CHÍNH KHÍ VIỆT

Thursday, November 16, 2017

(CHƯƠNG 10, 11, 12) Sự Tích Con Yêu Râu Xanh

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

 
 

Việt Thường

Bài 10

Mặc dù có nhắc đến việc Hồ lấy bút danh Trần dân Tiên để tự đánh bóng (từ 1948) cùng với các bút danh khác như T. Lan, và có thể Hồ là người đầu tiên tự bốc thơm trước khi bầy nô lệ cung đình của Hồ làm cái việc sản xuất các “tụng ca” về Hồ, thế mà Lữ Phương đến tận năm 2001 này còn tự mâu thuẫn trong đề cương về “Huyền thoại Hồ chí Minh” khi Lữ Phương viết rằng: “Nhưng do đảng cộng sản Việt Nam không chỉ muốn dừng lại với cái công lao ấy (tức công lao chống thực dân) mà còn vượt lên thời gian tồn tại muôn năm nên hình ảnh của Hồ chí Minh phải được tô vẽ sao cho thật lý tưởng, thật phi thường. Và đó cũng là chính sách tạo thần tượng của guồng máy.”
Theo Lữ Phương, nghĩa là Hồ vô tội. Việc đề cao Hồ không do tự Hồ bốc thơm chính mình, mà do “chính sách tạo thần tượng của guồng máy”! Vậy Lữ Phương hiểu guồng máy là cái gì, là ai? Sợ tập đoàn mafia đỏ chưa hiểu, Lữ Phương hạ bút nói rõ hơn: “Từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông!!!” Chắc chỉ có một mình me-xừ mánh mung, cơ hội chủ nghĩa là Lữ Phương mới thấy Hồ buồn phiền không muốn “đám âm binh cách mạng” của Hồ nịnh Hồ(?)! Chịu không hiểu nổi ý của “nhà chính khách, nhà trí thức” dzô bưng! Hẳn là Lữ Phương cố tình đưa ra lập luận này để bên dưới đó có thể thuyết phục được người đọc rằng “tin tôi đi”, Hồ vô tội mà, tất cả chuyện giết nhân dân miền Nam Việt Nam, xâm lược miền Nam Việt Nam, theo Trung cộng đều là lỗi của bọn Lê Duẩn, kể cả âm mưu đề cao Hồ!!! Chắc chắn cả đời Lữ Phương cũng chỉ đọc và nghe nói về Hồ ở một giới hạn cực nhỏ mà thôi. Nếu Lữ Phương được dự những kỳ họp có Hồ thì sẽ hiểu hơn chút nữa, đầu óc bớt tối tăm hơn. Thử giở lại những thước phim tài liệu về Hồ để thấy, dịp sinh nhật Hồ, tổ chức tại “phủ chủ tịch”, Hồ đứng nhìn ngang nhìn ngửa như dưới mắt không có ai, còn anh già Tôn đức Thắng lụ khụ thay mặt “đảng và chính phủ” chúc thọ Hồ, khúm núm như “cừu trước sói”, đằng sau là một lũ mặt hơn hớn, nụ cười nịnh trên mỏ. Đó là: Duẩn, Chinh, Đồng, Giáp, Thọ, Nghị, Chu văn Tấn, Nguyễn thị Thập, Hoàng minh Giám và v.v…
Cho nên, một mặt Hồ và Duẩn vẫn ký vào tuyên bố chung của “81 đảng”, một mặt Hồ vẫn bật đèn xanh cho bọn Duẩn, Chinh thì thọt họp với Trung cộng làm ra vẻ tán thành việc Trung cộng định lập ra một “quốc tế mới” để phủ nhận ngôi vị “anh cả” của Nga-xô.
Cái sự đi gần quan điểm “giáo điều” của Trung cộng đã khiến Hồ tiếp tục công cuộc “xâm lược miền Nam Việt Nam” có nhiều thuận lợi hơn. Đối ngoại thì được Trung cộng viện trợ súng đạn và mọi nhu yếu phẩm, kể từ cái kim khâu đến cái bô đi ỉa của trẻ em; rồi từ gạo thịt cho đến lê, táo, nho, rượu, thuốc lá, kem đánh răng v.v… Đối nội thì tăng cường đàn áp (tức nắm vững chuyên chính), vì theo lệnh Hồ, Trường Chinh mới nhân danh chủ tịch quốc hội ký “nghị quyết 49/NQ/TVQH, ngày 20-6-1961 cho phép bắt đưa đi tù khổ sai (núp dưới cụm từ “cải tạo”) tất cả những người không thích hợp với chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh, không cần xét xử, chỉ qua đề nghị của công an đường phố.
Với lệnh “khổ sai” này, họ Hồ đã làm cho toàn thể nhân dân miền Bắc Việt Nam khi ấy “sợ vãi đái trong quần”, và mọi người chỉ còn hai con đường để chọn:
1) Hoặc đi vào tù để lao động khổ sai không thời hạn;
2) hoặc ngoan ngoãn, ở thành thị thì nộp nhà cửa, tài sản; gia nhập hợp tác xã tiểu thủ công hay thương nghiệp; hoặc đi công trường, lâm trường, nông trường; ở nông thôn thì phải vui vẻ thi hành cái gọi là “hợp tác hóa nông nghiệp”. Và, cũng là sẵn sàng vào ngụy quân để xâm lược miền Nam Việt Nam.
Trung cộng bỏ tiền của ra cho họ Hồ thì tất nhiên cũng phải đòi lại cái gì chứ. Cho nên, cuối năm 1963, Hồ cho Lê Duẩn cầm đầu đoàn mafia đỏ Việt Nam, cùng Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan (đại sứ của ngụy quyền Hồ chí Minh ở Bắc-kinh) sang Tàu bàn về việc cho ra đời cái gọi là “quốc tế cộng sản” Mao-ít. Thảo luận dài dài, nhưng rồi không đi đến đâu và cái “quốc tế Mao-ít” đó bị sẩy thai. Chỉ có lú lẫn mới không thấy được nước cờ của Hồ. Vì đoàn có 4 mống thì ba thằng thân Trung cộng là Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan, điều này tất nhiên vừa lòng Trung cộng. Nhưng Lê Duẩn là trưởng đoàn lại là “bí thư thứ nhất” nên hắn quyết định (tất nhiên là lệnh của Hồ) để “về nước bàn lại”. Cái sự bàn lại ấy là sự đu dây của Hồ rất điệu nghệ.
- Không có chuyện ủng hộ Trung cộng để đẻ ra cái “quốc tế Mao-ít”;
- Nhưng để “tế nhị” với việc “hứa lèo” việc ủng hộ cho ra đời “quốc tế Mao-ít”, nên Hồ giao cho Trường Chinh thảo cái gọi là nghị quyết 9 (cuối 1963), nghĩa là ”đi theo con đường của Trung cộng”, trái với nghị quyết của đại hội 3 cũng như Tuyên bố chung của 81 đảng mafia đỏ (1960). Và, tháng 1-1964, tại câu lạc bộ Ba-đình, được phép của Hồ, Trường Chinh họp với các cán bộ trung và cao cấp của mafia đỏ, nói thẳng thừng rằng đường lối đối nội và đối ngoại của mafia đỏ Việt Nam nhất trí với Trung cộng.
Về chuyện nghị quyết 9 này, có mấy người “ly khai” có câu chuyện làm quà cho đồng bào hải ngoại (và cả tuổi trẻ nữa) rằng Hồ mấy lần dơ tay xin phát biểu nhưng bị Lê đức Thọ át đi không cho nói. Còn một chuyện khác thì kể là trước khi họp trung ương mafia đỏ về nghị quyết 9, Lê Liêm có lên gặp Hồ và phản đối nghị quyết 9, Hồ nghe rồi bảo Lê Liêm khi họp cứ phát biểu ý kiến của Lê Liêm, có gì Hồ sẽ phát biểu sau (ý là ủng hộ Lê Liêm). Thế rồi Lê Liêm phát biểu trong cuộc họp, bị Lê đức Thọ, Trường Chinh xài xể cho một trận, Lê Liêm đưa mắt nhìn Hồ “cầu cứu” thì Hồ lờ đi, không nói gì cả. Và, Lê Liêm cho rằng Hồ sợ (người viết sách diễn tả như vậy).
Nếu quả chuyện trên là có thật thì việc cho rằng Lữ Phương ngu dốt khi sao chép lại (kể cả của Vũ Kỳ, thư ký của Hồ) để tin rằng Hồ “bị cho ra rìa” có hơi quá chăng? Vì ngay Lê Liêm, một ủy viên dự khuyết của trung ương mafia đỏ mà còn ngu lâu và quáng gà nữa là (nếu chuyện kể trên là có thật).
Xin nhớ cho rằng, cái cuối năm 1963 đó, Hồ còn khỏe mạnh, mập như heo, mặt đỏ au như nhuộm phẩm, giọng còn sang sảng, sáng chiều tập thái cực quyền, và hắn vẫn number-one khi ấy, nghĩa là: chủ tịch đảng kiêm ủy viên chính trị bộ mafia đỏ; chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội; chủ tịch hội đồng quốc phòng, nghĩa là hắn có quyền “veto” tuyệt đối!
Nguyên tắc làm việc của mafia đỏ là: mỗi lần cần họp trung ương mafia đỏ để ra một quyết nghị nào đó thì trên thực tế cái nghị quyết ấy đã được thảo ra ngay sau khi có ý kiến của Hồ (có thể bàn qua với Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng). Nghĩa là nghị quyết đã thành văn bản trước. Sau đó, trong hội nghị trung ương của chúng, chủ yếu là phổ biến cái nghị quyết đó cho cái lũ gọi là thành viên trung ương mafia đỏ để thi hành. Nếu có cho thảo luận thì cũng chỉ là chiếu lệ gọi là, để rồi gật hết. (Tận bây giờ vẫn còn như vậy đấy thôi).
Lê Liêm quá ngu nên mới xin gặp Hồ để phản đối. Vì Hồ mới là cha đẻ cái nghị quyết ấy. (Ngu thì chết là đúng rồi). Lê Liêm quên rằng Hồ là ông chủ, còn từ Lê Duẩn trở xuống chỉ là tay sai của Hồ theo thứ tự thang bậc mà Hồ ban cho.
Tính cách gian manh tàn độc của Hồ và quá trình bôn ba trong nghề gián điệp, chuyên thủ tiêu mọi vật cản đường công danh của Hồ thì phải nhớ rằng Hồ đâu phải “chúa chổm” của nhà Lê trung hưng mà để cho Lê Duẩn làm cái việc của Trịnh Kiểm!!!
Thật khùng khi tin rằng Hồ giữ thực quyền như vậy mà bị Lê đức Thọ lấn át, “bịt mồm”. Thế mà nay cái me-xừ Vũ Kỳ chỉ là gia nô của Hồ, chưa bao giờ được cái chân dự khuyết trung ương mafia đỏ, vậy mà chẳng ai dám bịt miệng. Vũ Kỳ cũng đang nuôi đứa con của Hồ với cô bé Nông thị Xuân (Hồ hơn Nông thị Xuân gần 50 tuổi) đấy. Lữ Phương thử “điện thoại” hỏi xem hư thực ra sao và cũng hỏi Vũ Kỳ xem hắn thấy “ông chủ Hồ chí Minh của hắn” có đạo đức cách mạng tuyệt vời không? Và nếu quả chỉ có Lê Duẩn chủ trương xâm lược miền Nam Việt Nam thì tại sao Lữ Phương dám nâng bi rằng Hồ “tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập thống nhất”.
Các thế lực thực dân là ai, ngoài thực dân Pháp? Không có ý kiến về vấn đề miền Nam, “tại sao Hồ lại có công thống nhất”?
Lữ Phương dùng lối viết hoa hòe hoa sói cố làm thật giả lẫn lộn. Nếu ai vô tình không đọc kỹ thì dễ cho rằng Lữ Phương “chống đối nhưng vô tư”. Nhưng đọc kỹ thì thấy Lữ Phương là loại “giả quân tử” cũng là loại nâng bi có hạng đấy, tiếc chưa gặp thời. Tất nhiên bộ máy mafia đỏ sẽ đọc kỹ nên chúng sẽ hiểu ẩn ý của Lữ Phương. Cái đó chúng ta chẳng quan tâm. Chúng ta lo là thế hệ trẻ vì thiếu cuộc sống thực, chỉ dựa vào tài liệu kiểu của Lữ Phương (ngòi bút phản kháng) chắc sẽ bị đeo đuổi ngay từ đoạn mở đầu (mà cũng có nghĩa là khẳng định, là kết luận) của Lữ Phương rằng: “Hồ chí Minh là nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập, thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam.
Không một bản “tụng ca” nào của tập đoàn mafia đỏ có giá trị (vô tư) và phong phú như đoạn văn ngắn, nói trên, của nhà “trí thức yêu nước” “Lữ Phương”!!! Ô la la!!!
Như thế, nếu quả có cái chuyện Hồ bị cấm phát biểu thì cũng chỉ là bằng trò ảo thuật của một gián điệp bôn ba, từng trải, Hồ đóng kịch lép vế khi thông qua nghị quyết 9 (tung tin là bị Lê đức Thọ o ép không cho phát biểu) để giúp Hồ khỏi bị “anh cả Nga-xô” giận. Còn “anh hai Trung cộng” thấy nghị quyết 9 được thông qua thì mừng quá, thế là ào ào chở súng, đạn, gạo thịt qua cho Hồ thực hiện sự vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam.
Đến lúc đó (tức 1963) thì lại xảy ra câu chuyện về sự đàn áp một số người “bảo lưu ý kiến chống nghị quyết 9 (nghị quyết Mao-ít)”. Có thật là đã có cái chuyện gọi là “đòi hỏi dân chủ” ở trong đảng mafia của Hồ không?
Trước khi bàn chuyện này, phải nói đến một vấn đề khác, đó là: “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” của họ Hồ.
Sau khi ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, họ Hồ và bầu đoàn nhếch nhác từ Việt-Bắc vào Hà-nội. Lập tức đại sứ quán Nga-xô chiếm cả trường nữ học Félix Faure làm trụ sở, cùng một loạt các vi-la đồ sộ ở gần đó và cả ở đường Nguyễn Thượng Hiền nữa. Như thế vẫn chưa đủ cho các “chuyên gia Nga-xô” (thực chất là viên chức của bộ máy thực dân đỏ) ở, nên phải cấp tốc cho xây thêm khu Kim-liên ở Hà-nội. Còn ở các tỉnh thì núp dưới cái tên là “nhà giao tế”, “Anh hai Trung cộng” bị hạ phong hơn, nên chiếm tòa “thủ hiến Bắc-Việt”, trước vườn hoa Canh Nông. Văn phòng trung ương mafia đỏ Việt Nam thì chiếm toàn bộ trường Albert Sarraut. Hồ chiếm cái “biệt điện” tức phủ toàn quyền cũ. Nhà riêng Phạm văn Đồng chiếm tòa nhà ở Khúc Hạo, liền tường với “sứ quán Nga-xô”, đi bộ 2, 3 phút là tới chỗ của Hồ. Tóm lại, bộ máy quan lại của Hồ và các “toàn quyền Nga-xô” và “phó toàn quyền Trung cộng” đều quây quần với nhau chung một khu. Năm 1960, đại sứ Nga-xô là thiếu tướng tình báo Serbakov; còn của Trung cộng vẫn là thiếu tướng La quý Ba.
Nhân dân miền Bắc Việt Nam, sau hiệp định Genève 1954, đúng là một cổ ba tròng: Nga-xô, Trung cộng và ngụy quyền Hồ chí Minh.
Cả Nga-xô và Trung cộng đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng trong nhân dân miền Bắc Việt Nam. Những ngày cuối 1954, phong cách Trung cộng ở thế thượng phong với hình ảnh ngụy quân cộng sản Hồ chí Minh ăn mặc, đi đứng hệt Tàu cộng. Cả bộ sậu từ Hồ trở xuống đều mặc “bộ áo Mao-tsé-tủng” bốn túi, màu cỏ úa sậm hoặc dạ đen cổ cao. Trong ngụy quân cộng sản thì sỹ quan áo bốn túi, lính thì hai túi, giống hệt cảnh phân chia “cái bang” trong chuyện chưởng của Tàu. Học sinh, giáo viên ở “khu học xá” bên Tàu về thì khăn mặt bông quấn cổ, tên nào cũng có cái “quẹt” và cái đèn pin nhãn “Hồng kỳ” và số lớn còn đeo khẩu trang (vệ sinh kiểu ba Tàu cộng lúc đó). Bọn chúng đi với nhau “xí ngổ, xí koỏng” tiếng Tàu. Trông thật tội nghiệp, như một đàn chó hoang. Cả lính, cả dân, cả học sinh của cái gọi là “vùng kháng chiến” từ Việt-Bắc cho đến Khu Bốn, trông nhếch nhác như lính “Tàu ô” hồi sang Việt Nam năm 1945 vậy! Chúng đi từng toán, nắm chặt tay nhau lóa mắt về đèn điện, về hàng hóa, về các món ăn, về người của Hà-nội. Mặc dù lệnh của ngụy quyền Hồ chí Minh khi ấy là “nghiêm cấm ăn uống ở các tiệm, mua bán hàng hóa và đến nhà dân Hà-nội, sợ bị đầu độc hoặc bị ám hại v.v…” (sợ không?!!!). Nhưng chỉ một ngày sau cả lính, cả sỹ quan, cả cái đám nhố nhăng ấy đều “chạm trán” nhau trong các tiệm phở, các nhà hàng, đến làm quen các nhà dân, xin đủ mọi thứ, y như cảnh sau 4-1975, tụi ngụy quân Hà-nội đua nhau chạy thục mạng vào Sài-gòn vậy. Có chút khác là Sài-gòn của nhân dân miền Nam Việt Nam phong phú, đa dạng, vĩ đại gấp ngàn vạn lần Hà-nội của 1954.
Hà-nội như rừng “cỏ linh chi” đã thức tỉnh các văn nghệ sỹ qua cơn điên loạn của “rèn cán chỉnh quân”, “đấu tranh chính trị”, “cải cách ruộng đất” v.v… để trở lại làm người, một người thực sự với mọi cảm xúc, suy nghĩ bằng chính ngũ quan và cái đầu của mình. Vì thế mới có chuyện thi sỹ Trần Dần vứt mẹ nó cái “đấu tranh giai cấp” đi, để yêu một cô giáo người công giáo; thi sỹ Hoàng Cầm cũng quên luôn bài thơ sáng tác ca ngợi đấu tố trong “cải cách ruộng đất” để trở về với chính tâm hồn thi sỹ lãng mạn của mình; Lê Đạt, thư ký văn nghệ của Trường Chinh, thì thẳng tay rũ bỏ “cô vợ cố nông” mà trong kỳ tham gia cải cách ruộng đất, nghe “rễ cố nông” đó tố khổ, đã nổi “tính đảng” mà cưới đại “cái rễ tố láo” đó làm bạn đời và v.v… Đấy chính là nguồn gốc của sự ra đời của “phong trào Nhân văn – Giai phẩm” (đúng nghĩa là đòi làm người trở lại). Vì không muốn làm gia nô khuyển mã cho mafia đỏ Hồ chí Minh, nên tất nhiên phải bị trừng trị theo đúng võ mafia đỏ, nghĩa là làm cho sống không nổi, chết không xong.
Hệt như sau tháng 4-1975, Sài-gòn của Việt Nam Cộng Hòa đã giải độc cho biết bao người từ phía Bắc vào, thuộc đủ mọi thành phần, từ văn nghệ sỹ như Dương thu Hương, vợ chồng Lưu quang Vũ, Xuân Quỳnh; nhà thơ đầy can đảm Bùi minh Quốc; nhà trí thức “thứ thiệt” Hà sỹ Phu v.v… những người gần cả cuộc đời theo mafia Hồ chí Minh như ông Nguyễn Hộ. Và, cả Nam cả Bắc ào ào vượt biên, chẳng cứ người dân thường mà cả lực lượng chuyên chính của mafia đỏ là công an và binh lính (tất nhiên cũng có bọn được đưa đi nằm vùng), kể cả nhân sự trong cái “chính phủ” mà Lữ Phương đã mơ tưởng, như Trương như Tảng chẳng hạn. Đến mức ngụy quyền cộng sản Hà-nội phải lúng túng, lúc thì “mở cửa” lúc thì “đóng cửa” trở lại. Và chúng cũng lộ rõ bộ mặt của lũ cướp thực dân đỏ, vơ vét tài sản của nhân dân miền Nam Việt Nam, bỏ tù hàng triệu người không xét xử, hàng triệu người bị đuổi đi “kinh tế mới” (tức phát vãng). Cơ cấu xã hội và kinh tế miền Nam bị tàn phá một cách khủng khiếp. Và, chúng lại thực thi con đường của Hồ là làm nhiệm vụ “bành trướng chiến lược” của thực dân đỏ Nga-xô; xâm lược Cam-bốt. Kết quả mẫu quốc thì sa lầy ở Afghanistan và đàn em của Hồ bị chìm ở Cam-bốt. Và, quan trọng hơn cả là quan điểm của họ Hồ đối với “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” được sáng tỏ bằng chiến tranh ở phía Bắc với Trung cộng bằng súng đạn và chiến tranh miệng qua Bạch thư của bộ ngoại giao ngụy quyền Hà-nội do Nguyễn duy Trinh chủ biên. Cũng như năm 1978, Lê Duẩn dẫn hầu hết các bộ mặt đen đúa của chính trị bộ mafia đỏ sang Nga-xô ký hiệp ước còn tệ hơn hiệp ước Patenôte của nhà Nguyễn với thực dân Pháp. Đó là “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện” với Nga-xô, và sau đó là Nga-xô làm chủ Cam-ranh không tốn một xu và các mỏ dầu lửa ở miền Nam Việt Nam!!!
Đây là kết luận chính xác của trò đi dây của họ Hồ giữa Nga-xô và Trung cộng, cũng chư việc Hồ chí Minh chỉ định Lê Duẩn là người kế tục sự nghiệp Việt gian của hắn. Cùng với lũ người Việt mang nặng cái “uế khí Trung cộng” đó là hội Hoa kiều ở Hàng Buồm và nhân viên, giáo viên, học sinh của trường trung học Trung hoa, ồn ào mở tiệm sách, các quầy vỉa hè, bán sách báo do Trung cộng sản xuất và ảnh các đầu đà của cái “đảng Trung cộng”, lúc ấy gồm Mao, Lưu thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu ân Lai, Bành đức Hoài v.v… và cờ Trung cộng được treo khắp nơi như để khẳng định “có ta đây” vậy.
Nga-xô không ồn ào như Trung cộng, ngoại trừ đoàn làm phim người Việt, học từ Nga về, ăn mặc lối “Tây nhà quê”, đội cái mũ vải trắng, các máy quay phim to và nặng như khẩu “bích kích pháo”, đi xe Podeba hoặc Gatt bỏ mui vải, phóng ồn ào, luôn mồm “kha-rát-sô” với “nhiét-nhiét”. Có ngụy quyền Hồ chí Minh phục vụ hết mình, nên các quầy sách lưu động, tiệm sách được bày bán đầy cờ, ảnh các đầu đà Nga-xô như Lê-nin, Stalin, Malencốp, Bulganin, Molotov, Kaganovitch, Micoian, Krúp-xcai-a (vợ Lê-nin), Jukov v.v…, và tất nhiên là phải có ảnh hai “ông rậm râu” Mác và Engels!
Y như miền Nam Việt Nam sau 4-1975, miền Bắc Việt Nam thời 1954 đó cũng bị ngụy quyền Hồ chí Minh chia rẽ bằng “dân kháng chiến” và “dân tề” (ý nghĩa như “dân ngụy” vậy). Bên “dân kháng chiến” che đậy cái nghèo, cái lạc hậu, cái thô lỗ bằng cách “tự cho mình là kẻ chiến thắng”. Còn “dân tề” thì phân hóa thành ba loại:
1) Loại nằm vùng, cơ hội (như loại cách mạng 30 ở trong Nam, sau 4-1975), cố tìm bằng được đôi “dép râu”, cái mũ lá, bộ áo màu cỏ úa, có đứa còn đi may ngay bộ “đại cán 4 túi”, tóc tai lòa xòa, không đường ngôi, tất bật đi làm cái chuyện “cơm nhà vác ngà voi”. Nhiều gia đình khổ sở vì có chồng, con, anh, em loại này. Một kiểu “thành phần thứ ba” sau này.
2) Loại an phận, nép mình, lấy “của che thân”. Phần lớn là công chức, nhà buôn. Cũng thay đổi cách mặc, áo cánh nhuộm màu gụ, trong nhà thì “đồ cũ bày ra, đồ đẹp như hoa cất vào”. Nghĩa là phải “giả nghèo giả khổ” thì mới yên thân.
3) Số rất ít, tỉnh ngộ trước cái bánh vẽ “độc lập, tự do, hạnh phúc” thì vội tìm đường chạy vào Nam, hoặc không chạy được thì tìm cách thích nghi, nằm quan sát và “hy vọng” có sự đổi đời, nhất là hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử hai năm sau đó, như hiệp định Genève 1954 về Việt Nam qui định!!!
Vài năm sau, phần lớn người Hà-nội bị đi kinh tế mới (tức phát vãng) hoặc bị bắt cải tạo, chỉ còn lại người tứ xứ đổ về. Nhưng, cái đất Thăng-long đã cải tạo lại những người tứ xứ đó, bớt phần cục cằn, khát máu, nghĩa là giảm bớt cái “tính đảng”. Hà-nội trở thành nơi “dễ thở” hơn. Cho nên, nếu tìm hiểu về miền Bắc Việt Nam của những năm trước 1975, sau 1954, mà chỉ loanh quanh ở Hà-nội, hoặc xa nữa là Hải-phòng hay Nam-định thì chẳng khác gì cảnh “đi mua gà mà chỉ nhặt cọng lông đuôi”.
Trong cái hoàn cảnh đó, Hà-nội nổi lên cuộc “chiến ngầm” giữa “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng”. Người miền Bắc quen dần cái cảnh đưa tin trên báo Nhân dân của ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh. Đó là sự cân đối tin về Nga-xô và Trung cộng. Tỷ dụ, ở trang nhất chia đôi cho thật đều: Nga-xô một nửa, Trung cộng một nửa. Không bên nào được hơn bên nào dù chỉ bằng cái vảy móng tay!
Sau đó là sự ra đời của hai tổ chức:
1. Hội hữu nghị Việt-Xô;
2. Hội hữu nghị Việt-Trung.
Nhìn vào hai hội này thì thấy rõ sự trân trọng của ngụy quyền Hồ chí Minh với mẫu quốc đỏ Nga-xô. Vì, chủ tịch “Hội hữu nghị Việt-Xô” là Dương bạch Mai, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ kiêm ủy viên ban thường vụ quốc hội ngụy quyền Hà-nội. Còn cái “Hội hữu nghị Việt-Trung” thì chủ tịch là một nhân sỹ “đã bị thiến” để làm kiểng “dân chủ”. Đó là cụ Bùi Kỷ (thân phụ của ông Bùi Diễm), trước 1945 là hiệu trưởng trường tư thục Louis Pasteur, ở Hà-nội. Vì thế sự phát triển của hai cái hội này cũng có tốc độ và tầm cỡ khác nhau. Dân miền Bắc Việt Nam, ở với mafia đỏ lâu rồi, cũng biết nhận xét đôi chút. Nhìn vị trí của hai “chủ tịch” đó là người ta đã thấy “nhất bên trọng, nhất bên khinh”. Cho nên, chỉ có một bộ phận nào đó trong lưu học sinh hay cán bộ mafia đỏ là gia nhập “hội Việt-Trung”, chủ yếu ở ngành đường sắt và khu gang thép Thái-nguyên. Nó cũng còn lý do nữa là dân Việt Nam dị ứng “ba Tàu cộng” vì nó quá lố lăng, kệch cỡm, giả dối, khác lạ 100%.
Còn “hội Việt-Xô” thì phát triển ào ào, ở khắp cả miền Bắc, từ trong ngụy quân cho đến các ngành, các bộ; các trường đại học và cả một số trường trung học; các bệnh viện cho đến các nhà máy, cửa hàng. Và, các lớp Nga văn mọc như nấm. Nga văn trở thành môn học bắt buộc ở bậc trung học lẫn đại học các ngành. Ủy ban khoa học Nhà nước (ngụy quyền Hà-nội), trường đại học Bách khoa Hà-nội và Tổng cục địa chất là địa bàn độc quyền của cái gọi là hội Việt-Xô đó. Ảnh hưởng văn hóa Pháp trong hơn 80 năm thực dân Pháp đô hộ Việt Nam cũng không có chiều sâu và chiều rộng như ảnh hưởng của Nga-xô ở Bắc Việt Nam khi ấy, trong vòng chưa đầy chục năm. Tỉnh táo ngắm nhìn bức tranh miền Bắc Việt Nam sau 1954 thì thấy rõ đấy thực sự là thuộc địa của Nga-xô cả tinh thần cả vật chất. Lối sống Việt Nam, truyền thống Việt Nam hoàn toàn bị ngụy quyền Hồ chí Minh san bằng, cho phù hợp với lá cờ “đảng mafia cộng sản Việt Nam” là cờ đỏ búa liềm vàng (cũng là quốc kỳ Nga-xô). Tên và ảnh các lãnh tụ cộng đảng Nga-xô và các tài tử điện ảnh Nga nằm đầy trên vách nhà của nông dân Bắc Việt Nam. Sách, truyện của Nga được dịch và tràn ngập các thư viện chính thống đã đành, nó còn len vào các tủ sách cơ quan, hợp tác xã kể cả thủ công nghiệp lẫn nông nghiệp. Tất nhiên, tư nhân làm gì có tiền mà mua. Tiền mua sách này là lấy từ các quỹ của “công đoàn” hay của “nông hội” mà ra. Nghĩa là ngụy quyền Hồ chí Minh bóp cổ nhân dân qua các loại thuế, loại nguyệt liễm, rồi dùng một phần tiền đó vào việc “nhuộm đỏ” đầu óc người dân Việt Nam. Cán bộ ngụy quyền Hồ chí Minh coi người Nga (Nga-xô) như thánh thần, như ông chủ lớn. Chỉ lấy lại một thí dụ cụ thể về tác giả “Gửi Mẹ và Quốc hội” để chứng minh cái xun xoe như chó mừng chủ khi ấy. Bấy giờ là hè năm 1955, Nguyễn văn Trấn làm nhiệm vụ “giảng viên thường trực” của trường gọi là “đại học nhân dân” (sáng kiến của Hồ chí Minh), được một phóng viên báo Sự Thật của Nga-xô tới thăm trường. Văn võ bá quan của trường y hệt cảnh lý dịch ở nông thôn Việt Nam xưa, khúm núm đón “quan Tây” vậy. Đủ mặt từ Đoàn trọng Truyến (sau làm trưởng tiểu ban kinh tế – tài chính của quốc hội ngụy và cũng là kẻ cùng với Tố Hữu và Trần Phương đồng tác giả vở kịch “giá, lương, tiền” và cùng bị ngã ngựa); đến Trịnh Bốn (sau làm vụ trưởng vụ tổ chức và cán bộ của ủy ban khoa học nhà nước ngụy); Nguyễn khoa Minh (nguyên bí thư tỉnh ủy Quảng-ngãi, qua Nga-xô học, chưa về nước mà đã được cử giữ chức giám đốc trường đại học tổng hợp, vì “tội” làm luận án “đảng toàn dân”, theo luận điểm của Khrútxốp nên cũng ngã ngựa và Ngụy Như Kontum được lấp lỗ trống) và một số đông học trò của trường, Nguyễn văn Trấn vẻ mặt ngoan ngoãn, hai tay nắm lấy bàn tay của tên Nga-xô đó, ngọng ngịu (vì hơi móm) khen: Nào là đồng chí to con quá, trẻ quá, giỏi quá(?). Nào là đồng chí có mệt không? “Đồng chí” bị muỗi cắn ở tay rồi. Bảo y tá lấy thuốc chữa cho “đồng chí Liên-xô” ngay v.v…, trông bệ rạc, hèn hèn đến mức một số học sinh là người Hà-nội, nhìn nhau “đỏ mặt hộ”! Còn tên Nga-xô kia chắc không hiểu Nguyễn văn Trấn nói gì (vì nói tiếng Việt) nên hắn quay qua phía Đoàn trọng Truyến (tay đang cầm quyển Le Russe sans peine) nói vài câu lấp lửng, để mặc cho “đồng chí” Nguyễn văn Trấn nói chuyện với cái tay của hắn. (Đọc cuốn “Gửi Mẹ và Quốc hội”, nhớ lại hình ảnh đó cũng như nhiều việc khác, chẳng biết nói gì hơn là ngửa cổ lên trời cười khẽ ba tiếng rằng: trên đời này, ngụy quyền cộng sản đã đào tạo ra nhiều tay “nói trạng” lắm, ai ơi!!!) Lại nói về cái gọi là “hội Việt-Trung” tuy lép vế, nhưng bù lại Trung cộng có cái “hội Hoa liên” (tức liên hiệp những người Hoa ở Bắc Việt Nam) mà trái tim là trường trung học Trung hoa, lò sản xuất các trò nhố nhăng để sau này thành cái gọi là “hồng vệ binh”. Hội này cũng có tờ báo riêng là “Tân Việt-Hoa”, một thứ “lá cải” – công cụ tẩy não.
Tất nhiên cả hai cái hội nói trên có chỗ dựa vững chắc và cũng là đầu não chỉ đạo là hai sứ quán Nga-xô và Trung cộng ở Hà-nội, đều do “tướng” cầm đầu.
Cơ cấu tổ chức của cái gọi “hội Việt-Xô” như thế, nên chỉ có ngủ mê mới không thấy nó thực sự là công cụ bành trướng tinh thần Nga-xô, trong nhân dân Bắc Việt Nam, của ngụy quyền Hồ chí Minh. Mặt khác, trong tay Serbakov – viên thiếu tướng tình báo của Nga-xô, giữ chức “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” ở Hà-nội – nó cũng là “màng lưới tình báo của Nga-xô” (hữu thức hoặc vô thức) và là một thứ tổ chức công dân búa liềm mở rộng. Nhà nghề gián điệp như Serbakov, làm sao lại không tận dụng cái công cụ đó mà “giám sát” mọi hoạt động của cái tổ chức cộng sản mafia của Hồ. Vì thế, khi Hồ đu dây giữa hai ông anh, “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng”, để trong những năm 1961-62, thì thọt cùng Trung cộng bàn bạc, cho ra đời cái sẽ gọi là “quốc tế Mao-ít” – một thứ đảo chính vị thế lãnh đạo tối cao của Nga-xô trong thế giới mafia đỏ (tức cộng sản), cũng như việc làm ngược với nghị quyết 20 của Nga-xô và của chính ngay các nghị quyết của đại hội 3 mafia đỏ Việt Nam – thì đương nhiên Nga-xô qua tay Serbakov phải sử dụng cái công cụ “hội Việt-Xô” để uốn nắn, răn đe Hồ đừng đi quá trớn mà “lộng giả thành chân” là bỏ mẹ đời Hồ đấy. Cho nên, khi ấy mới bắt đầu có những tiếng nói mà hầu hết là thành viên của hội “Việt-Xô” đòi “thực hiện đúng đắn những nghị quyết của đại hội 3 của mafia đỏ Việt Nam”. Có nghĩa là đi đúng tinh thần nghị quyết 20 của Nga-xô mà cụ thể là “Tuyên bố chung của 81 đảng” mà Hồ và Lê Duẩn đã cùng ký năm 1960. Thế là, có thể nói cho chính xác, thì một số đảng viên có chức, có quyền ở mức tương đối với công lao của họ (bị coi là thất sủng) có thì thọt với nhau hoặc trực tiếp, hoặc qua đàn em, con cái để cùng “thống nhất” chống lại việc tách xa nghị quyết đại hội 3 mafia Việt Nam, mà cụ thể là “chống nghị quyết 9” (là nghị quyết thân Trung cộng), xin bảo lưu ý kiến. Nhĩa là muốn lật phe thân Trung cộng. Cũng xin mở ngoặc trình bày về cái gọi là quyền bảo lưu ý kiến. Theo điều lệ của mafia đỏ thì chúng lãnh đạo theo cách gọi là “dân chủ tập trung”, “thiểu số phục tùng đa số”, nhưng vẫn thấy ý mình là đúng thì vì là thiểu số, cứ phải tuân theo ý đa số đã nhưng có quyền bảo lưu ý kiến của mình. Từ ngày tổ chức mafia đỏ ra đời, núp dưới cái nón cối “đảng chính trị”, cho nên cạnh cái đống phân “dân chủ tập trung”, chúng cho ra cái bánh vẽ “quyền bảo lưu ý kiến”, nhưng thực ra không bao giờ được thi hành. Nói cho dễ hiểu, thì như trong cái gọi là hiến pháp của ngụy quyền cộng sản Hà-nội có ghi rằng mọi người được tự do lập hội chẳng hạn. Thế mà, mới ngay năm 2001 này, là thời kỳ “con tắc kè mafia đỏ” đang đổi màu tý chút cho phù hợp với môi trường chính trị thế giới hiện nay, vậy mà mấy người xin lập “hội chống tham nhũng” (để giúp “đảng”) đều được dzô tù mà lập hội!!!
Vậy thử nghĩ xem, thời kỳ của những năm 60 đó, họ Hồ đang cầm quyền mà lại có kẻ cả gan dám nghĩ khác với Hồ, tranh khôn hơn hắn thì số phận phải như thế nào? Chưa có quyền mà Hồ còn dám bán cụ Phan Bội Châu, ám hại Lê hồng Phong, Phùng chí Kiên (cũng là những đồng chí của hắn, thì bây giờ ở thế quyền uy tuyệt đối, cái gì mà hắn chả dám làm). Đến cái gọi là “cải cách ruộng đất”, tự lỗ mồm Hồ cũng phọt ra hai chữ “sai lầm”, rồi hắn sai Võ nguyên Giáp ra xin lỗi “dân”. Vậy mà mấy người khoe khôn dám nhìn thấy sai lầm của “cải cách ruộng đất” trước khi Hồ có ý kiến, mặc dù những người đó đều có tiếng tăm và đang là “bộ áo giả dân chủ” của họ Hồ, mà cả lực, cả thế đều là con số không, như luật sư Nguyễn mạnh Tường, bộ trưởng tư pháp Vũ đình Hòe, thứ trưởng văn hóa Đỗ đức Dục v.v… Còn bị Hồ  thẳng tay vứt vào sọc rác cho đến hết đời luôn, và Hồ còn vứt luôn cả bộ tư pháp lẫn khoa luật cho “tụi bay hết nói lý với luật”, làm bài học cho tất cả những ai sống dưới sự cai trị của họ Hồ. Tiếc rằng còn nhiều đệ tử của Hồ vẫn mơ hồ. Lấy thí dụ: Mới tháng này thôi (12-2001), hai chục bà nông dân ở miền Nam Việt Nam đã kéo nhau ra Hà-nội biểu tình đòi ruộng đất. Họ dám làm vậy là có nhiều lý do, nhưng có một lý do quan trọng là dựa vào dư luận xã hội, dư luận quốc tế, đặc biệt là cái loa chính nghĩa của cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Vì thế mới dám đòi hỏi quyền lợi của mình.
Cũng như thế, cái nhóm chống nghị quyết Mao-ít của Hồ, đều là những người “làm chính trị” chuyên nghiệp là đàng khác, đương nhiên họ phải tìm chỗ dựa trước khi chống nghị quyết 9! Ngay câu chuyện về Lê Liêm (nếu là có thực) cũng tìm Hồ làm chỗ dựa trước khi vào họp mới dám đưa ý kiến chống nghị quyết 9.
Vậy cái nhóm đó là ai? Xin thưa rằng, đó là Dương bạch Mai (coi như người cầm đầu), Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Lê Liêm, Nguyễn văn Vịnh, Đặng kim Giang, Hoàng minh Chính, Minh Tranh v.v…
Dương bạch Mai, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, ủy viên ban thường vụ quốc hội ngụy quyền Hà-nội, chủ tịch hội Việt-Xô, kẻ chỉ riêng trong những năm 1945-46, với cương vị phụ trách công an miền Nam, hắn đã giết biết bao người Việt Nam yêu nước; hắn đã tổ chức kế hoạch giết tập thể đồng bào miền Nam theo các đạo Cao-đài, Hòa-hảo, hàng chục ngàn người. Điển hình là mồ chôn tập thể hàng 4000 chức sắc và tín đồ Cao đài ở Quảng-ngãi, cũng như các mồ tập thể khác tại Trà-cao (Tây-ninh). Một con người như Dương bạch Mai thì dân chủ chỉ là chuyện chú Cuội.

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

Việt Thường

Bài 11.

Vì thế cho nên cái mà tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh gọi là “Vụ án xét lại chống đảng, làm gián điệp” không phải như sau này bị một số người diễn dịch thành “những người đòi hỏi dân chủ”.
Xin nhớ rằng, cái thời của những năm 60 đó, ngay những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản còn mơ hồ về khái niệm dân chủ. Còn những kẻ đã ở trong tổ chức mafia đỏ thì chúng chỉ hiểu và tranh nhau làm chủ dân mà thôi. Có kẻ thích mô hình “Nga-xô”, có kẻ muốn mô hình “Trung cộng”. Thích mô hình nào thì tìm chỗ dựa ở quan thầy đó. Dù là mô hình Nga-xô hay mô hình Trung cộng, thì cũng rất xa lạ với dân chủ hay đúng hơn là tuyệt đối không có dân chủ!
Và, ngay thời kỳ đó mà xét thì chỗ họ đã đứng và đang đứng vẫn là chống lại dân chủ. Và, nếu như họ có đưa ra yêu sách dân chủ thì cũng chỉ là cái cớ lật nhau, dành chỗ đứng cao ráo, béo bở hơn trong thang quan lại thực dân đỏ. Có vậy thôi!!!
Việc này được nêu ra là nhằm không muốn thế hệ con cháu chúng ta, cũng như một bộ phận không nhỏ nhân dân Việt Nam trong nước và ngoài nước lại bị quả lừa không cần thiết. Xin nhấn mạnh rằng mấy nhân vật tìm chỗ dựa ở Nga-xô khi đó để hy vọng ở thang bậc làm chủ dân cao hơn chứ không bao giờ bọn họ có ý niệm về xã hội công dân hoặc chế độ dân chủ đa nguyên như hiện nay. Bọn họ đều đổ nhiều công sức tâm huyết cho cái chế độ mafia đỏ đó và phần lớn đều vấy máu người Việt Nam nói chung, người Việt Nam yêu nước và yêu dân chủ nói riêng. Nhưng khi chia phần họ bị thiệt thòi nên bọn họ tìm chỗ dựa Nga-xô vì quyền lợi bản thân chứ không vì dân.
Cần phải minh bạch chuyện này để nhân dân Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai khỏi mang ơn những vị trời ơi đất hỡi vì bị thiếu thông tin.
Sau 1954, nhiều nhân vật mafia đỏ ở miền Nam ra Hà-nội, tưởng rằng với thành tích tiêu diệt những người không chấp nhận chế độ cộng sản (tức thực dân đỏ), đàn áp và tàn sát các giáo phái v.v… chắc sẽ được những địa vị quan trọng. Đó là: Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Dương bạch Mai v.v… Vì Dương bạch Mai tuy được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ nhưng chỉ được phân công là ủy viên thường vụ của quốc hội ngụy quyền Hà-nội, mà trong đó đã có Trường Chinh, Hoàng văn Hoan là các ủy viên chính trị bộ, lại thêm những bộ mặt có nanh có mỏ như Hoàng quốc Việt, Chu văn Tấn, Nguyễn thị Thập v.v… Mà, tức nhất là ngay Tôn quang Phiệt (dự khuyết trung ương mafia đỏ thôi) cũng ngồi cao hơn Dương bạch Mai một bậc, vì Phiệt là tổng thư ký của ủy ban thường vụ quốc hội mafia đỏ. Cho nên Dương bạch Mai, với tư cách chủ tịch hội Việt-Xô, hết sức phát triển hội cũng như kết thân với Serbakov, đại sứ Nga-xô khi ấy. Qua sinh hoạt hội Việt-Xô, Mai tụ tập được một số “bất mãn” vì thấy hạ phong so với những người “thành tích” mafia đỏ “còn kém mình”, và số khác bị kỷ luật, kiểu như Ung văn Khiêm, vì chuyện ồn ào đánh ghen ở đường Trần Quốc Toản (Hà-nội) cũng như đang giữ ghế bộ trưởng ngoại giao mà lúc quá chén lại bốc đồng khen lập luận đảng toàn dân của Khrút-xốp. Hay như Bùi công Trừng, một người tự coi là nhà lý luận mác-xít, là trí thức có hạng, vậy mà chỉ là ủy viên dự khuyết mafia đỏ kiêm phó chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước (ngụy quyền), thua xa lắc so với Tố Hữu. Cho nên Bùi cộng Trừng đã viết trên báo Nhân dân (Hà-nội) ca ngợi rằng chủ nghĩa Mác là một khoa học nên là người có học mới hiểu chủ nghĩa Mác. Và, thế là Lê Duẩn viết bài đập lại (cũng trên báo Nhân dân) ý rằng phải cần có lập trường vô sản thì mới hiểu nổi chủ nghĩa Mác!!! Bùi công Trừng bị điểm mặt từ đó.
Đại loại mọi việc như thế, chứ đâu nghĩ gì dân chủ!!!
Tụi mafia đỏ tự đội đảng mafia của chúng là đỉnh cao của trí tuệ. Mỗi tên mafia đỏ cũng đều tự tôn mình thành “siêu công dân”. Chính sự tự bơm đó đã làm chúng không biết chúng đang là “con cóc hay con bò” của Lafontaine.
Thằng nào viết sách cũng khuếch đại cái tôi lên vạn lần.
Bởi không đánh giá đúng bản thân nên bọn chúng rất chủ quan. Lại thêm cái máu Việt gian đậm màu thêm cùng với thời gian hoạt động cho mafia đỏ, nên chúng miệng nói “nhân dân là vô tận v.v…” nhưng chúng chỉ đi tìm chỗ dựa ở ngoại bang, vì chỉ có cấu kết với ngoại bang thì mới dễ đạt mục đích làm chủ của dân.
Thiếu tướng Đặng kim Giang (xuất thân cốt cán hệt như tướng Chu huy Mân, chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội trước cả Lê đức Anh) cùng được phong tướng với những tướng ngụy khác như Đỗ Mười, Phan trọng Tuệ, Nguyễn thanh Bình, Lê hiến Mai v.v… Trong khi Đỗ Mười thì leo lên tới phó thủ tướng; Phan trọng Tuệ cũng phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giao thông và bưu điện; Nguyễn thanh Bình là bộ trưởng bộ nội thương; Lê hiến Mai là phó chủ nhiệm tổng cục chính trị, núp dưới bí danh Dương quốc Chính còn là bộ trưởng đại diện chính phủ ở khu bốn. Ngay các đại tá thôi, như Hà kế Tấn cũng là bộ trưởng thủy lợi; đại tá Đàm quang Trung, tư lệnh khu bốn; đại tá Phùng thế Tài, phó tổng tham mưu trưởng kiêm tư lệnh và chính ủy bộ tư lệnh phòng không và không quân; đại tá Lê Hiền, tư lệnh bộ tư lệnh thủ đô Hà-nội; đại tá Vũ văn Cẩn, bộ trưởng bộ y tế. Và, cù lần như đại tá Nguyễn văn Quặn cũng giữ ghế phó chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao (trung tướng Hoàng văn Thái là chủ nhiệm). Thế mà tướng Đặng kim Giang chỉ được cái ghế thứ trưởng bộ nông trường!!!
Ông Vũ đình Huỳnh, thân phụ nhà văn Vũ thư Hiên, từ một người công giáo toàn tòng đã tham gia cộng sản từ rất sớm, khi bị giải lên nhà tù Sơn-la, cùng chung một còng với tên lang băm Xuân Thủy (sau 1954, Thủy được Hồ cho chức bí thư trung ương mafia đỏ). Năm 1945, khi Hồ được Võ nguyên Giáp mang trung đội vũ trang hộ tống về Hà-nội, Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ) được cử làm lái xe hơi kiêm đầu bếp của Hồ thì ông Vũ đình Huỳnh được cử là một trong những thư ký riêng của Hồ (vì Hồ có nhiều thư ký lắm kể cả Phạm huy Thông, khi Hồ qua Pháp mới tuyển dụng). Những người không u mê thì nghĩ rằng Hồ chọn một người công giáo toàn tòng làm thư ký riêng, nghĩa là loại tin cẩn, chỉ là một thủ đoạn chính trị, nhằm yên lòng giáo dân và đặc biệt để Hồ dễ ăn nói, gặp gỡ một nhân vật mà Hồ rất e ngại, kiêng nể là Đức cha Lê hữu Từ. Khi thủ đoạn đó xong, lên Việt-Bắc ông Vũ đình Huỳnh chỉ giữ chức vụ trưởng vụ lễ tân bộ ngoại giao cho đến ngày bị bắt. Hàm vụ trưởng đâu phải là một chức to tát gì đâu, cụ thể là chưa có tiêu chuẩn mua hàng ở cửa hàng Tôn Đản, mà chỉ mua ở cửa hàng Vân Hồ (nơi vợ tướng Trần Độ làm cửa hàng trưởng), hoặc ở Nhà Thờ, hoặc ở Nguyễn cảnh Chân, là 3 cửa hàng dành cho cán bộ mafia đỏ từ bậc chuyên viên 2, bậc thiếu tá, trung tá của lực lượng vũ trang và các cục, vụ trưởng. Trong khi đó, “lái xe” Nguyễn lương Bằng vừa được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ lại còn kiêm trưởng ban kiểm tra trung ương mafia đỏ, rồi còn lên phó chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội. Và, ngay Phạm huy Thông, dù can tội tặng tướng Võ nguyên Giáp một cặp sừng dê mà cũng là viện trưởng viện khảo cổ (cấp viện trưởng là ngang thứ trưởng) và có thẻ mua hàng ở Tôn Đản! Cho nên nói cho chính xác thì ông Vũ đình Huỳnh chỉ là một người tham gia tổ chức mafia đỏ của Hồ ở bậc cố cựu chứ chưa bao giờ được giữ chức vụ gì quan trọng cả, còn thua xa tên Tạ quang Chiến là lái xe kiêm dắt gái cho Hồ, sau ra làm tổng cục trưởng tổng cục thể dục thể thao.
Qua cái việc đề bạt nhân sự này, một lần nữa là bằng chứng cụ thể rằng Hồ luôn luôn là kẻ nắm quyền thực sự, chẳng ai khống chế được hắn.
Như đã trình bày ở trên, rằng cái hội Việt-Xô của Dương bạch Mai tỏa rễ rộng khắp mọi cơ sở hoạt động của xã hội miền Bắc khi đó, cho nên thành phần chống nghị quyết 9 cũng đa dạng, trong đó có thể có nhiều người chỉ muốn chống lại việc xích lại gần Ba Tàu cộng chứ không nghĩ đến hoặc không dám nghĩ đến việc chống Hồ. Nhưng, cái xuất thân của Dương bạch Mai cũng như quá trình hoạt động cho mafia đỏ với nhiều thành tích, rõ ràng có sáng giá hơn bọn Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng v.v…. đặc biệt là “thành tích” lừa đảo trong vụ tháng 8 năm 1945, cướp công của các tổ chức, nhân sỹ yêu nước, ở miền Nam Việt Nam, cũng như nhanh tay tiêu diệt các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo. Và, tham vọng lớn của Dương bạch Mai, nên hắn muốn thừa gió bẻ măng định làm đảo chính cung đình giống kiểu Khrút-xốp ở Nga-xô. Và, Dương bạch Mai đã tìm chỗ dựa Nga-xô, trực tiếp qua tên Serbakov.
Vì quá ham địa vị, lại tự hào về kiến thức và thành tích, Dương bạch Mai đã mờ mắt không nhận ra được vị trí quân cờ Hồ chí Minh trong thế chiến lược của Nga-xô. Vì thế mà Hồ được thông báo ngầm toàn bộ kế hoạch của Dương bạch Mai, trong đó sẽ lợi dụng họp quốc hội ngụy quyền Hà-nội, để làm cái việc như Khrút-xốp đã làm trong đại hội 20 của Nga-xô. Nghĩa là Dương bạch Mai sẽ tố giác “tệ sùng bái cá nhân Hồ” cũng như các tội ác của Hồ trong “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “nhân văn – giai phẩm”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” v.v…
Và, ngày 4-4-1964, tại cuộc họp quốc hội ngụy quyền Hồ chí Minh ở Ba-đình (Hà-nội), theo lịch trình thì sau giải lao giữa giờ là lời phát biểu của ủy viên thường vụ quốc hội Dương bạch Mai. Nhưng chuyện đó đã và sẽ chẳng bao giờ xảy ra, vì đang giải lao thì “chú” Dương bạch Mai được “bác” Hồ niềm nở mời uống ly nước và vài câu chuyện mưa nắng v.v… Rồi “chú” Dương bạch Mai đã gục chết trên ghế “đại biểu quốc hội”, nghe đoán là “chắc” bị ngộp tim, nhưng có mặt ở đó một loạt đại biểu có nghề bác sỹ như bác sỹ Trần duy Hưng, giáo sư bác sỹ Tôn thất Tùng, giáo sư bác sỹ Trần hữu Tước, bác sỹ Nguyễn tấn Di Trọng v.v…, nhưng chẳng ai muốn “bỏ nhiệm vụ đại biểu quốc hội” để làm “lương y như từ mẫu”. Và, sau đó là các đòn linh hoạt của me-xừ “sáu búa” Lê đức Thọ, người được Hồ giao cái việc “trông nom lũ gọi là cán bộ”! Mọi chuyện bắt bớ, tra hỏi, bỏ tù, đã có nhiều vị viết sách kể lể, hư cấu quá đầy đủ, cho đến tận bây giờ thì từ cái nội dung “chống nghị quyết 9” (tức thân Trung cộng), đã đổi màu thành đấu tranh đòi dân chủ!!! Sợ không, vì cái thời điểm đó ngay tại mẫu quốc đỏ là Nga-xô, sau cái gọi là đại hội 20 của Nga-xô, thì dân chủ vẫn là hai tiếng cấm kỵ, vậy mà mấy anh dân thuộc địa đỏ dám nói đến, trách nào chú Cuội cứ ở lỳ trên cung trăng, sợ xuống Bắc Việt Nam không có đất sống!!!
Chỉ có miền Nam Việt Nam, trước tháng 4-1975, mới có mầm mống và hơi hướng dân chủ mà thôi. Và vì thế, khi ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội vũ trang xâm lăng miền Nam xong, nụ cười chiến thắng trên môi chưa kịp tắt thì đã lung túng với cái tinh thần dân chủ của miền Nam Việt Nam, tuy còn non trẻ. Để rồi, sau này, khi những người miền Nam Việt Nam kiến lập được một cộng đồng người Việt hùng hậu ở nước ngoài, thì mới bắt đầu gọi là có “đấu tranh đòi dân chủ”, vì có chỗ dựa là cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Những người như ông Nguyễn Hộ, nhà thơ Bùi minh Quốc, nhà văn Dương thu Hương, Bảo Ninh, các linh mục Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan, rồi bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… mới không bị ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội nghiền nát thành “tương cự đà”. Và, rồi cũng từ lúc ấy, nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà tập thơ “Hoa địa ngục” của Nguyễn chí Thiện cho đến “Thiên đường mù”, “Bên kia bờ ảo vọng” của Dương thu Hương; “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh; “Gửi mẹ và quốc hội” của Nguyễn văn Trấn, Đoàn viết Hoạt v.v… và v.v… mới được thế giới biết đến để cho cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở Việt Nam bén rễ, nẩy lộc như hiện nay, đang được biết bao tầng lớp người dân Việt Nam tham gia ngày càng ngoan cường. Cuộc đấu tranh đó là của người dân chứ không phải là của những người đương chức đương quyền dù nhỏ hay lớn trong bộ máy quan lại của ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội.
Cũng chính cộng đồng người Việt ở nước ngoài đã điểm trúng huyệt “bách hội” của tập đoàn mafia đỏ Hà-nội. Đó là bằng công trình nghiên cứu khoa học của giáo sư Lê Hữu Mục, cộng đồng người Việt ở nước ngoài đã vạch mặt tên đạo văn Hồ chí Minh, khiến mấy me-xừ quan liêu ở cơ quan UNESCO phải rút lại cái danh hiệu “danh nhân văn hóa thế giới”, chút xíu vì lẩm cẩm đã tặng cho Hồ.
Nhờ cộng đồng người Việt ở nước ngoài, cái cộng đồng được hình thành vì bị mafia đỏ Hà-nội vũ trang xâm lược, tàn sát nên phải đi lưu vong, trong đó công lao góp cho mafia đỏ gieo rắc tai họa cho cộng đồng này không phải là ít, như ông Trần Độ chẳng hạn, nhưng mọi người vẫn đánh giá đứng mức những gì ông đang đóng góp hiện nay, khi ông bị “cách quan” để làm dân và đang hiểu phần nào thân phận người dân dưới sự cai trị của mafia đỏ (bởi ông Trần Độ vẫn chưa thấy cái sai trong việc theo lệnh Hồ, xâm lăng và tàn sát nhân dân miền Nam Việt Nam).
Đối với các ông như Hoàng minh Chính, Lê Giản, Hoàng hữu Nhân, Lê hồng Hà v.v…, cũng phải sau tháng 4-1975 nhiều năm, các ông đó mới thấy nhu cầu dân chủ cho đất nước, nghĩa là khi đã bị làm dân; còn nhận ra muộn hơn nhà văn Dương thu Hương, vợ chồng Lưu quang Vũ, nhà thơ Bùi minh Quốc v.v… và không sâu sắc như ông Nguyễn Hộ và Hà sỹ Phu (Nguyễn xuân Tụ). Còn một số khác thì cho đến chết vẫn nặng mùi cơ hội như bác sỹ Nguyễn khắc Viện hay giáo sư Trần đức Thảo, nhà thơ Vũ Cận v.v…
Vì lòng nhân ái, nhưng chủ yếu là thiếu thông tin, nên nhân dân Việt Nam cả trong và ngoài nước dễ bị lầm – nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại – nên cần cân nhắc cẩn thận khi đề cập đến một ai đó. Nghe nhưng phải kiểm tra, phải phân tích, đối chiếu. Tổ tiên ta đã căn dặn: “Yêu củ ấu cũng tròn, ghét bồ hòn cũng ngọt” là vậy, cũng như “nói vậy mà không phải vậy”! Không quên công lao những người đã và đang đấu tranh với ngụy quyền Hồ chí Minh, nhưng không thể không xem xét động cơ đấu tranh của họ là vì dân hay vì mình!
  Dù là vì dân hay vì mình mà đấu tranh chống mafia đỏ Việt Nam hiện nay đều đáng được ủng hộ mọi mặt, nhưng phải xem xét động cơ đấu tranh thì mới khỏi bị lặp lại cảnh “tránh vỏ dưa dẫm phải vỏ dừa” (như chuyện ủng hộ việc chống thực dân Pháp trước đây vậy).
Như thế sẽ có thể có câu hỏi đặt ra là: Những ý kiến của ông Nguyễn trung Thành về vấn đề này là thế nào?
Xin thưa rằng, ông Nguyễn trung Thành, trưởng ban bảo vệ đảng, từng là một cán bộ có giá dưới quyền Lê đức Thọ, và được giao giải quyết vụ này. Mấy năm gần đây, ông Nguyễn trung Thành có ý kiến đề nghị minh oan cho nhóm “chống nghị quyết 9” rằng họ vô tội, không có chuyện phản đảng và cũng không có chuyện làm gián điệp cho nước ngoài như cáo buộc trước kia. Ông Nguyễn trung Thành phải công khai hóa chuyện này vì cả mấy đời “tổng bí thư” đều không giải quyết. Không những thế, ông còn bị Đỗ Mười (từng bị điên) gọi ông lên nhắc khéo rằng ông đã đến tuổi “về hưu”. Nghĩa là chưa tiện nói hai tiếng “lẩm cẩm”, vì Mười còn hơn tuổi ông Nguyễn trung Thành.
Tại sao những người nắm quyền lực chính của mafia đỏ cứ lúng túng về chuyện này, trong lúc họ dám “chê trách” Lê Duẩn và Lê đức Thọ ở nhiều vụ việc khác, kể cả việc “cho Hồ ra rìa” như Lữ Phương trích ý của Vũ Kỳ – thư ký của Hồ – viết trên tờ Văn nghệ, hay “sửa di chúc của Hồ” và thay đổi cả ngày giờ ngủm củ tỏi của Hồ.
Chẳng có gì khó hiểu cả, vì tất cả các vụ việc đó đều do lệnh miệng của Hồ, nghĩa là Hồ bảo Lê Duẩn và Lê đức Thọ trừng phạt những ai dám đòi khôn hơn Hồ cản trở nước cờ đu dây của Hồ giữa Nga-xô và Trung cộng, đặc biệt dám đấu Hồ. Vì thế mà từ Trường Chinh cho đến Nguyễn văn Linh, rồi Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, và Nông đức Mạnh, đứa nào cũng cứ như “chó ăn vụng bột” mở mỏ nói không được. Vì nếu giải quyết vụ “án xét lại” có nghĩa là phải kết án Hồ, tức là tự tay đập nát cái thần tượng mà chúng đang núp sau để lừa thiên hạ.
Việc đơn giản như vậy mà các vị “xét lại” không nhìn ra vì hai tay các vị dù nhiều dù ít đã nhúng chàm “mafia đỏ”, nên có dám mở mắt để nhìn vào cái bản mặt Việt gian của Hồ chí Minh đâu, cho nên cứ chạy theo me-xừ “kiến đi kiện củ khoai”. Điều này càng chứng minh thêm sự tai hại ghê gớm của việc nhiều “ngòi bút chống đối” hiện nay ở trong nước vẫn u mê dựng ra “chủ nghĩa Hồ chí Minh” để chống tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ hiện nay mà chúng lại chính là sản phẩm đúng nhãn họ Hồ.
Bất cứ ai, đã nhiễm virus HIV mafia đỏ dương tính, thì dù có cả trăm bồ kiến thức như Trần văn Giàu, Dương bạch Mai, Bùi công Trừng, bác sỹ Nguyễn khắc Viện, thạc sỹ Trần đức Thảo v.v… hay cả ông Hoàng minh Chính, ông Trần Độ, ông Trần Khuê v.v… cũng chỉ nhìn được “một nửa sự thật”, hệt như mấy vị đã thoát hiểm ra nước ngoài, dù viết cả gần chục cuốn sách hay cả ngàn trang mà nhiều vấn đề vẫn chỉ càng thêm mơ hồ, thêm khó hiểu. Ngay như Lữ Phương, một cây bút được cả trong và ngoài nước cho là “có trình độ lý luận” mà cũng có lối giải thích rất ấu trĩ. Lữ Phương nâng Hồ lên “… là nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20”. Nào là Hồ đã: “Tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập, thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam”. Nghĩa là Lữ Phương thừa nhận:
1- Hồ là người tổ chức cuộc chiến đấu chống cả thực dân Pháp lẫn cả Mỹ (theo lối nói của mafia đỏ gọi Mỹ là thực dân mới);
2- Hồ đã lãnh đạo để “hoàn thành độc lập, thống nhất” tức là sau khi Hồ chết (9-1969), cái gọi là “độc lập, thống nhất” được thực hiện vào 30-4-1975 cũng là công lao của Hồ, có nghĩa là Hồ chết rồi, nhưng bọn Lê Duẩn vẫn làm theo lệnh của Hồ từ trước đó;
3- Hồ cũng là người “thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam”. Như thế có nghĩa là theo ý Lữ Phương thì không chỉ với phía Bắc Việt Nam mà ngay miền Nam Việt Nam bị khoác cho cái gông “chủ nghĩa xã hội hiện thực” cũng là công của Hồ.
Vơ tất cả mọi công lao cho Hồ, vinh danh Hồ đến tột cùng như thế mà Lữ Phương lại dám “đau xót cho Hồ là bị cho ra rìa”. Chỉ tính từ nghị quyết 9, có nghĩa từ năm 1963, theo Lữ Phương, Hồ đã bị “cho ra rìa” rồi thì làm sao Hồ có thể tổ chức chiến đấu chống Mỹ mà hoàn thành độc lập, thống nhất để thiết lập chế độ XHCN hiện thực ở Việt Nam là chuyện của 4-1975!!! Học hành lý luận kiểu đó, trách nào mà chẳng “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” để đến nỗi “canh bạc chính trị” trốn ra bưng năm 1968 (là năm ngụy quân Hồ chí Minh gây ra vụ thảm sát ở Huế) vẫn đánh cây bài “chính phủ lâm thời”, đến nỗi cháy túi, mà bây giờ vẫn còn chưa tỉnh!!!
Thôi thì cất bút cho rồi
Càng lý luận, càng lòi đuôi: nịnh thần!!!”

Cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng” của những năm 1960 không có tiếng vang trong nhân dân miền Bắc Việt Nam khi ấy, vì nó chỉ là phản ứng trong nội bộ mafia đỏ của một thiểu số thân Nga-xô, hoàn toàn không phải là phong trào của nhân dân và khởi xuất từ nguyện vọng của nhân dân. Cho nên không được đa số nhân dân là nông dân biết đến và ủng hộ, vì thế nó như hoa phù dung, “sớm nở tối tàn”.
Người trung thực phê phán vụ bắt bớ này là ông Nguyễn trung Thành. Việc làm của ông thật đáng kính trọng. Đúng là gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng, cần phải nhớ rằng sự trung thực của ông Nguyễn trung Thành đã giúp vén bức màn về “vụ án xét lại chống đảng”. Rằng: “Không có bằng chứng đây là một tổ chức, có điều lệ, cương lĩnh và v.v…” Chính nhận xét đó của ông Nguyễn trung Thành đã chứng minh rằng nhóm bị kết án trong “vụ xét lại chống đảng” là một bộ phận quan trọng đầu não của hội Việt-Xô. Ông Nguyễn trung Thành không nhìn ra được rằng hội Việt-Xô là tổ chức của họ và điều lệ của hội Việt-Xô là cương lĩnh của họ. Bởi vì hành động phản đối nghị quyết 9, là nghị quyết thân Trung cộng, có nghĩa là họ bảo vệ Nga-xô như mục đích việc hình thành hội Việt-Xô cũng như điều lệ của hội Việt-Xô vậy. Còn cái gọi là “làm gián điệp cho nước ngoài” là ý nói rằng một số trong bọn họ như Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Nguyễn văn Vịnh, Bùi công Trừng, Lê Liêm v.v… dự họp trung ương mafia đỏ nên biết những chuyện như Trường Chinh, thay mặt bộ chính trị, tuyên bố rằng: “Đường lối đối nội và đối ngoại của đảng ta (tức mafia đỏ Việt Nam) hoàn toàn thống nhất với đường lối đối nội và đối ngoại của đảng cộng sản Trung quốc”. Cũng như việc bọn Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan qua Trung cộng bàn về việc cho ra đời cái gọi là “quốc tế mới (Mao-ít)”, tất cả đều báo cáo lại cho viên tình báo Serbakov, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nga-xô tại Hà-nội lúc đó. Hơn nữa, cái tội danh “gián điệp” là bổn cũ của Hồ và đồng bọn, cho đến nay là họ Nông, dùng để gán tội cho những ai bất đồng với chúng.
Đứng ở góc độ của người dân miền Bắc Việt Nam khi ấy, thì cuộc đấu đá giữa “xét lại” (thân Nga-xô) và “giáo điều” (thân Trung cộng) đúng như được phản ảnh qua bức hí họa trên tờ Nouvel Observateur, là trên bộ mặt của Mác râu ria xồm xoàm, một mắt bên trái (tức tả khuynh) là đầu Mao trạch Đông và mắt bên phải (tức hữu khuynh) là đầu Brê-giơ-nép đang chửi nhau qua cái sống mũi của Mác. Nghĩa là tụi có quyền dựa vào quan thầy tranh ăn với nhau nhưng cả hai phe đều là con đẻ của cộng sản. Bây giờ có đủ bằng chứng để kết luận rằng cộng sản = mafia đỏ. Còn thân phận người dân vẫn là lao động “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm chủ nhật”, còn vẫn chỉ được ăn “rau muống” như đề nghị của bác sỹ Nguyễn khắc Viện, hoặc “ăn 7kg lá khoai mỳ thay cho 1kg thịt bò” như phổ biến của ủy ban khoa học nhà nước, hoặc “ăn thai nhi và nhau đẻ” như phổ biến của ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em, do đích thân Phạm văn Đồng, thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban!!! Chưa ai nghe nói rằng cái nhóm đó đòi hỏi chút tự do, chút miếng ăn cho người dân. Có thể là họ còn “để bụng” đến những năm gần đây mới “bật mí” cho dân được sung sướng bất ngờ?(!)
Từ sau 30-4-1975, sau khi mafia đỏ đặt ách thực dân đỏ lên miền Nam Việt Nam, thì lối sinh hoạt và sản xuất của miền Nam Việt Nam; nền văn hóa, văn nghệ hòa hợp với nhân gian của miền Nam Việt Nam; tự do tín ngưỡng, đi lại, lập hội, ra báo của miền Nam Việt Nam trước kia và v.v…, đã đánh thức người dân miền Bắc Việt Nam (trong đó có cả các văn nghệ sỹ và những người trong “vụ án xét lại chống đảng” bị đẩy khỏi cung đình quan lại mafia đỏ Hà-nội để làm dân) khỏi giấc mộng du trong con hẻm bùn lầy XHCN của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Chỉ khi đó người ta mới thấy nhu cầu dân chủ và đấu tranh cho dân chủ, nhất là sau khi hình thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại và sự sụp đổ của hệ thống XHCN, đặc biệt là Nga-xô, mẫu quốc đỏ của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh.
Cũng xin lưu ý rằng, hiện nay có một số cán bộ lão thành của mafia đỏ Hồ chí Minh lên tiếng vạch mặt bè lũ tham nhũng, đĩ bợm, bán nước trong ngụy quyền cộng sản Hà-nội. Họ hoàn toàn không dính dáng gì đến nhóm những người trong “vụ án xét lại chống đảng”. Thí dụ như các ông Nguyễn văn Đào, Hoàng hữu Nhân, Lê Giản v.v… Đặc biệt là nhóm quá khứ là công an như Lê Giản, Chu định Xương và Hoàng Đạo v.v… đã bị “cho ra rìa” từ trước và sau 1954. Bởi vì những người đó không thích hợp cho bộ máy chuyên chính của họ Hồ sau khi Hồ đã đặt được ách trị lên đầu người dân miền Bắc Việt Nam. Đối với Hồ, họ là quả chanh đã bị vắt kiệt nước thì phải quăng đi. Thí dụ: Lê Giản, Chu định Xương đã dàn dựng vụ án “Ôn như Hầu” năm 1946 ở Hà-nội, để bôi nhọ VNQDĐ. Hay Hoàng Đạo (nguyên trưởng ty công an Thanh-hóa) cùng đệ tử là Nguyễn kim Sơn (anh ruột bác sỹ Nguyễn ngọc Hà, trong tổ chức Việt gian ở Pháp, trước 1975) đã hoàn thành vụ đánh đắm chiếc tàu thủy của Pháp. Những năm 1960, họ vẫn cứ mang cái “mác” công an để ra các quán bia hơi ở Cổ-tân, Quan-thánh v.v… (tất cả đều ở Hà-nội) hù mấy anh chàng xã viên hợp tác xã, có tiền, đễ uống bia gỡ, suốt từ 10 giờ sáng cho đến 6-7 giờ tối. Sau 1975, Hoàng Đạo và Kim Sơn còn mò vào tận Sài-gòn để mang lại cái “mác” công an đi lừa đảo, kiếm ăn cũng khấm khớ. Ngay Kim Sơn, chí ít cũng lừa được 4 cái vi-la: một cho con trai, một cho bản thân, hai cho các em trai.
Ngày nay, đứng ở vị thế “làm dân”, không làm quan đã lâu, nên họ mới ngộ cái nghiệp làm dân mà đứng lên nói được mới một chút sự thật mà thôi, và do khí thế đòi dân chủ, đòi quyền làm người nói chung, họ mới bắt đầu “chống mafia đỏ”!
Xin đừng lẫn lộn với những người như ông Nguyễn Hộ hay những người như các nhà văn Dương thu Hương, Lưu quang Vũ, Phùng gia Lộc, nhà thơ Bùi minh Quốc, phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu), ông Vũ cao Quận, đại tá Phạm quế Dương v.v… là những người thực sự tỉnh ngộ cơn ác mộng XHCN và đấu tranh cho dân chủ, tuy ở những mức độ khác nhau.
Còn những loại như bác sỹ Nguyễn khắc Viện là nhân vật cơ hội điển hình và đệ tử ruột là Vũ Cận (dù là có tập thơ “chống chế độ”, khoe là bí mật viết từ lâu). Những ai đọc và biết về hai nhân vật này, đều thấy họ là cái chong chóng, thổi mạnh là quay như đèn cù! Còn thạc sỹ Trần đức Thảo thì vì “luyện học thuyết Mác” mà ăn thịt cóc nên bị “tẩu hỏa nhập ma”, chẳng có ích gì cho dân tộc cũng như bản thân. Cái đáng trách nhất là ông ta đã để mafia đỏ dùng vào việc “đấu” ông Hà sỹ Phu trên báo Nhân dân, cơ quan nói láo của mafia đỏ!!!
Những người đấu tranh cho dân chủ mãnh liệt nhất chính là nông dân, như ở Đồng-nai, Thanh-hóa, Thái-bình v.v… vì họ ở vị trí dân thứ thiệt, chứ không phải là loại “quan bị cách” nên bật lò-xo, hoặc đánh cá độ “phe này phe kia”, và một bộ phận nữa là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nói chung.
Nêu lên những sự thật mắt thấy tai nghe nói trên, người viết chỉ muốn minh bạch mọi việc, để sau này có ai soạn lại lịch sử Việt Nam tránh bị lẫn lộn cảnh “râu ông nọ cắm cằm bà kia”!

Sự Tích: Con Yêu Râu Xanh ở Việt Nam

Việt Thường

Bài 12. Xin nói tiếp về nghệ thuật đu dây của họ Hồ

Sau khi Dương bạch Mai đi tàu suốt đến ga “âm ty” và để Lê đức Thọ sửa gáy tất cả những ai dám bảo lưu ý kiến về “nghị quyết 9”, Hồ cho gọi Nguyễn văn Kỉnh, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, đang làm nhiệm vụ đại sứ ở Nga-xô về giữ ghế chủ tịch hội Việt-Xô, kiêm phó ban đối ngoại trung ương, phụ trách thường trực (Nguyễn duy Trinh, ủy viên chính trị bộ là trưởng ban kiêm phó thủ tướng, phụ trách bộ trưởng ngoại giao). Như thế có nghĩa Hồ đã làm yên lòng mẫu quốc đỏ Nga-xô, vì vị trí của Nguyễn văn Kỉnh quan trọng hơn Dương bạch Mai nhiều và cũng là người được Nga-xô hiểu và tin hơn.
Tháng 10-1964, lại có đảo chánh cung đình ở Nga-xô, Brê-giơ-nép thay cái ghế của Khơ-rút-xốp. Lê Duẩn mà có người “hư cấu” là thân Trung cộng, theo lệnh Hồ cầm đầu đoàn “cái bang” sang Nga-xô xin viện trợ cho kế hoạch tăng cường thâm nhập miền Nam Việt Nam. Và, tại đại hội lần 23 của Nga-xô, Lê Duẩn còn công khai tuyên bố: “Liên-xô là tổ quốc thứ hai của chúng tôi”!!!
Thử đặt câu hỏi: “Chúng tôi là ai”? Xin thưa: Như thế có nghĩa là: Toàn thể tập đoàn mafia đỏ Việt Nam mà họ Hồ là đầu lãnh chóp bu (chủ tịch đảng). Khác với lời tuyên bố của Vũ đình Liệu, năm 1978, là chủ tịch Sài-gòn, khi thăm Lê-nin-grát chỉ nói rằng: Liên-xô là tổ quốc thứ hai của tôi, và chuyến đi này là hành hương về thánh địa”!!!
Hồ không ra mặt tuyên bố là còn để mở lối đi lại với “anh hai Trung cộng”. Hơn nữa, câu đó Hồ đã nói từ khi mang cái tên Nga – Line – và Hồ thường gắn vào mọi nghị quyết của mafia đỏ là: “Phải bảo vệ Liên-xô, thành trì cách mạng thế giới”, cũng như khi còn rúc đầu ở hang Pắc-bó (Cao-bằng), đã gọi dòng suối chảy qua cửa hang là Lê-nin. Thật quá đủ diện mạo của Hồ là thật lòng với ai và giả dối với ai.
Lập luận cho Lê Duẩn là thân Trung cộng, rồi vì Mao chơi kẻ cả nên Duẩn tự ái ngả sang Nga-xô, chỉ dựa theo tên thò lò cơ hội Trần Quỳnh, thì đúng như lối nói ở miền Nam là: “chơớc quơớc”!
Nên nhớ rằng, mặt của tụi đầu đà mafia đỏ, từ Hồ cho đến nay là bè lũ Nông đức Mạnh, dày như da tê giác, trơ như thớt chặt thịt quay của các tiệm ba Tàu ở Chợ-lớn. Lũ vô liêm sỉ đó chỉ quan tâm đến quyền lợi của chúng, ở cái ghế ngồi của chúng mà thôi. Chúng tự cao chỗ này, tự ti chỗ kia, đâu biết tự ái!
Ai đã biết thằng Trần Quỳnh rồi thì chẳng bao giờ nghe nó nói, đọc nó viết. Còn chót đọc của nó viết rồi thì nên quên đi cho vệ sinh bộ nhớ!
Hồ ngồi ở Ba-đình giật dây: Lê Duẩn khúm núm với Brê-giơ-nép, còn phía “anh hai Trung cộng” thì đã có Hoàng văn Hoan ăn nằm thường trực cùng với những yêu cầu về súng, đạn của Nguyễn chí Thanh từ miền Nam Việt Nam tới tấp gửi ra. Hoan và Thanh mới chính là hai tên thân Trung cộng thứ thiệt. Hoan thì khoái gái Tàu và đồ ăn Tàu và rượu Mao-đài. Còn Thanh thì thích “uống máu dân” như Trung cộng và lúc nào cũng gồng mình, gân cốt như mấy võ sinh ở Thiếu-lâm-tự vậy. Sự sốt sắng của Thanh là vì muốn “vĩ đại” hơn Võ nguyên Giáp. Nhưng còn một lý do thầm kín nữa là Thanh muốn Hồ quên cái tội của Thanh khi bị mật thám thực dân Pháp bắt đã khai tùm lum, làm tan tổ chức mafia đỏ ở Khu 5, nhưng Thanh lại “vu” cho Đặng xuân Thiều (anh em họ của Trường Chinh) là kẻ khai báo. Hồ biết cái tội đó của Thanh nên mới dùng Thanh để cân bằng với Giáp (bị tù cũng khai báo và làm đơn xin khoan hồng). Vì thế mới gần như cùng lúc Hồ phong cho một cử nhân luật, giáo sư sử học là “đại tướng tổng tư lệnh”, thì cũng cho làm “tướng bốn sao” một anh chàng trên mức đọc thông viết thạo, kiêm chủ nhiệm tổng cục chính trị. Nghĩa là bên chuyên bên hồng (như kiểu ở xe hơi thì bên là động cơ phát lực di động, bên là cái thắng) như thế mới an toàn cho Hồ cầm bánh lái lực lượng vũ trang. Cho nên đến tận ngày Hồ chết, không bao giờ Hồ nghĩ đến việc ban cho Giáp cái quân hàm “nguyên soái”!!!
Tội ác của Nga-xô và Trung cộng đối với nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam Việt Nam nói riêng cũng “vĩ đại” ngang nhau. Đó là việc bọn chúng đào tạo ngụy quân, trang bị hiện đại cho chúng và khuyến khích chúng lập thành tích tàn phá tài nguyên, tàn sát nhân dân Việt Nam càng nhiều càng tốt. Cho nên bất cứ nhóm nào chỉ chống Trung cộng mà thân Nga-xô hay ngược lại, không thể được coi là hành động vì dân vì nước.
Chỉ có người dân mới sáng suốt nhận diện được cả ba kẻ thù là: Nga-xô, Trung cộng và tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh.
Những thành phố lớn như Hà-nội, Hải-phòng, Nam-định, từ thuở đó đã xuất hiện những bài “đồng giao”, trẻ con tụ tập hát như:
“Ông Liên-xô
Bà Trung quốc
Ông đi guốc
Bà đi giầy
Ông nhảy dây
Bà bắn súng
Ông khen: đúng
Bà chê: sai
Bỏ cả hai
đúng nhất!”

Hoặc thơ ghế đá:
“Họ Hồ có cái mặt mo
Bắc-kinh xin đổi ba bò, chín trâu
Hồ rằng Hồ chẳng lấy trâu
Nga-xô xin đổi một xâu cá mè
Hồ rằng Hồ chẳng lấy mè
Bắc-kinh xin đổi một bè gỗ lim
Hồ rằng Hồ chẳng lấy lim
Nga-xô xin đổi đôi chim đồi mồi
Hồ rằng Hồ chẳng lấy mồi
Bắc-kinh xin đổi máu tươi: Hồ cười
Nga-xô thêm “tý” thịt người Việt Nam
Mặt mo! Hồ đúng Việt gian!!!”

Thế là Lê Duẩn thì đóng vai cánh tay phải của Hồ, nắm chặt tay “anh cả Nga-xô”. Lê Duẩn còn đặt vào cái ghế đại sứ ở Nga-xô một nhân vật “lạ kỳ về sự thân tín” của Duẩn, đó là Nguyễn thọ Chân. Cho đến tận 1960, anh chàng Nguyễn thọ Chân này, cũng như tụi mafia đỏ khác, sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, tập kết ra Bắc, vẫn còn nằm trong ẩn số. Hắn làm thường trực, tức gác cửa ở văn phòng bộ Lao động. Một hôm Lê Duẩn đến bộ Lao động, nhìn thấy Nguyễn thọ Chân, hỏi tại sao lại làm “gác cửa” ở đây. Chân đáp là do “tổ chức” sắp xếp. Vài ngày sau, Nguyễn thọ Chân được Lê Duẩn gọi lên gặp Hồ. Và, sau đó thì “tự dưng” được đề bạt thành “ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ” và cầm quyết định ra làm bí thư tỉnh ủy Quảng-ninh (tỉnh biên giới với Tàu), thay cho Hoàng Chính, một người gốc Nùng, thân Trung cộng và là đệ tử ruột của Trường Chinh. Sau đợt gọi là dẹp yên nhóm chống đối nghị quyết 9, Nguyễn đức Tâm, từng là phó cho Hồ viết Thắng trong cải cách ruộng đất, khi sửa sai bị “lột chức” dự khuyết trung ương mafia đỏ, nhưng lại về làm tổng cục trưởng tổng cục vật tư, nay ra thay Nguyễn thọ Chân làm bí thư tỉnh ủy Quảng-ninh. Tại cái đất mỏ than này, Nguyễn đức Tâm đã phát hiện ra hai con “gà nòi” mafia đỏ để đào tạo. Đó là tên Phạm thế Duyệt, tham nhũng “một cây”, và tên nữa là Vũ Mão. Đến thời Nguyễn văn Linh, Nguyễn đức Tâm vọt lên ngồi vào cái ghế của Lê đức Thọ, tức là trưởng ban tổ chức trung ương. Điền này càng chứng minh việc họ Hồ “nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất” chỉ là một thủ đoạn chính trị lưu manh mà thôi. Còn Nguyễn thọ Chân, được Hồ phong cho chức ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, để qua Nga-xô làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền.
Và, kẻ đóng vai tay trái của Hồ là Trường Chinh, thì luôn luôn tỏ ra Mao-ít, với bài nói gay gắt trong cái gọi là “đại hội các nhà văn”, tức lũ bút nô, và bài báo sặc mùi “công xã” trên báo Nhân dân, phê phán việc “khoán sản phẩm” đến các hộ nông dân của Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy của mafia đỏ ở Vĩnh-phú, và Kim Ngọc bị lột chức, ngồi chơi cho đến chết. Hoàng văn Hoan, một kẻ được Trung cộng hết lòng tin cậy, từ Bắc-kinh về Hà-nội để có mặt đều đặn trong các cuộc họp chính trị bộ, nhằm làm Trung cộng an tâm là không có bàn thảo gì bậy bạ sau lưng “anh hai Trung cộng”. Cái ghế đại sứ ở Bắc-kinh được trao cho một đàn em thân tín của Trường Chinh. Đó là trung tướng Trần tử Bình, nguyên tổng thanh tra ngụy quân cộng sản, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ. Bình là gốc công giáo, “tu xuất”, gia nhập mafia đỏ cùng thời với ông Vũ đình Huỳnh!
Nhân sự do Hồ bày biện xong xuôi, thế là từ Nga-xô lũ ngụy quân học lái máy bay, điều khiển ra-đa, tên lửa; ngụy quân lái xe tăng, công binh, vũ khí hóa học trở về, cũng như máy bay Mic-17 và tên lửa Sam ào ào đổ vào cho Hồ; cùng vài phi đội Mic-21 với phi công Nga-xô và Bắc-hàn. Nhiều nhân viên dưới quyền Trần quốc Hoàn, bộ trưởng công an, được đưa qua học nghề gián điệp tại Cu-ba và Đông-Đức cũng trở về. Lũ mafia đỏ ở miền Nam tập kết ra Bắc trước đây, được tập hợp, đào tạo lại tại Thái-nguyên để cho thâm nhập miền Nam Việt Nam. Nhân sự miền Bắc trong các ngành giao thông vận tải, bưu điện – truyền thanh và thương nghiệp cũng được tổ chức qua Lào nắm các công tác chuyên môn, kể cả các chức vụ trưởng ty của tỉnh. Bộ công nghiệp được Hồ thổi phồng lên thành ủy ban nông nghiệp trung ương, vì nó có nhiệm vụ quản lý cả ngành nông nghiệp không chỉ của “toàn Việt Nam” mà là của toàn Đông-dương. Nào là kế hoạch trồng ngô trên cao nguyên Bô-lô-ven, cũng như kế hoạch nuôi bò giống ở Ba-vì (Sơn-tây) sản xuất tinh viên đủ để cải tạo đàn bò của cả Việt Nam, Lào và Miên!!! Hồ đích thân cưỡi trực thăng đi thăm trại bò giống, và sau đó thì lại đẻ ra trò hưởng thụ mới, nghĩa là ngày ngày máy bay trực thăng lên trại bò sữa Sơn-la hoặc Ba-vì chở sữa tươi về cho Hồ và lũ đầu đà trong tập đoàn Việt gian của Hồ uống.
Trong lúc mà những bà mẹ “công nhân” thiếu sữa cho con bú, phải ra phòng thương nghiệp ngồi chờ vài tiếng đồng hồ để nhân viên thương nghiệp ra bóp vú, nếu thấy quả là không có sữa mới cấp tem cho mua hai hộp sữa đặc, nhãn hiệu “ông Thọ”, nhiều khi đã quá hạn. Con bú hết, muốn xin mua tiếp, người mẹ lại phải ra cho thương nghiệp “bóp vú lại”. Cứ như thế cho đến lúc đứa bé đủ mười hai tháng tuổi thì coi như hết tuổi bú sữa!!!
Việc viện trợ quân sự của “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” là giúp Hồ vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam cho có hiệu quả, nên mọi yêu cầu sự giúp đỡ cụ thể từ phía Trung cộng là do Nguyễn chí Thanh đề xuất, kể cả việc xin Trung cộng cho công binh qua làm đường để chuyển vận chiến cụ. Được Hồ bật đèn xanh, “anh hai Trung cộng” khoái lắm, kéo lính ào ào sang, mang theo gạo, thịt, đường, sữa, thuốc lá “Trung hoa bài”, “Đại tiền môn”; bơ “Mông cổ”, thịt hộp v.v… và tiến hành vừa làm đường, vừa làm “dân vận” theo kiểu Tống Giang ở Lương Sơn Bạc. Nghĩa là ở các cung đường, công binh Trung cộng xây các quán “bát giác” để một thùng trà tàu loại ngon, lúc nào cũng nóng và đầy, cùng rất nhiều ca tráng men để cho khách qua đường dừng chân vào nghỉ, thoải mái uống trà “chùa”. Đã thế lại còn có lính Trung cộng khoác áo trắng, đeo khẩu trang sẵn sàng hớt tóc, cạo râu “free” cho bất cứ ai có yêu cầu. Trên bàn cạnh thùng trà là báo ảnh của Trung cộng đầy ắp, sách đỏ, trích dẫn lời của Mao, in bằng giấy xịn và bìa có vỏ bọc ny-lông màu đỏ. Rồi đủ loại huy hiệu có hình Mao và cờ Trung cộng, có cái to bằng lòng bàn tay người lớn. Người vào quán được lính Trung cộng lễ phép, niềm nở tiếp, rót nước, tặng báo ảnh, sách đỏ của Mao và gắn huy hiệu của Mao rồi mới hớt tóc, cạo râu.
Người dân Việt Nam, dù bị tới ba tầng thống trị là Nga-xô, Trung cộng và tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, mặt mũi khù khờ, nhưng có nhiều đòn hiểm làm lũ thống trị đau như hoạn mà không kêu ai được. Họ đua nhau xin báo ảnh, sách đỏ của Mao và huy hiệu. Tụi Trung cộng hí hửng tưởng người dân Bắc Việt Nam cũng có máu Việt gian như tập đoàn Hồ cho Minh nên bị “bé cái lầm”. Người ta lấy báo ảnh của Tàu về để nhóm bếp, để dán lên vách nứa chống gió, xe lại như điếu thuốc lá rồi lấy dây luồn qua làm mành mành che cửa. Sách đỏ thì lột vỏ bọc làm “ví đựng tiền hay thuốc lào”, giấy thì để quấn “thuốc rê”. Huy hiệu của Mao thì trẻ con dùng đánh đáo, đánh cờ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ v.v… Và, người qua đường khỏi nói, dân quanh đó đua nhau ra lấy trà về uống thừa mứa còn dùng rửa đít cho trẻ em bị hăm bẹn hoặc người lớn ngâm chân chống nước ăn chân (vì trà có nhiều chất “tan-nanh” làm khô da). Và, thừa cơ là “mượn dài hạn” các ca tráng men, thậm chí còn rinh cả thùng nhôm đựng trà. Người ta đến đó cho lính Trung cộng hầu hạ, cắt tóc, cạo râu, cạo mặt và cứ “tả cố, tả cố” (tức đại ca) hoặc “thổng trủ” (tức đồng chí, thế mà mấy anh lính mắt một mí tít cả hai mắt lại, và mấy chú nhỏ nhanh hơn sóc đã nẫng gọn bộ đồ nghề hớt tóc. Vài tháng đầu, bọn lính Trung cộng còn “hào phóng”, mất thì thay cái mới vì cho rằng dù sao đó cũng là sản phẩm “tuyên truyền Mao-ít” vì từ ca uống nước, thùng đựng nước v.v… cái gì cũng có hình Mao và cờ Trung cộng, theo kiểu lý thuyết Paplov thì nó sẽ định hình trong vỏ não người dân Việt Nam hình ảnh phốp pháp, bụ bẫm của “bác Mao”. Chỉ mãi sau nhờ có Hoa-kiều cho tin “tình báo” rằng thùng nước, nếu bằng nhôm, thì được phá ra đúc “chắn bùn” hoặc “chắn xích” xe đạp; nếu bằng tôn thì được phá ra làm máng nước v.v… nghĩa là “đầu bác Mao” ở những thùng đó bị thủ tiêu không kèn không trống! Thế là, sau đó hậu duệ của quân lính Tô Định, Mã Viện v.v… đành cử người gác ban ngày, nhưng vẫn cẩn thận có xích, có khóa để khóa thùng nước vào cột lầu, khóa cả vào thùng nước, chiều tối thì khiêng về doanh trại. Còn sách báo, huy hiệu và chuyện hớt tóc thì bỏ luôn. Thế là đang “dân vận” thành “dân hận”!!!
Lính Trung cộng còn có những trò hề hết sức ấu trĩ nữa. Như doanh trại của chúng thường nuôi vịt. Lũ vịt này ra ruộng của hợp tác xã rúc chân lúa. Đại diện hợp tác xã đến doanh trại của chúng khiếu nại. Thế là chỉ huy của Trung cộng sai lính ra đuổi bắt đàn vịt về chặt đầu kỷ luật, lấy cọc chọc vào “đầu lâu vịt” đem ra cắm ở bờ ruộng!!! Tất nhiên thịt vịt thì chúng ăn. Đúng là quái thai của thế kỷ 20!!! Đầu mối mọi con đường bộ do công binh Trung cộng làm đều tập trung về ga Yên Viên (Đông-anh), cách trung tâm Hà-nội chưa đến 30km. Một số người lo cho vận nước, đi tham quan những con đường đó đều thấy dã tâm của Trung cộng, khi cần thiết, chúng có thể rất nhanh chóng đổ quân ào vào Hà-nội. Chúng còn cớ làm đường, đào bới những vùng cho tới tận núi Diều ở Ninh-bình, rào kín cấm qua lại cứ như là đất của Trung cộng vậy.
Và từng đoàn, từng đoàn xe tải loại 5 tấn, bạt che kín, không biết chở những gì từ những chỗ đào bới đó về Tàu. Nhiều người dân cho rằng bọn chúng sang đào những kho vàng bạc mà trước đây chúng chôn giấu thời Việt Nam bị Bắc thuộc cả ngàn năm. Nhiều hang động vùng Ninh-bình, Thái-nguyên, Bắc-cạn, Tuyên-quang, Lạng-sơn, Cao-bằng bị chúng phá tanh bành. Tụi điên Bắc Việt Nam thấy lính Trung cộng của Mao còn có phần điên hơn. Lúc nào cũng tụng sách đỏ của Mao. Mặt mũi lúc nào cũng đăm chiêu cứ như “hiền triết phương đông” vậy! Phải cho đến cái ngày máy bay Mỹ bắn phá ga Bắc-giang (Bắc Việt Nam), lính Trung cộng hiên ngang không thèm xuống hầm, giở sách đỏ của Mao ra tụng rồi đứng bắn máy bay Mỹ. Kết quả, máy bay Mỹ phóng cho mấy quả rocket mà đã chết hàng đống, bấy giờ con cháu họ Mao mới biết thế nào là “lễ độ”. Dân Việt Nam được mẻ cười “bể bụng”. Người ta chẳng những chẳng xót thương “các đồng chí nước bạn” mà nhiều người còn công khai nói: “Mong cho đế quốc Mỹ bắn chết mẹ nó hết cái lũ quỷ này đi!”
Những chuyện chơi khăm và chửi Trung cộng như thế hầu như chẳng ai là không biết. Vậy mà chẳng ai bị công an hỏi thăm sức khỏe. Điều đó chứng tỏ, khi Hồ còn sống, và sau khi Trường Chinh bị Hồ tước mất cái chức “tổng bí thư” thì đã chịu khuất phục Hồ và đóng đúng vai kịch mà Hồ phân công.
Chỉ cho đến lúc Nguyễn chí Thanh đưa đề nghị đem hết ngụy quân ở Bắc vào miền Nam Việt Nam, còn miền Bắc nhờ Trung cộng đưa quân sang “bảo vệ” hộ, thì Hồ mới phải đi nước cờ quyết định. Đó là, trước buổi đi vào Nam trở lại, Nguyễn chí Thanh được Hồ gọi ăn cơm tối cùng Hồ. Sau bữa cơm tối, ngày 6-7-1967, về thì Nguyễn chí Thanh chết, tương tự như cái chết của Dương bạch Mai vậy. Và, sau đó, đích thân Hồ yêu cầu Trung cộng rút công binh về nước. Và, Trung cộng đành rút quân, nhưng làm những trò rất bần tiện, như san bằng, đốt cháy hết doanh trại. Các giếng nước đều lấp hết. Chặt từ gốc chuối chặt đi, nghĩa là làm kiểu “không ăn thì đạp đổ, phá cho bõ ghét”!!!
Cái chết của Nguyễn chí Thanh làm Trung cộng đau lắm. Trong chính bộ mafia đỏ, không kể Hồ, Nguyễn chí Thanh xếp hạng thứ sáu (sau Giáp). Ấy thế mà đích thân cả Mao và Lâm Bưu cùng đến sứ quán ngụy quyền Hồ chí Minh ở Bắc-kinh đặt vòng hoa và nghiêng mình viếng. Còn sau này, Hồ chết, Mao và Lâm Bưu chỉ cho thư ký riêng mang vòng hoa viếng đến sứ quán mà thôi!!!
Những người cho rằng Hồ bị nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ khống chế từ khoảng 1955-56 chỉ là tưởng tượng. Vì giai đoạn đó chưa có dấu hiệu gì tỏ ra nhóm Lê Duẩn trên cơ ngay cả Trường Chinh chứ đừng nói gì đến Hồ. Ngay cả sau đại hội 3 (1960) của mafia đỏ, nhiều người còn lẫn lộn cả danh xưng của Lê Duẩn, họ viết rằng Lê Duẩn được bầu là “tổng bí thư”. Điều đó là sai hoàn toàn. Trong đại hội 3 (1960) của mafia đỏ, Hồ chính là người giới thiệu danh sách chính trị bộ gồm 11 người, giới thiệu ban bí thư và giới thiệu Lê Duẩn vào chức “bí thư thứ nhất” để cho ban chấp hành trung ương bầu. Tất nhiên tất cả đều diễn ra đúng như ý Hồ, kể cả cái thứ tự trong bộ chính trị không kể Hồ, như Giáp thì ở dưới Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ ở hàng thứ 7 và Hoàng văn Hoan ở hạng chót. Cứ nghe cái danh xưng cũng đủ thấy rằng “bí thư thứ nhất” không thể bằng “tổng bí thư”. Nghĩa là ngôi vị của Lê Duẩn không thể so được với ngôi vị của Trường Chinh trước đó. Vì hiểu ý đồ của Hồ, nên nếu tham khảo lại các báo Nhân dân sau đại hội 3 mafia đỏ thì sẽ thấy một “chi tiết” để chứng minh điều trên. Đó là tại các cuộc mít-ting hay cuộc họp, dù có mặt Lê Duẩn, Trường Chinh chỉ nói: “Kính thưa Hồ chủ tịch”, còn sau đó chỉ gọi chung: “Thưa các đồng chí”. Dù Lê Duẩn đã được chính thức hóa qua đại hội 3 mafia đỏ, để thành nhân vật số 2, vậy mà Trường Chinh còn “coi thường” Lê Duẩn, nghĩa là tận năm 1960. Thế thì làm sao trước đó lại có thể có cái chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ “khống chế quyền lực” của Hồ.
Chuyện hành lang sau này lộ ra, cho biết Hồ đã “phê bình” Trường Chinh về chuyện coi thường Lê Duẩn, nghĩa là không tuân phục tổ chức. Thì sau đó, Trường Chinh bắt buộc phải đả động đến Lê Duẩn, nhưng lại nói: “Thưa đồng chí Lê Duẩn, bí thư thứ nhất ban chấp hành trung ương đảng”. Có nghĩa là Trường Chinh ”thưa” Duẩn vì cái chức “bí thư thứ nhất” chứ không phải con người Lê Duẩn và hoàn toàn không có chữ “kính” như đối với Hồ, khác hẳn với tính cách hèn hèn của Võ nguyên Giáp, bao giờ cũng lễ phép: “Thưa đồng chí Lê Duẩn kính mến; thưa đồng chí Trường Chinh kính mến”!!!
Hồ bắt Trường Chinh phải “tôn trọng” Lê Duẩn cũng chẳng phải ưu ái gì Lê Duẩn. Mà Hồ không cho phép được lộn xộn với những sự sắp xếp của Hồ mà thôi.
Chính vì thế mà Hồ ra khẩu lệnh trấn áp nhóm gọi là “xét lại chống đảng”, vì Hồ không chống nghị quyết 9 thì đúng ra tất cả phải răm rắp tuân theo Hồ. Có thể Hồ tha thứ khi thảo luận mà có ý kiến này nọ về nghị quyết 9. Còn đã chống, bị thiểu số mà “vẫn bảo lưu ý kiến” thì đồng nghĩa là chống lại Hồ đến kỳ cùng. Một kẻ tàn bạo, tự tôn và độc tài như Hồ, tất nhiên hắn phải trấn áp. Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ mà thôi. Chẳng khác gì trong vụ bà địa chủ yêu nước Nguyễn thị Năm, chủ đồn điền Đồng-bẩm (Thái-nguyên) bị tử hình. Hồ chỉ ra lệnh giết cái chỉ tiêu 5% dân số nông dân là địa chủ, không trực tiếp bảo giết bà Nguyễn thị Năm. Nhưng khi Hoàng quốc Việt (thường trực ủy ban cải cách ruộng đất) xin Hồ xét lại công lao của bà Nguyễn thị Năm thì Hồ từ chối, nói là cứ làm theo “cố vấn Trung cộng”. Nghĩa là cứ làm thịt bà Nguyễn thị Năm. Hồ rất thâm độc, vì nếu Hồ can thiệp thì chính là Hồ tự trói tay mình. Cho nên vụ bà Nguyễn thị Năm được làm ngay đầu tiên ở đợt gọi là “thí điểm”! Các đội cải cách thấy rằng, đến bà Nguyễn thị Năm là người có ơn không chỉ với Hồ và với toàn thể đầu lĩnh mafia đỏ chóp bu mà vẫn để cho “nông dân cốt cán” giết thì, ngoài Hồ ra, chẳng ai đáng kể. Vì thế mới có chuyện ở Hành Thiện, đội cải cách cho lệnh bắt cả bố đẻ của Trường Chinh và còn đòi Trường Chinh phải về quê cho “cốt cán” hỏi tội liên quan với địa chủ cường hào. (Về chuyện này có người lầm rằng Trường Chinh đã đấu cả bố đẻ. Họ lầm như vậy chẳng hóa ra Trường Chinh thẳng thắn “pháp bất vị thân” hay sao?(!)). Và, đấy cũng là ý đồ của Hồ, muốn rằng: “rễ cốt cán” sửa gáy tất tật những ai có chức, có quyền. Kẻ chết, hay tù thì thôi, kẻ thoát nạn thì tởn đến chết, hoặc theo Hồ ngoan ngoãn như bầy cừu, hoặc trốn vào vùng của Quốc trưởng Bảo Đại, càng tốt. Vì điều đó “chứng minh” họ là “phản động nằm vùng” thật (có ai biết rằng chính Hồ đẩy người ta phải đi tìm đường sống).
Hiện nay không có chút gì khó khăn để tìm đọc lại những số báo Nhân dân hay xem lại những thước phim tài liệu và thời sự của thời kỳ trước vụ Tết Mậu Thân (1968). ở đó có đủ chứng cớ để thấy Hồ vẫn là kẻ chủ mưu trong vụ xâm lăng đó. Những người hư cấu chuyện “Hồ bị ra rìa” kể cả Lữ Phương, đều gắn Hồ và Giáp cùng một phe và bị phe Lê Duẩn, Lê đức Thọ chèn ép, đến mức vụ Mậu Thân (1968) Hồ chỉ làm nhiệm vụ “thâu băng” bài thơ chúc tết, còn thì không biết gì cả, chưa cần sử dụng đến nhiều tài liệu trên báo Nhân dân và phim tài liệu, thời sự, chỉ cần lấy một tin trên báo Nhân dân có tường thuật vài tháng trước Tết Mậu Thân (1968), Hồ đã sang sân bay Gia-lâm thăm lính ngụy trong đơn vị tên lửa và không quân để động viên tinh thần chiến đấu của bọn chúng. Tháp tùng Hồ có nhiều bộ mặt ác ôn, trong đó có Võ nguyên Giáp và Tố Hữu. Chuyện kể lại dưới đây, không đăng trên báo nào cả, nhưng nó lại được kể ở hầu hết các tòa soạn báo, đài và cả ở các quán cà-phê, quán bia hơi ở Hà-nội. Đó là khi nghe tin Hồ đến thăm đơn vị, lính ngụy trong binh chủng phòng không, không quân vừa đi học ở Nga-xô về, ào ào chạy ra chẳng có hàng ngũ gì cả. Từ tư lệnh binh chủng cho đến tụi bảo vệ, cho đến Tố Hữu, Văn tiến Dũng đều vây quanh để “bảo vệ” Hồ, trong khi Võ nguyên Giáp cầm loa điện cầm tay gào lên: “Yêu cầu trật tự”, mà lính ngụy cứ lờ đi. Hồ bèn giật lấy loa trên tay Giáp và hô: “Nghiêm”. Theo “phản xạ lính”, tất cả đứng nghiêm. Hồ lại hô to: “Tất cả xếp hàng, năm hàng dọc!” Bọn lính vội xếp hàng. Hồ hô tiếp: “Nghiêm!”, rồi lại hô: “Nghỉ!”; và cuối cùng Hồ hô: “Nghiêm! Đằng sau quay! Đều bước!” Bọn lính ngụy răm rắp làm theo. Bấy giờ Hồ cười cười quay lại bảo Giáp: “Chú là đại tướng thế mà không biết điều khiển lính!”
Một tên gián điệp lão luyện, phản ứng rất nhanh như Hồ, ăn nói với phó thủ tướng, bộ trưởng, đại tướng như nói với thằng nhỏ, con sen như vậy, liệu có thể là kẻ để cho Lê Duẩn không chế không?
Có một điều nữa mà các nhà “hư cấu” quên. Đó là ai ai cũng biết rằng bày binh, bố trận và điều khiển toàn bộ cái gọi là “tống tấn công và nổi dậy” của Tết Mậu Thân (1968) là do Võ nguyên Giáp chỉ huy. Nếu Giáp đã cùng phe với Hồ thì tại sao Giáp lại đi với Lê Duẩn và Lê đức Thọ để chơi gác Hồ, không cho Hồ biết gì caû. Như thế là Giáp theo phe Lê Duẩn rồi còn gì nữa. Hơn nữa cái kế hoạch về Tết Mậu Thân (1968) đó, đâu phải là chuyện hai ba ngày hay hai ba tuần, mà phải chuẩn bị chí ít là cả năm!!!
Có thể nói rằng, ý đồ của Hồ muốn chiếm được miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân (1968) là chính. Hồ tưởng rằng sau vụ tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, miền Nam bị khủng hoảng chính trị, các tướng lãnh thay nhau cầm quyền, chưa ổn định, là thời cơ thuận lợi cho Hồ sớm được làm chủ tịch cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Cho nên cái “tổng tấn công và nổi dậy” là ý kiến của Hồ và khẩu khí của Hồ, rất ăn khớp với “thi hứng” của Hồ trong sáng tác bài vè chúc Tết Mậu Thân (1968). Võ nguyên Giáp chỉ là kẻ thừa hành về kế hoạch quân sự, còn Lê Duẩn là về mặt chính trị, nghĩa là chỉ đạo cái xứ ủy mafia đỏ ở miền Nam (hay còn gọi là đảng nhân dân cách mạng) làm cái việc tổ chức cho nhân dân vùng dậy!
Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh quá chủ quan. Ấy là miền Nam Việt Nam còn đang bị khủng hoảng chính trị mà tụi chúng còn bị ôm đầu máu. Và, nhân dân miền Nam Việt Nam thì chỉ có số ít đầu trâu mặt ngựa nghe chúng xúi dại “ăn cứt gà sáp”, và một số “trí thức yêu bánh vẽ” là tụ họp đánh võ mồm rồi trốn ra bưng!
Từ ngày có mafia đỏ Hồ chí Minh, thì rõ ràng chỉ có những quân nhân tiền thân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa là đích thực chống mafia đỏ bảo vệ đất nước và dân tộc Việt Nam. Chính cái lực lượng này, trong chiến tranh thì đem sinh mạng, máu thịt, hạnh phúc gia đình, tuổi trẻ, sức khỏe, hiến dâng cho Dân tộc và Tổ quốc. Sau khi bị mafia đỏ xâm lược, đặt ách cai trị thì cũng cái lực lượng này bị tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh trả thù tàn bạo không chỉ cá nhân mà cả gia đình. Sống thì tù đày, chết thì bị san bằng mồ mả. Và, cho đến nay thiệt thòi nhất vẫn là những quân nhân anh hùng đó bị tàn phế, còn kẹt lại ở trong nước, tiếp tục bị phân biệt đối xử và trấn áp không chỉ cá nhân mà hệ lụy đến cả gia đình, con cái.
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là ân nhân, là chỗ dựa tin cậy của đất nước và nhân dân Việt Nam, đã và vẫn sẽ là chủ lực trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của nước Việt Nam dân chủ.
Những người Việt Nam đấu tranh cho dân chủ, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng như các thế hệ Việt Nam hiện nay và sau này không thể không ghi nhớ trong tâm khảm những con người anh hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hiện đại. Đó là các thiếu tướng liệt sỹ Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng; các chuẩn tướng liệt sỹ Trần Văn hai, Lê Nguyên Vỹ; đại tá liệt sỹ Hồ Ngọc Cẩn; trung tá liệt sỹ Nguyễn văn Long v.v…; cũng như các vị liệt sỹ Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch v.v…; và các vị tử vì đạo như cụ bà Nguyễn Thị Thu, Phật tử Hồ Tấn Anh v.v…
Để giấy bút viết về những người đó, để lòng quý mến, yêu thương tưởng niệm những người đó hơn là “đi tỵ nạn cộng sản” mà phúng điếu, thương khóc những tên cộng sản nằm vùng, trong khi thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt ở Việt Nam thì phải ăn xin, bị phân biệt đối xử; các người đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho dân chủ bị khủng bố, bị tù đày v.v…, còn bọn chúng, như tên Trịnh công Sơn là một ví dụ, sống thì ở vi-la trên con phố của quan lại đỏ cao cấp; uống rượu tây, đi nước ngoài như đi chợ; chết thì các đầu lãnh chóp bu mafia đỏ ở trung ương như Võ văn Kiệt (tác giả nghị định 31/CP), Phan văn Khải v.v… gửi điện chia buồn, gửi hoa phúng điếu; và chóp bu mafia đỏ ở Sài-gòn là Nguyễn minh Triết đích thân đến ngồi bên quan tài!!!
Thất bại của Tết Mậu Thân (1968) là nguyên nhân để Võ nguyên Giáp không chỉ bị Hồ hết tin cậy “cái tài cầm quân” mà còn bị phe Lê Duẩn coi thường, kể cả các cấp dưới của Giáp như Văn tiến Dũng, Chu huy Mân.
Với Hồ, hắn choáng váng, không hy vọng gì sẽ được làm chủ tịch của cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Tên mật thám già xuống tinh thần và hắn quay lại với “tử vi”. Bởi đã một lần hắn tự bấm tử vi và đoán trúng là sẽ thành công lúc 55 tuổi (tức 1945), như Võ nguyên Giáp có nhắc đến trong cuốn “Những năm tháng không thể nào quên”. Trong thư viện quốc gia và cả thư viện khoa học xã hội ở Hà-nội, bao nhiêu sách về tử vi bị mượn dài hạn. Người ký tên mượn là Vũ Kỳ, thư ký riêng và tin cẩn của Hồ. Và, cũng cái năm 1968 đó, hoạt động của các tôn giáo như Phật giáo và Công giáo lại phục hồi. Người ta công khai đi lễ Nhà Thờ, đi lễ Chùa, lập bàn thờ ở gia đình, bày ảnh cha, chồng, con em theo Hồ đi ăn cướp ở miền Nam Việt Nam bị giết chết “bất đắc kỳ tử”, nhiều đứa bị mất xác. Thế là không chỉ lễ bái mà cả “gọi hồn” và “lợi dụng” tụ họp làm giỗ “liệt sỹ” để chè chén! Làm sao ngụy quyền Hồ chí Minh giải quyết được chuyện đó bằng biện pháp “chuyên chính”, bởi nhân sự ngay của cái gọi là cơ quan chuyên chính của Hồ cũng là nạn nhân của Hồ trong kế hoạch xâm lăng miền Nam Việt Nam. “Sinh Bắc tử Nam”, thực sự là nỗi lo sợ, ám ảnh mọi gia đình có con cái ở tuổi trưởng thành. Cũng từ đó bắt đầu có chuyện “trốn lính” nên có pháp lệnh ban hành luật “nghĩa vụ quân sự”. Nhưng, cái “luật nghĩa vụ quân sự” này bị phá ngay từ ở bậc hành chính cơ sở (tức huyện, xã). Con em, hoặc họ hàng xa gần của tụi mafia đỏ mafia đỏ ở cơ sở cũng bị bắt lính, và cái gương “ôm đầu máu” của Tết Mậu Thân khiến chúng lo sợ tìm cách “tập thể” trong đường dây trốn lính. Tỷ dụ như khi khám nghĩa vụ, họ đánh tráo người không đủ cân, chiều cao mà đội khám không thể nhận diện được vì có sự đồng lõa của chính “công an xã”, “chủ tịch xã” xác nhận kẻ “đánh tráo” là đương sự thứ thiệt!!! Đường dây đồng lõa lên tới tận cấp huyện. Cho nên nhân viên của “tỉnh đội dân quân tự vệ” về xã bắt những kẻ trốn lính mà có khi kẻ trốn lính đứng ngay trước mặt cũng đành chịu, chưa nói đến là họ báo động cho nhau bỏ trốn từ xã nọ sang xã kia! Đâu cũng có tình trạng trốn lính, nhưng nổi tiếng nhất là tỉnh Hà-tây (do hai tỉnh Hà-đông và Sơn-tây bị nhập làm một), có tên là “Hà lùi”!
 


  

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website