn gốc sinh ra độc tài mất dân chủ.
Cái nguồn gốc đó là chính cá nhân họ Hồ; là sự lựa chọn đường lối chính trị của họ Hồ; là tổ chức Việt gian mafia đỏ của Hồ, mang cái tên “đảng cộng sản Việt Nam” và cái ngụy quyền “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Bỏ quên Hồ (chứ chưa nói đến đề cao Hồ) mà chỉ tấn công Lê Duẩn hoặc Mười, Phiêu, Mạnh thì chẳng khác gì giặc Minh xưa kia giết Lê Lai để thoát Lê Lợi vậy.
Lê Duẩn, Lê đức Thọ chỉ là những mục tiêu giả hoặc thứ yếu. Nếu thần tượng Hồ chí Minh của tập đoàn mafia đỏ đổ thì sẽ lôi theo không chỉ Duẩn, Thọ v.v… mà sẽ làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tổ chức – cả vật chất cả tinh thần – của tập đoàn Việt gian mafia đỏ, ngụy quyền Hà-nội hiện nay.
Chỉ có như vậy mới thực hiện được sự đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam, cả trong và ngoài nước, để xây dựng dân chủ và bảo vệ nhân quyền nhằm xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc, phồn vinh, trên cơ sở đó gìn giữ và thu hồi đất đai, sông biển của Việt Nam mà tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh đã dâng cho thế lực bành trướng bá quyền nước lớn, là Trung cộng.
Nhân dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng phải thấy được rằng Hồ chí Minh là tội phạm đầu sỏ, tội phạm chính yếu, đã lèo lái cái tổ chức “cộng sản Việt gian” của hắn để đầy ải người dân Việt Nam trong thân nô lệ, trong kiếp nghèo đói và cũng Hồ là kẻ duy nhất trong lịch sử Việt Nam đã mang đất đai, sông biển của Việt Nam dâng cho ba Tàu. Tất cả nhân sự trong tổ chức “cộng sản Việt gian” đều do Hồ đích thân lựa chọn, đề bạt, giao trách nhiệm thi hành các chính sách phản dân, hại nước của hắn.
Thí dụ: Năm 1958, Phạm văn Đồng nhân danh thủ tướng ngụy quyền Hồ chí Minh gửi cho Chu ân Lai (thủ tướng Trung cộng) ủng hộ và công nhận việc Trung cộng chiếm các quần đảo Hoàng-sa và Trường-sa, là thừa lệnh ai?
 

 

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website