CHÍNH KHÍ VIỆT

Friday, November 17, 2017

(CHƯƠNG 10, 11, 12) Chuyện Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh

Chuyện Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh
 
 
 
TRÙM MAFIA VIỆT NAM BỊ QỦY SỨ ÁP TẢI VÀO HỎA NGỤC (Phạm Văn Đồng)
(Bài 10)
 
 

Phạm Văn Đồng, một trùm mafia Việt Nam, một cánh tay đắc lực thực hiện những tội ác của Hồ Chí Minh đối với nhân dân và đất nước Việt Nam, vừa chết như một con chó già. Trong các trọng tội của Đồng thì, tội thay mặt Hồ và tập đoàn mafia cộng sản tiếm quyền, ký giấy dâng đất cho Trung-cộng, gồm các đảo Trường-sa và Hoàng-sa vào ngày 14-9-1958, là ghê tởm nhất. Bởi trong lịch sử Việt Nam, chưa một tập đoàn cầm quyền nào lại dám làm cái việc dâng đất cho nước ngoài để đổi lấy sự ủng hộ và vũ khí nhằm giết dân, phá hoại môi sinh nước mình vì lợi ích của một ngoại bang khác. Đó là bán đất cho Trung-cộng để thực hiện chiến lược bá quyền của Nga-sô !
Phạm Văn Đồng quê ở Quảng Ngãi, sinh năm 1905, xuất thân gia đình quan lại. Thuở trẻ, Đồng theo học tại trường Albert Sarraut ở Hà-nội và đậu tú tài phần thứ nhất thì bỏ học. Đồng học ở A. Sarraut cùng thời với mấy ông hoàng người Lào thuở đó là Su-va-na Phu-ma va Su-va-na Phu-vông, và có biệt hiệu là "Đồng cháy", vì da đen.
Thoạt kỳ thủy Đồng chịu ảnh hưởng của các phong trào yêu nước của Cần Vương, Văn Thân, Đông Du v.v... cùng lúc do học ở A. Sarraut nên Đồng cũng nhiễm tư tưởng cấp tiến trong các tác phẩm của Voltaire, J.J. Rousseau; chủ nghĩa nhân đạo của Owen v.v... Chỉ đáng tiếc cho nhiệt tình yêu nước đó, khi đã nhiễm HIV cộng sản dương tính, thì Đồng trở thành mất sức đề kháng của người thanh niên yêu nước.
Tổ tiên ta đã dạy :"Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Quả rằng từ lúc Đồng qua bên Hoa-lục và gặp Hồ Chí Minh thì cái phần yêu nước chân chính trong người Đồng đã bị tiêu diệt bởi ma khí và tà thuyết của Hồ. Cái bản lãnh của chàng thanh niên Tây-học Phạm Văn Đồng đã bị Hồ Chí Minh và cái gọi là chủ-nghĩa Marx-Lénine hủy diệt, để thay thế vào đó sự ngu xuẩn, tàn bạo, vô liêm sỉ, của tên mafia cuồng tín.
Hồ rất tin Đồng. Ngược lại, Đồng luôn kính cẩn và tuyệt đối trung thành với Hồ như con chó berger trước chủ vậy.
Khi bằng lừa dối, tiếm được quyền cai trị thì Hồ giữ ghế chủ-tịch nước kiêm thủ-tướng và trao cho Đồng cái ghế phó thủ-tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao. Đến 1956 thì Đồng được Hồ ban cho cái ghế thủ tướng chính phủ.
Về phương diện chính quyền, Đồng là người phát ngôn của họ Hồ. Về mặt đảng mafia, Đồng luôn luôn là nhân vật thứ ba (không kể Hồ) trong bộ chính trị mafia; là quả cân phụ mà Hồ dùng khi cần điều chỉnh sự thăng bằng giữa bên tả và hữu của bộ chính trị. Nói một cách khác, Đồng là lá phiếu, là người phát ngôn của Hồ trong những trường hợp Hồ không muốn lộ ý kiến công khai trong các cuộc họp chính phủ hoặc họp đảng mafia (nhất là họp bộ chính trị).
Cái chết của Đồng chắc chắn được bọn trùm mafia đỏ Việt Nam hư cấu cho một tiểu sử lê thê đủ thứ thành tích này nọ, hệt như mỗi lần có một trùm trong bọn chúng chết. Và, lũ bồi bút, lũ sử nô của chúng sẽ dựa vào đó mà ra công sơn mạ theo kiểu vàng Mỹ Ký ! Nhưng vải thưa chẳng thể che mắt thánh, nên dưới đây là những sự thật mà bồi bút và sử nô mafia đỏ né tránh.
Trường hợp của Phạm Văn Đồng thì đó là :
Năm 1945 về đến Hà-nội, Đồng chọn vợ là con gái chủ tiệm kem Long Vân ở Bờ Hồ, Hà-nội, một gia đình giàu có ở Hà-nội lúc ấy, cùng lúc Hồ ăn nằm tại nhà đại phú Trịnh Văn Bô ở phố Hàng Ngang để soạn... tuyên ngôn độc lập, trong đó có phần trích dẫn từ tuyên ngôn của nước Mỹ. Viết và làm như vậy nên tên bài Tây Hồ Chí Minh và đệ tử đã lừa được... gần cả nước Việt Nam khi ấy, lẫn chàng sĩ quan tình báo của Mỹ : Patti.
Khi chính phủ Liên Hiệp kháng chiến chống Pháp rời Hà-nội lên Việt Bắc, Phạm Văn Đồng đã phạm một tội nặng : hắn đã cưỡng bức một cô học sinh trong đoàn học sinh miền Nam ra thăm miền Bắc năm 1946, rồi vì chiến tranh nên cả đoàn cũng sơ tán lên Việt Bắc. Vợ Đồng bắt được quả tang, làm ầm lên. Bảo vệ của Đồng đã bắt bà ta nhốt lại nên bà ta bị điên. Mọi người chỉ biết vợ Đồng bị điên, nhưng ít người biết nguyên nhân khiến bà ta bị điên.
Sợ tai tiếng cho đệ tử ruột nên trùm mafia đỏ Hồ Chí Minh trực tiếp can thiệp. Hắn cho cô bé học sinh tội nghiệp đó qua Nga-xô học. Nhưng vừa tới đất "Hưá" của mafia đỏ quốc tế thì cô bé học sinh đó bị tai nạn xe hơi chết không kịp trối trăng điều gì. Từ đó, một Phạm Văn Đồng tươi tỉnh của thuở ở hội nghị Fontainebleau (1946) nhường chỗ cho một Phạm Văn Đồng lúc nào cũng cáu kỉnh, lầm lì như "chó thiến bị nhét mảnh chai vỡ". Người thì nói Đồng vì buồn chuyện vợ bị điên, kẻ thì thầm thì rằng Đồng vẫn còn đau khổ vì cái chết của cô bé học sinh miền Nam, được ban "quốc tính" họ Hồ, có đôi mắt nai tơ, làn da trắng mịn, cặp mày lá liễu và vành môi không thoa son mà lúc nào cũng đậm màu hoa đào Nhật-tân.
Ngày 1-1-1955, tại cuộc mít-tinh đầu tiên do mafia đỏ tổ chức trước Nhà Hát Lớn của Hà-nội, Phạm Văn Đồng hoàn toàn đánh mất vẻ sắc xảo khi còn ở trường A. Sarraut, hào hứng tranh luận rất thông minh về Bossuet, về bài thơ "A une jeune morte" của Ronsard v.v... để ngây ngô đến đần độn của một nhân vật võ công tà phái bị cấy "sinh tử phù" trong chuyện chưởng, dám phát biểu, đại ý :"Sau khi họp hội nghị ở Genève, đoàn chúng tôi về qua Liên-sô, được đồng chí Malenkov giao nhiệm vụ là miền Bắc Việt Nam chỉ cần trồng chuối và săn hổ đổi cho Liên-xô là cả miền Bắc Việt Nam no đủ." Rồi Đồng hỉ hả cười trước và tự vỗ tay mừng rỡ một cách chân thật. Giờ đây, đố ai tìm thấy bài nói chuyện đó của Đồng, cũng như bài nói của họ Hồ liền năm đó, khi hắn đến thăm trường nữ học Trưng Vương, rằng :"Bỏ cái áo dài đi. Trong nó vừa ẻo lả, vừa yếu đuối. Vải may một áo dài này có thể may được hai áo cánh."
Trông mặt mũi có vẻ "ngầu" nhưng Đồng thực sự là loại tầm gửi, không dám quyết định cái gì lớn mà chỉ thừa hành ý kiến của Hồ. Khi Hồ chết thì Đồng làm vừa lòng cả Lê Duẩn, Trường Chinh lẫn Lê Đức Thọ.
Có những chuyện tưởng như đùa mà là thực trăm phần trăm. Như chuyện vợ của bí thư tỉnh ủy Hà-tây, Bạch Thành Phong, là hiệu trưởng trường trung học thị xã Hà-đông, ỷ thế chồng, đã chửi và tạt tai một giáo viên dưới quyền. Các giáo viên dưới quyền phẫn nộ làm đơn tập thể gửi lên Phạm Văn Đồng. Thế là Đồng về họp với Ty giáo-dục Hà-tây, ra lệnh cách chức mụ hiệu trưởng. Chưa đầy 3 tháng sau, nhân hội nghị tỉnh đảng bộ mafia đỏ của Hà-tây, Bạch Thành Phong cho tay sai đề cử vợ hắn vào chấp hành tỉnh đảng bộ và hắn chỉ đạo để vợ hắn không những trúng cử mà còn được phân công là trưởng ban tuyên huấn tỉnh đảng bộ. Nghĩa là mất chức hiệu trưởng của một trường trong thị xã Hà-đông thì chưa đầy 3 tháng sau mụ ta phụ trách chỉ đạo cả 3 ty : giáo dục, y tế và văn-hóa thông-tin của toàn tỉnh Hà-tây ! Phạm Văn Đồng được cho biết chuyện đó, nhưng lờ đi, vì... Bạch Thành Phong là đệ tử ruột của Trường Chinh !
Lại một chuyện khác, xảy ra ở phân xã nhiếp ảnh, Việt Nam thông tấn xã ở Hà-nội. Được tin Phạm Văn Đồng đến thăm và nói chuyện với phân xã nhiếp ảnh, Hoàng Tuấn, Tổng giám đốc Việt Nam thông tấn xã và Hoàng Tư Trai, giám đốc phân xã nhiếp ảnh họp toàn cơ quan trước, ra lệnh rằng sau khi Đồng nói, không ai được phát biểu gì mà để "lãnh đạo phát biểu thay"(?). Khi Đồng đến, thao thao bất tuyệt nào là "kiên cương"với "tiên lên" (vì Đồng nói như Tây nói tiếng Việt, không có dấu, và các bài nói của Đồng ở chỗ nào cũng hay động viên 'kiên cương' với 'tiên lên'). Rồi Đồng hỏi :"Co đông chi nao co y kiên không?" Mọi người im lặng một lát. Bỗng phóng viên ảnh Xuân Bảo đứng dậy báo cáo rằng :"Lãnh đạo dặn không ai được nói với thủ tướng." Đồng đang cười mỉm, sầm mặt lại. Một mụ nhân viên mới từ vùng mỏ Hồng-quảng chuyển về, nhanh nhẩu đứng dậy :"Báo cáo thủ tướng, Xuân Bảo là phần tử lạc hậu của cơ quan đấy ạ!" Đồng trừng mắt :"Chị là người xấu, đồng chí Xuân Bảo là người tốt vì đã dám báo cáo sự thật cho thủ tướng biết!" Cả hội trường im phăng phắc. Bỗng Đồng ngửa mặt cười "chua chát" rồi hằm hằm ra về. Ngay hôm sau, phóng viên ảnh Xuân Bảo bị cơ quan Thông Tấn Xã cho nghỉ việc với lý do : Vô Kỷ Luật. Phóng viên Xuân Bảo chạy lên phủ thủ tướng cầu cứu Phạm Văn Đồng nhưng... Đồng không tiếp và cũng không... giải quyết. Xuân Bảo đành chạy về Văn phòng Quốc hội, đón xe ô-tô của Trường Chinh để khiếu nại. Trường Chinh đề vào đơn của Xuân Bảo "Chuyển anh Tô giải quyết" (Tô là bí danh của Đồng). Sau đó, án kỷ luật của Xuân Bảo được đổi thành "Mất sức cho hưu non" và cho một số tiền bằng 12 tháng lương chính. Thế là người hùng năm 1945, đã cắm cờ ở tòa đốc lý Hà-nội, là thương binh trong chiến tranh chống thực dân Pháp, là đảng viên mafia đỏ (đảng viên trơn), là phóng viên ảnh bậc 5, là người đã bám trụ ở cầu Long Biên ngày máy bay Mỹ ném bom phá xập cầu, là người được Đồng "tuyên dương" là "người tốt" trước hội nghị toàn cơ quan Thông Tấn Xã bị đá một cái để thành một xã viên hợp tác xã !!! Một phần vì cả Hoàng Tuấn lẫn Hoàng Tư Trai là đệ tử của Trường Chinh, nhưng cái chính yếu là tập đoàn lãnh đạo mafia đỏ không muốn khuyến khích cấp dưới tố giác cấp trên. Theo Hồ và bọn tay chân :Đó là mầm loạn. Cấp dưới chỉ được khuyến khích phục tùng tuyệt đối dù là mù quáng.

Lại một chuyện khác xảy ra ở cảng Hải-phòng. Đó là tình trạng mất cắp một cách trắng trợn, vì kẻ lấy cắp chính là lũ quản lý và bảo vệ cảng. Các cá nhân và đơn vị có hàng bị mất khiếu nại khắp nơi và Phạm Văn Đồng, nhân danh thủ tướng chính phủ trực tiếp xuống cảng Hải-phòng kiểm tra. Hết làm việc với đảng ủy rồi lại đến ban giám đốc, sau cùng Đồng họp với cán bộ công nhân viên, kêu gọi tinh thần bảo vệ hàng hóa ở cảng. Thế là người tốt lại bị quả lừa. Một bác công nhân già, từng làm ở cảng Hải-phòng từ thời thực dân Pháp, buồn bã phát biểu, đại ý :"Thưa thủ tướng, tôi là công nhân cảng từ khi tròn 18 tuổi, đến nay đã hơn 50 tuổi. Chưa bao giờ tôi thấy làm ăn tắc trách như bây giờ. Vừa ăn cắp, vừa phá hoại công khai, bởi vì họ hầu hết là người có quyền lớn cả về đảng lẫn chính quyền. Ai mà nói ra là bị trù ém. Thời thực dân Tây cũng không bao giờ có tình trạng như vậy, thế mà nay nhờ 'Bác' và đảng, ta làm chủ mà hóa ra thành ăn cắp của nhân dân. Ai không ăn cắp bị gọi là ngu lâu, bị cách ly và bị đặt đủ thứ tên để chê bai. Thế là thế nào? Kính xin báo cáo lên thủ tướng để giải quyết." Nghe nói vậy, Đồng đứng trân trân như trời trồng, "ứa nước mắt" lắc đầu ra về. Trước khi ra khỏi hội trường, Đồng gọi bác công nhân già bảo ra xe cùng Đồng về Hà-nội, đồng thời cho lệnh đưa cả gia đình bác công nhân đó về Hà-nội. Vì, như Đồng nói :"Đồng chí ấy và gia đình mà còn ở cảng chắc sẽ gặp nạn"(?).
Câu chuyện trên được một số bút nô mafia đỏ tô vẽ rằng "Đồng rất tâm lý, rất tình người". Thực ra không phải vậy. Mà vì Đồng từng cặp kè với Hồ những ngày Hồ còn phải lang thang bên Tàu, hiểu rõ mọi ngón nghề của tên bài tây chính trị, tên mafia đỏ quạch Hồ Chí Minh và cái đảng mafia do hắn lèo lái thực chất là một tập đoàn ăn cắp, ăn cướp, lưu manh lừa đảo tụ họp nhau, núp dưới tên đảng chính trị, thoa son yêu nước để ăn cắp và ăn cướp của toàn dân, phá hoại toàn bộ tài nguyên của đất nước. Cho nên chuyện ăn cắp ở cảng Hải-phòng là cái tất yếu của việc "trồng cây nào hái quả đó" mà thôi. Vì thế mà Đồng phải lờ đi, cũng như việc đưa gia đình bác công nhân đó về Hà-nội là tránh việc cấp dưới tố giác cấp trên, y như chuyện của Xuân Bảo ở trên vậy !
Vài thí dụ nêu trên để thấy tuy là thủ tướng, là nhân vật số 3 trong tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ nhưng việc chính đáng của dân thì Đồng toàn giải quyết theo kiểu "đánh trống bỏ dùi", còn việc riêng thì Đồng rất tích cực. Thí dụ thứ nhất : Giữa những năm 1960, tại Hà-nội có cái gọi là "Vụ án nhạc vàng" (phóng viên AFP của Pháp, thường trú tại Hà-nội, có đưa tin). Ông Toán "xồm" bị kêu án tù 12 năm vì tội "hát nhạc vàng của miền Nam và có tư tưởng thích chế độ Đồi Truỵ của miền Nam". Một vài người khác hay tụ họp hát nhạc miền Nam Việt Nam, nhờ nghe lén đài miền Nam mà học được, trong vụ ông Toán đều bị kêu án, ít nhất cũng 6 năm. Án như vậy, nhưng như ông Toán, bị tù quá án mà vẫn không được tha. Có người vô tình đến chơi với ông Toán đúng hôm công an mafia đỏ tới lục nhà cũng bị bắt và kết án... 6 năm tù. Thế nhưng, cô cháu dâu của Phạm Văn Đồng là Trà Giang - vợ của Phạm Bích Ngọc - là diễn viên điện ảnh nổi tiếng, kiêm ủy viên ban chấp hành hội liên hiệp văn-học nghệ-thuật (tổ chức các loại bút nô của mafia đỏ) lại bình chân như vại, mặc dù Trà Giang là người Đều Đặn có mặt tại nhà ông Toán để biểu diễn say sưa nhạc vàng (tức nhạc của miền Nam Việt Nam). Trà Giang còn công khai nhận xét là nhạc miền Nam rất tình người, không gân guốc, sắt máu như nhạc miền Bắc. Bởi vì, Phạm Văn Đồng trực tiếp can thiệp !
Thí dụ thứ hai : Một thằng cháu ruột khác của Phạm Văn Đồng, được đưa qua Nga-xô học từ nhỏ và được cử làm "bí thư thứ nhất sứ quán mafia đỏ Việt Nam tại Nga-xô". Hắn muốn lấy vợ mà phải là vợ đẹp, nhưng bận ở Nga-xô không có thì giờ về Việt Nam "tìm hiểu". Thế là Phạm Văn Đồng ra tay tiếp cháu. Đồng giao trách nhiệm cho "đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh" (cánh tay phải của mafia đỏ) tìm vợ cho cháu hắn. Lại một diễn viên điện ảnh nổi tiếng được chọn làm cháu dâu Phạm Văn Đồng. Cuộc tình không do yêu, cũng không do cha mẹ sắp đặt, mà do tổ chức mafia đỏ thực thi theo ý của trùm Đồng. Đám cưới xong, theo đúng luật của mafia đỏ Việt Nam, cháu Phạm Văn Đồng lại qua Nga-xô làm việc, còn cô cháu dâu lại "cô đơn phòng lạnh đợi chờ" tại Hà-nội. Không chịu nổi sự phi lý đó, cô diễn viên rất đẹp đó đưa đơn xin ly hôn. Nghe tin, thằng cháu Phạm Văn Đồng vội cưỡi máy bay về khóc lóc xin vợ rút đơn ly hôn nhưng cô ta không chịu. Như cô ta nói thì cô ấy cảm thấy đây là một sự cuỡng ép của tổ chức (mafia đỏ) mà thôi. Thế là Đồng lại can thiệp bằng cách hứa làm hộ chiếu cho cô ta qua Nga-xô sống với chồng, muốn đi học hoặc muốn làm gì thì làm. Nhưng cô diễn viên quả cảm khước từ mọi ân huệ của Đồng. Cháu Đồng khóc lóc trở về lại Nga-xô. Còn cô diễn viên vì cái tội không muốn làm cháu dâu họ Phạm nữa nên bị coi là không đủ tiêu chuẩn là diễn viên !
Chuyện đại loại như vậy về Đồng và đồng bọn của hắn trong tập đoàn mafia đỏ có thể kể dài hơn ngàn lần các chuyện chưởng của Kim Dung gộp lại với những Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du Ký, Một Ngàn Lẻ Một Đêm v.v... cũng chưa hết.
Về cuối đời, khi được nâng lên là "cố vấn" của tập đoàn mafia đỏ, Đồng vẫn còn thèm được nướng tiền của nhân dân Việt Nam vào các canh bạc chính trị. Trong một chuyến thăm Ấn-độ (thời bà I. Gandhi), Đồng đã tự ý ký mua một nhà máy sản xuất bao đay đã cũ của Ấn-độ với giá 10 triệu USD, mang về lắp đặt tại Thủ-đức (Sài-gòn) để làm... cảnh, vì càng sản xuất thì càng lỗ, giá thành cao gấp nhiều lần giá nhập ngoại. Thời kỳ đó Pháp cũng chào bán một nhà máy như vậy, tối tân, mới nguyên mà có 1 triệu USD thôi. Theo Đồng thì "kinh tế cũng là chính trị; tẩy chay hàng đế quốc mà ủng hộ hàng của... thế giới thứ ba dù có thua lỗ !" Đúng vậy, vì Đồng cũng như tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ chẳng hề hấn gì. Chỉ có nhân dân Việt Nam là đã lỗ nặng, đang lỗ nặng và còn lỗ nặng dài dài, chừng nào chưa nhận rõ diện mạo của họ Hồ và tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ để tống tiễn bọn chúng đi theo Hồ.
Nhiều người, là trí thức kia đấy, chỉ biết mỗi điều Phạm Văn Đồng là thủ tướng Việt Cộng, cũng như nhiều người là nạn nhân trực tiếp của mafia đỏ vậy mà bị lối tuyên truyền rỉ tai, đã ca ngợi rằng trong đám đầu lãnh mafia đỏ thì Đồng là người Qúy Trí Thức Nhất ! Khi xin cho dẫn chứng cụ thể thì... tất cả đều... tắc tị !
Đường lối của tập đoàn mafia đỏ là tận diệt bốn tầng lớp rường cột của xã hội Việt Nam để dọn đường cho đế quốc Nga-xô thống trị được dễ dàng và lâu dài. Đó là Trí, Phú, Địa, Hào, nghĩa là Trí đứng hàng đầu. Xã hội mà thiếu 4 tầng lớp đó thì còn gì là xã hội, khác nào tòa nhà bị gỡ bỏ bốn cột trụ, chỉ còn 4 bức vách, gió nhẹ cũng sập! Về Đảng thì Đồng là nhân vật đầu lãnh thứ ba, về chính phủ thì Đồng là đầu lãnh số 1, có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện đường lối tận diệt 4 tầng lớp nói trên. Trắng đen rõ ràng đến như vậy mà vẫn u mê rằng Đồng quý trí thức thì quả thực thánh cũng hiểu không nổi mấy Ông Thầy Bàn Tào Lao !!!
Có một chuyện là Phạm Văn Đồng lần nào cũng có mặt dự họp những lần đại hội bút nô, được gọi là "đại hội các nhà văn", để nghe và phát biểu. Nếu để ý thì thấy lần nào cũng giống nhau vì nội dung chủ yếu vẫn là khuyên bảo, khuyến khích lũ văn nô còn chút nhân phẩm nào thì cố mà gột bỏ để toàn tâm toàn ý tự nguyện làm tôi mọi cho tập đoàn mafia đỏ trên địa bàn văn học, nghệ thuật.
Và, một chuyện nữa là Đồng quan tâm đến "tiếng Việt" cũng như ra đời tổng tập Nguyễn Trãi. Là thủ tướng, chuyện chính là lo cho dân no ấm, hạnh phúc như ở các thế giới Tây Phương, thì Đồng làm lơ ma lơ mơ. Đúng là mafia đỏ thứ thiệt. Đồng đích thân chủ trì việc xuất bản tổng tập Nguyễn Trãi vì Đồng tự ví như Nguyễn Trãi và hồ Chí Minh là... Đức Lê Lợi ! Lũ bút nô, nhiễm ít nhiều HIV cộng sản dương tính, là mất nhân cách của người cầm bút, lăng xăng xu nịnh Đồng (mà cũng là Hồ) ra công viết tham luận về Nguyễn Trãi mà cũng ngầm nịnh Đồng.
Làm sao mà Hồ có thể là Đức Lê Lợi và Đồng là cụ Nguyễn Trãi được.
Đức Lê Lợi đánh quân Minh xâm lược, đem lại độc lập cho Việt Nam, nhân dân no ấm, xã hội ổn định trong một thời gian dài hàng thế kỷ. Còn Hồ Chí Minh thì dùng súng đạn Nga-Tàu để làm cái việc người Việt giết người Việt. Hồ ra lệnh tiêu diệt 4 tầng lớp rường cột của Việt Nam, mà chỉ riêng cái gọi là cải cách ruộng đất từ vĩ tuyến thứ 17 trở ra Bắc, nông dân bị giết 5% theo chỉ tiêu Hồ quy định.
Còn cụ Nguyễn Trãi, bằng trái tim và văn tài, dùng bút viết những bức thư cho quân Minh đầy hào khí dân tộc, cũng như bài "Bình Ngô Đại Cáo" thấm nhuần lòng tự hào dân tộc lẫn chủ nghĩa nhân văn của Việt Nam. Có đâu như Phạm Văn Đồng, viết thư dâng cho Trung-cộng hai quần đảo Trường-sa và Hoàng-sa để ủng hộ việc Trung-cộng cướp đất của Việt Nam, trong lúc chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố chống hành động xâm lược của Trung-cộng.
Có thể Đồng tưởng câu chuyện tình của cụ Nguyễn Trãi (với Thị Lộ) và của Đồng giống nhau chăng ? Nếu có vậy thì chỉ là Đồng hoang tưởng. Vì chuyện tình của cụ Nguyễn Trãi là của "trai tài, gái sắc" và hoàn toàn không có chuyện cưỡng bức bằng quyền lực. Còn của Đồng thì sao ? Vào những ngày máy bay Mỹ đánh bom Hà-nội ồ ạt, mà hiệu quả của trận B52 xuống khu phố Khâm Thiên, trông rất rùng rợn, rất có lợi cho những người Mỹ chống chiến tranh ở Việt Nam v.v... chứ thực ra thì chỉ có dân, mà chủ yếu là nạn nhân của tập đoàn mafia đỏ chết, chứ lực lượng của mafia đỏ chẳng suy xuyển mảy may, thì có một chuyện cười ra nước mắt xảy ra.
Đó là tác giả "con nai vàng ngơ ngác" bị du kích Quảng Bá (Hồ-tây, Hà-nội) bắt được đang làm chuyện "con nai âu yếm quá mức" với một diễn viên nổi tiếng của đoàn tuồng khu 5, từng thủ vai chính trong vở "Nghêu, Sò, Ốc, Hến". Nghe chuyện liên quan đến khu 5, quê hương của mình, Đồng cho gọi nhà thơ "nai vàng ngơ ngác" lên hỏi chuyện. Chẳng biết đôi bên "mà cả" ra sao mà cuối cùng thì cô diễn viên đó thành "vợ nhỏ" của Đồng. Những người nhạy tin của Hà-nội thì thầm với nhau rằng : tưởng vở tuồng là do hư cấu, vậy mà đời thường lại có đúng "vai tri huyện là Phạm Văn Đồng" và "vai thầy đề" là nhà thơ nọ !
Tham quyền cố vị thì rồi cũng chết. Là đồ giả thì dù mạ vàng, thời gian cũng làm long sơn. Tổ tiên ta đã dạy :Thật Thà Là Cha Qủy Quái.
Chó chết thì hết chuyện. Nhưng Phạm Văn Đồng chết thì chuyện chưa hết. Người Việt Nam ở trong nước hay ngoài nước, nhất là giới trẻ, hãy nhìn con đường mà Phạm Văn Đồng đã đi : từ người thanh niên yêu nước tha hóa thành tội đồ bán nước. Đó là vì đã chọn lầm tổ chức, chọn lầm tà thuyết.
Giờ đây thật, giả lẫn lộn, mọi người, nhất là tuổi trẻ, cần tỉnh táo nhận xét, tìm hiểu kỹ càng, không nghe phỉnh phờ, nhìn vào việc làm và hiệu quả của nó đối với quyền lợi cơ bản của đất nước và dân tộc thì sẽ phân biệt được trắng, đen.

Việt Thường. 1-11-1999
Công hàm bán nước của Phạm văn Đồng 1958 dâng Hoàng Trường Sa cho Trung cộng

Nội dung bản Công Hàm Bán Nước
Thủ Tướng Phủ
Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
(Ấn ký)
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Kính gửi: Đồng chí CHU AN LAI
Tổng lý Quốc vụ viện
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung-hoa tại BẮC KINH
—————————————————————————–
Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải

Trích từ nguồn:
http://news.xinhuanet.com/ziliao/2003-01/24/content_705061.htm
http://tw.people.com.cn/GB/14864/14919/860248.html
http://www.jincao.com/fa/law11.s01.htm
DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE’S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
(Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People’s Congress on 4th September, 1958 )
The People’s Republic of China hereby announces:
(1) This width of the territorial sea of the People’s Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People’s Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
(2) The straight lines linking each basic point at the mainland’s coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China’s territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China’s inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China’s inland sea islands.
(3) Without the permit of the government of the People’s Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China’s territorial sea and the sky above the territorial sea.
Any foreign vessel sailing in China’s territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People’s Republic of China.
(4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People’s Republic of China’s territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People’s Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China’s internal affairs which should not be interfered by any foreign country.
Trích từ nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
—————————————————————————–
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958 )
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Chú thích:
Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
—————————————————————————–
Bản đồ tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc

—————————————————————————–
Nghiên cứu của Todd Kelly đề cập đến Công Hàm Bán Nước
On 15 June 1956, two weeks after the RVN reiterated the Vietnamese claims to the Truong Sa Islands, the DRV Second Foreign Minister told the PRC Charge d’Affaires that “according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory.”[65] Two years later, the PRC made a declaration defining its territorial waters. This declaration delineated the extent of Chinese territory and included the Truong Sa. In response, the DRV Prime Minister, Pham Van Dong, sent a formal note to PRC Premier Zhou Enlai stating that “The Government of the Democratic Republic of Viet Nam respects this decision.” [66]
————————————————————————
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng Hoà (RVN) tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV) đã nói với Ban Thường Vụ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam thì quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và quần đảo Trường Sa (Nansha) là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc” . Hai năm sau đó, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã ra bản tuyên bố xác định lãnh hải của họ. Bản tuyên bố này đã vạch ra rõ ràng cái khoảng khu vực của lãnh thổ Trung quốc có bao gồm cả Trường Sa .
Để đáp lễ, Thủ tướng Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đã gởi một bản công hàm đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này”.
Trích và lược dịch từ Vietnamese Claims to the Truong Sa Archipelago by Todd Kellyvà A Journal of the Southeast Asian Studies Student Association
DRV = Democratic Republic of Vietnam – Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam)
PRC = People’s Republic of China – Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung-quốc)
RVN = Republic of Vietnam – Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam)
—————————————————————————–
Bản đồ quảng cáo du lịch của Trung Quốc

——————————————————
Bách khoa Toàn thư Wikipedia đề cập đến Công Hàm Bán Nước
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết (Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite group). Dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), đảo Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores)[1].
Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc Chiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận [2].
Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng hòa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong [3]. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Trích từ Báck Khoa Toàn Thư Wikipedia
——————————————————
Bài viết của ký giả Frank Ching trên Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông đề cập đến Công Hàm Bán Nước
Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng SaSaigon – Hanoi – Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
1) Tái thẩm định miền Nam Việt Nam
Chỉ có một số ít các chính phủ sẵn sàng thú nhận rằng họ đã phạm phải sai lầm, ngay cả khi những chính sách của họ cho thấy điều đó một cách rất rõ ràng. Lấy thí dụ như Việt Nam chẳng hạnKhi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.
Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn . Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam, cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.
Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội – vừa mới thống nhất với miền Nam – lại tái tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai. Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.
Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .
Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài Gòn – tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.
Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. “Trong thời gian này”, họ nói, “có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974.”
Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.
2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo
Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên “quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký “Phủ Biên Tập Lục” của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.
Lý do chính để Trung Quốc làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là “Không gian sinh tồn”, bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Ðức Anh?3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.Theo tài liệu “Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa” của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã “dàn xếp” vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng “theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”.
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, “bao gồm … Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa …”. Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải”.
Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa những lãnh thổ mà Việt Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước khác. Rõ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa “một cái bánh bao lớn” bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đã nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc bán “trên giấy tờ” hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về miền Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề “một cách công bình”
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là “thời kỳ chiến tranh”. Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:
“Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh “mỗi bên một nửa” với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa – nhóm đảo Hoàng Sa thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
”Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất “tương lai” để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.
Như ông Đồng đã nói, “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”. Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
4) Trong cuốn “Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt” của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản
Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: “Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc” (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: “Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc” (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 — Beijing Review 25/8/1979, trang 25 — Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
5) Tại sao ?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài “Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam” trong bộ tài liệu “Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương” của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :
Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.
”Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa” (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ. Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách “đổi mới” của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lược dịch từ: Paracels Islands Dispute by Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
——————————————————
Palawan Sun: Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc
When in 1957 China protested Vietnam’s move in Robert Island, Saigon was already in control also of two other islands of the Crescent Group: Pattle and Money Islands. The three South Vietnamese held islands are on the western side of the Crescent Group. Then in August 1958 Saigon took over Duncan Island in the eastern sector of the Crescent, thus facing the Amphitrite Group. Two weeks later the PRC government declared its sovereignty over the whole of the Paracels. They were supported by North Vietnam.
—————————————————————————
Vào năm 1957 khi Trung quốc phản đối sự chiếm đóng của Việt Nam tại đảo Robert, thì chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn kiểm soát hai đảo khác trong nhóm Crescent: đảo Pattle và đảo Money. Ba (3) đảo mà (chính quyền) Nam Việt Nam chiếm giữ nằm bên phía tây của nhóm Crescent. Rồi đến tháng 8 năm 1958, (chính quyền) Saigon lại chiếm giữ thêm đảo Duncan nằm bên khu vực phía đông của nhóm đảo Crescent, đối diện với nhóm Amphitrite. Hai tuần sau đó, chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa. Họ đã được ủng hộ bởi (chính phủ) Bắc Việt Nam.
Trích và lược dịch từ A History of Three Warnings By Dr. Jose Antonio Socratesvà Palawan Sun Online
—————————————————–
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)
Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo buộc vô căn cứ có thể sẽ đến bất cứ từ đâu.
Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:
Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.
Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.
Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.
Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.
Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974
Trích và lược dịch từ nguồn:
Paracels Forum – The Discussion Proceeds For Peace
——————————————————–
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (1979)
Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:
1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.
2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.
3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam. Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.
4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.
5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề
6. Chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa một cách bất hợp pháp bằng quân sự, Trung Quốc đã xâm phạm vào sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dẫm chân lên làm cản trở tinh thần của Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải quyết tất cả các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. Sau khi phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam với tầm vóc to lớn, phía Trung Quốc lại nêu ra vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi tạo ra một tình trạng càng ngày càng căng thẳng dọc theo biên giới Việt Nam và từ chối việc thảo luận những giải pháp cấp thiết để bảo đảm hoà bình và ổn định trong khu vực biên giới giữa hai nước. Ðiều rõ ràng là những kẻ cai trị Trung Quốc vẫn không từ bỏ ý định tấn công Việt Nam một lần nữa. Hành động của họ là một sự đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và ổn định trong vùng Ðông Nam Á và làm lộ rõ hơn tham vọng bành trướng, với bản chất bá quyền hiếu chiến của một nước lớn, bộ mặt xảo trá lật lọng và phản bội của họ.
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979
Trích và lược dịch từ nguồn:
Paracels Forum – The Discussion Proceeds For Peace
——————————————————
Bộ Ngoại giao Trung Quốc diễn giải về Công Hàm Bán Nước
International Recognition Of China’s Sovereignty over the Nansha Islands
5. Viet Nam
a) Vice Foreign Minister Dong Van Khiem of the Democratic Republic of Viet Nam received Mr. Li Zhimin, charge d’affaires ad interim of the Chinese Embassy in Viet Nam and told him that “according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory.” Mr. Le Doc, Acting Director of the Asian Department of the Vietnamese Foreign Ministry, who was present then, added that “judging from history, these islands were already part of China at the time of the Song Dynasty.”
b) Nhan Dan of Viet Nam reported in great detail on September 6, 1958 the Chinese Government’s Declaration of September 4, 1958 that the breadth of the territorial sea of the People’s Republic of China should be 12 nautical miles and that this provision should apply to all territories of the People’s Republic of China, including all islands on the South China Sea. On September 14 the same year, Premier Pham Van Dong of the Vietnamese Government solemnly stated in his note to Premier Zhou Enlai that Viet Nam “recognizes and supports the Declaration of the Government of the People’s Republic of China on China’s territorial sea.”
c) It is stated in the lesson The People’s Republic of China of a standard Vietnamese school textbook on geography published in 1974 that the islands from the Nansha and Xisha Islands to Hainan Island and Taiwan constitute a great wall for the defense of the mainland of China
——————————————————————————–
Sự công nhận của thế giới về chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Trường Sa
5. Việt Nam
a) Thứ trưởng ngoại giao Ðồng văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại Sứ Trung quốc tại Việt Nam đã nói rằng “theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”. Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng “xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống”
b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên Bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc, rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam “nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải”
c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa .
Trích và lược dịch từ trang nhà của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc
——————————————————
Nguồn:
- http://conghambannuoc.tripod.com/
Phạm Văn Đồng và Bộ chính trị csbv cầm đầu bởi Hồ Chí Minh đã dâng Hoàng Trường Sa cho Trung cộng !!


Vấn đề tù binh Mỹ-Tháng 4-1993
(Bài 11)

Những ngày gần đây, báo chí trên thế giới quan tâm đến vụ một tài liệu mật, về số liệu tù binh Mỹ ở Việt Nam vào thời điểm 1972, đã được khui ra từ Cục lưu trữ của Trung ương Đảng cộng sản Liên-xô. Tài liệu này là bản báo cáo của bộ Tổng tham mưu quân đội cộng sản Hà-nội do tướng Trần Văn Quang, tổng tham mưu phó ký. Theo tài liệu này thì vào năm 1972 số tù binh Mỹ còn bị giam giữ tại nhà tù cộng sản Việt Nam là 1.205 người. Trong lúc đó, cộng sản Hà-nội lại khai với nhà cầm quyền Mỹ là chỉ giam giữ có 368 người. Số liệu của hai bản khai báo đó sai lệch nhau 837 người !
hình việt gian Võ Nguyên Giáp và thượng tướng việt gian Trần Văn Quang, nguyên cục trưởng
Cục Tác chiến chiến dịch ĐBP, ở hầm chỉ huy của tướng De Castries

Nhiệt độ quan hệ Mỹ - Việt có thể thay đổi do sự kiện này. Chẳng thế, báo chí của Mỹ, của nhiều nước và ngay cả cộng sản Việt Nam cũng ồn ào lên tiếng về tính xác thực của tài liệu nói trên.

Phiá cộng sản Việt Nam ngoan cố vu cáo đây là một tài liệu giả mạo với dẫn chứng rất yếu ớt rằng tướng Trần Văn Quang vào thời điểm năm 1972 không giữ chức tổng tham mưu phó quân cộng sản Hà-nội. Nhưng, họ lại lòi đuôi trong một bài báo đăng trên tờ Nhân Dân ngày 21-11-1992 rằng tướng Trần Văn Quang đã giữ chức tổng tham mưu phó quân cộng sản Hà-nội từ 1959 !

Trong số ý kiến đăng trên báo nước ngoài, sự phân tích của một người Úc ở Trung tâm nghiên cứu các vấn đề của quốc tế ở đại học Harvard (Mỹ) có vẻ rất tỷ mỷ, nhưng tiếc rằng điều tỷ mỷ đó chỉ chứng tỏ ông ta chẳng hiểu gì về thế giới cộng sản nói chung, nhất là về cộng sản Việt Nam.

Về vấn đề nhân sự trong bộ tổng tham mưu của cộng sản Hà-nội cũng chưa được phản ảnh chính xác trong một số tài liệu của một số cơ quan có thẩm quyền của Mỹ.

Câu hỏi đặt ra lúc này là :

1) Tài liệu về số lượng tù binh Mỹ ở Việt Nam năm 1972, lấy từ cục lưu trữ Trung ương Đảng cộng sản Liên-xô có phải là một tài liệu chân thực không ?

2) Năm 1972, tướng Trần Văn Quang có giữ chức phó tổng tham mưu quân đội cộng sản Hà-nội không ?

Trần Văn Quang

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Trần Văn Quang (1917-) là một Thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, từng giữ các chức Cục trưởng Cục tác chiến, phó tổng tham mưu trưởng, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng. Ông giữ chức chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam từ 1992 đến 2002.

[sửa] Tiểu sử

Ông còn có tên gọi là Trần Thúc Kính, sinh 1917, quê tại xã Nghi Hoa, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chiu nhiều ảnh hưởng của anh trai là nhà hoạt động cách mạng Trần Văn Cung (1906-1977), bí thư đầu tiên của chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam (Nhà 5D Hàm Long).
Ông tham gia cách mạng từ 1935, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1936. Từ 1938 đến 1939, ông là Thành ủy viên Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1939, bị thực dân Pháp bắt giam. Tháng 10 năm 1940, ông vượt ngục về hoạt động ở Nghệ An. Tháng 4 năm 1941, ông bị bắt lần thứ hai và bị kết án tù chung thân.
Tháng 6 năm 1945, ông ra tù, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nghệ An. Năm 1946, ông được phân công giữ chức Chính ủy Bộ Chỉ huy tiếp phòng quân (chỉ huy trưởng là Thiếu tướng Lê Thiết Hùng). Tháng 11 năm 1946, ông là Chính ủy Khu IV (Tư lệnh cũng là Thiếu tướng Lê Thiết Hùng).


Từ năm 1948 đến 1949, ông giữ chức Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Phân khu Bình - Trị - Thiên. Tháng 5 năm 1950, Đại đoàn 304 được thành lập, ông được chỉ định giữ chức Chính ủy Đại đoàn.[1] Năm 1951, ông được điều giữ chức Cục trưởng Cục Địch vận.
Năm 1953, ông được cử giữ chức Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, đặc biệt chuyên trách chiến dịch Điện Biên Phủ.
Năm 1958, ông giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam kiêm Cục trưởng Cục Tác chiến[2], hàm Thiếu tướng. Năm 1961, ông được điều vào Nam, giữ chức Ủy viên Trung ương Cục miền Nam. Năm 1965, tư lệnh Quân khu IV; trong những năm 1966 - 1973, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Bình - Trị - Thiên.
Năm 1974, ông được thăng quân hàm Trung tướng và được điều động trở lại chức Phó Tổng tham mưu trưởng. Từ năm 1978 đến 1981, ông là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam ở Lào.
Năm 1981, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, và được thăng Thượng tướng năm 1984.
Từ năm 1992 đến 2002, ông là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam.
Ông là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1960 - 1976). Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng[3] và nhiều huân chương quân sự khác

3) Liệu còn tù bình Mỹ ở Việt Nam không ? Số phận của họ ra sao ?

T H Á I T H Ú SERBAKOV

Năm 1960, tướng tình báo Nga-xô là Serbakov được cử sang Hà-nội làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Viên Thái Thú này đã ở Hà-nội từ đó cho đến 1977. Trong 18 năm làm Thái Thú ở Bắc Việt Nam, Serbakov đã được giới phóng viên nước ngoài đến Hà-nội gọi là Sa-hoàng đỏ. Bởi vì, Serbakov vừa hống hách, vừa thực sự là kẻ có quyền hành ở Việt Nam. Bất kể việc lớn, việc nhỏ, đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam đều bẩm báo. Nhà riêng của Phạm Văn Đồng, ở đường Khúc Hạo (Hà-nội) liền tường với phủ toàn quyền do Serbakov ngự tọa. Và, người thường xuyên ra vào tư thất của Serbakov là Phạm Văn Đồng, khi đó là nhân vật thứ ba trong bộ chính trị cộng đảng, kiêm thủ tướng chính phủ; và người nữa là Nguyễn Văn Kỉnh, ủy viên trung ương cộng đảng, phó ban đối ngoại trung ương phụ trách thường trực, kiêm chủ tịch hội hữu nghị Việt-Xô; đã từng là đại sứ tại Nga-xô sau Nguyễn Lương Bằng (phó chủ tịch nước)

Vơí số lượng người Nga nằm trong mọi cơ quan Nhà Nước cộng sản Việt Nam - nhất là trong quân đội và ngành địa chất -; với các cán bộ cả chủ chốt lẫn trung gian của cộng sản Việt Nam được ăn học, đào tạo tại Nga; với các chi hội Việt-Xô ở khắp các cơ quan, trường học, nhà máy, nông trường, công trường trên cả miền Bắc Việt Nam v.v... nên viên tướng tình báo Thái Thú Serbakov không những nhận được các báo cáo từ phiá đảng và chính quyền cộng sản Hà-nội, mà còn có điều kiện kiểm chứng tính xác thực của các báo cáo đó,và, đôi khi còn có khả năng cung cấp thêm tài liệu cho cộng sản Hà-nội. Thí dụ : ở ủy ban khoa học và kỹ thuật thì từ phó chủ nhiệm Nguyễn Văn Hiệu, cho đến các giáo sư tiến sỹ nổi tiếng như Nguyễn Đình Tứ (nay là bí thư trung ương đảng), Vũ Đình Cự, Phan Đình Diệu, Nguyễn Văn Đạo v.v... đều từ Nga trở về. Con trai Trường Chinh là Đặng Xuân Kỳ (ủy viên trung ương đảng); con trai Lê Duẩn là Tường Vân - nhà bình luận thời sự của nhật báo Sài-gòn Giải Phóng; con gái Võ Nguyên Giáp là tiến sỹ vật lý nguyên tử Võ Hồng Anh; cho đến con gái Tố Hữu làm ở viện khoa học công an v.v... đều từ Nga mà ra. Thậm chí các thư ký riêng của những ũy viên bộ chính trị cộng đảng cũng học ở Nga về như Việt Phưong (thư ký của Phạm Văn Đồng); Vũ Định (thư ký của Lê Thanh Nghị) v.v... Các việc lớn như vụ máy bay điện tử gây nhiễu radar RBU của Mỹ rơi ở bờ biển xã Trung đồng, huyện Tiền Hải (Thái Bình) hay máy bay F.111 rơi ở Lương Sơn (Hòa Bình) thì chính là nhân viên trong sứ quán Nga ở Hà-nội, dưới quyền tùy viên quân sự, là những người có mặt đầu tiên ở chỗ máy bay rơi; lính cộng sản Việt Nam chỉ có nhiệm vụ canh gác cho đến khi nhân viên Nga chuyển hết xác những máy bay đó về Nga. Những sỹ quan cộng sản Hà-nội làm nhiệm vụ hỏi cung tù binh Mỹ cũng được đào tạo tại Nga - chính qui hoặc bổ túc. Chuyện nhỏ như khám phá ngôi mộ cổ của công chúa thời Lý - thế kỷ XI - ở; Thái Bình, cũng chuyên gia Nga có mặt ngay buổi đầu để tìm hiểu về nghệ thuật ướp xác của người Việt xa xưa. Trong quân đội thì hầu hết sỹ quan các binh chủng pháo binh, tên lửa, radar, không quân, thiết giáp, hóa học, hậu cần, y dược đều được đào tạo tại Nga, kể cả các viên tướng tư lệnh từ Văn Tiến Dũng đến Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Đôn, Trần Văn Quang, Lê Văn Tri, Giáp Văn Cương, Hoàng Minh Thảo, Đặng Vũ Hiệp v.v... Tất cả những người đó đều có "quan thầy", có cha nuôi, mẹ nuôi, anh chị em kết nghĩa là Nga. Đến mức nhiều khi tiếng nói của họ còn mạnh hơn đảng và chính quyền cộng sản Hà-nội. Thí dụ : một lá thư của tiến sỹ Phan Đình Diệu, hay thư của Nguyễn Thị Hằng (khi đó là ủy viên ban đối ngoại của quốc hội) có giá trị xin viện trợ về khoa học kỹ thuật hoặc vũ khí còn hiệu quả hơn ủy viên bộ chính trị kiêm phó thủ tướng Lê Thanh Nghị đích thân bị gậy đi ăn xin.

Bởi vậy, ý kiến cho rằng số liệu 1.205 tù binh Mỹ ở thời điểm 1972 do tướng Trần Văn Quang báo cáo là sự "thổi phồng" nhằm khoe thành tích để xin viện trợ của Nga-xô được nhiều hơn là không có cơ sở. Bởi bản thân Hồ Chí Minh cho đến Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng việc gì cũng phải báo cáo, tham khảo ý kiến của thái thú Serbakov chưa nói đến việc đều đặn có các phái đoàn của Trung ương cộng đảng Nga-xô sang Việt Nam kiểm tra mọi mặt. Rồi, ngay Việt Phương, thư ký riêng ưu ái của Phạm Văn Đồng, cũng là Vụ trưởng Vụ tổng hợp Phủ thủ tướng, người có nhiệm vụ tổng hợp mọi báo cáo, tin tức trong và ngoài nước để báo cáo Phạm Văn Đồng và sau đó sang phủ chủ tịch báo cáo lại vơí Hồ Chí Minh để xin chỉ thị thêm cũng từng sang Nga-xô để nghiên cứu về kinh tế, là bạn thân của Serbakov và nhiều cán bộ cao cấp trong sứ quán Nga tại Hà-nội. Ngay cả tướng Trần Văn Quang, cũng đã từng sang Nga-xô học về tham mưu ở Học viện quân sự Fruntzé, có lẽ nào dám báo cáo "láo" vơí bộ chính trị cộng đảng Việt Nam và trung ương cộng đảng Nga-xô. Còn ý kiến cho rằng văn phong dùng trong báo cáo không có những từ ngữ mà tướng Trần Văn Quang hay dùng. Người có ý kiến đó, có vẻ tỷ mỷ trong nghiên cứu, nhưng tiếc là chưa có kiến thức tỷ mỷ về cộng sản Việt Nam. Cần phải hiểu rằng, ở cỡ tướng Tổng tham mưu phó như Trần Văn Quang, có cả hàng bầy thư ký riêng. Các báo cáo hoàn toàn do thư ký riêng soạn thảo, kể cả các bài nói lẫn bài báo, và tướng Trần Văn Quang hoặc đọc lại, hoặc nghe đọc lại và ký. Thậm chí có khi chỉ nhìn lướt qua rồi ký. Cho nên văn phong trong các báo cáo là tùy thuộc văn phong của từng thư ký riêng và tùy từng nơi nhận báo cáo. Làm sao có lối nói chung một ngôn từ ở trước hàng quân hoặc trên mặt báo cho quảng đại quần chúng với báo cáo gửi cấp "lãnh tụ" tối cao ! Thí dụ : ngay các bài nói của Phạm Văn Đồng - lãnh tụ của tướng Trần Văn Quang - về văn phong cũng khác nhau, tùy theo bài nói đó do các thư ký riêng là Việt Phương, hay Nguyễn Việt Dũng, hay Phan Mỹ chấp bút. Lại còn một sự nghiên cứu tỷ mỷ nữa (!) cho rằng ở Bắc Việt Nam khi ấy (1972) chỉ có mười nhà tù giam giữ các tù binh Mỹ với sức chứa 100 người mỗi nhà tù. Như vậy thì sẽ có dư một số tù binh, họ ở vào đâu ? Đúng là lối suy nghĩ của mấy vị nhà giàu, quen sống với cơ chế pháp trị, chẳng hiểu mô tê gì về cộng sản - nhất là cộng sản Việt Nam. Xin nhớ cho rằng nhà tù không phải là cái chén đựng nước có sức chứa cố định để đến nỗi khi đã đầy tràn thì thêm dù một giọt cũng trào ra ngoài. Nhà tù của cộng sản Việt Nam hoàn toàn không giống nhà tù ở các nước phương Tây có qui định chỗ ở của mỗi phòng vơí số lượng nhất định. Hãy phỏng vấn hàng triệu sỹ quan miền Nam cũ đã có nhiều năm ở nhà tù của cộng sản Việt Nam để biết rằng chế độ nhà tù Việt Nam cộng sản có thể nhốt 20 người trong một căn phòng vơí diện tích 10m2, hoặc 5 tù nhân nằm chung 2 chiếu cá nhân. Nên nhớ rằng, tài liệu chính thức của Sở quản lý nhà đất Hà-nội công bố diện tích nhà ở của cán bộ và dân Hà-nội là 4m2/đầu người. Nhưng thực tế là 2m2 rưỡi/đầu người. Thậm chí nhiều gia đình phải chịu cảnh 0m2 80/đầu người, ngay cả những nhà văn tên tuổi như Quang Dũng và Trần Lê Văn (dính líu vào phong trào Nhân-văn - Giai-phẩm). Cho nên việc một nhà tù có sức chứa 100 người vẫn có thể bị giam gấp rưỡi số qui định, hoặc tăng thêm vài nhà tù trong lãnh thổ mà cộng sản quản lý là điều dễ hiểu và chỉ nửa tiếng đồng hồ là có thể có một nhà tù mới. Thí dụ, người Sài-gòn đều biết sau tháng 4-1975, khách sạn Đại-lợi ở chợ Ông Tạ đường Thoại Ngọc Hầu bị biến thành nhà tù của ty an ninh nội chính (tức công an) quận Phú Nhuận !

NÓI LÁO LÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là một chuỗi nói láo liên tục. Lớn thì như cái bánh vẽ "Độc lập, tự do, hạnh phúc" cho nhân dân Việt Nam, riêng tư thì như tự mình lấy bút danh khác viết sách "tự ca ngợi", dối trá cả ngày sinh tháng đẻ cho đến chuyện gia đình vợ con. Cho nên người Hà-nội trước năm 1975, đã quá quen thuộc một vài bài thơ truyền miệng về bản chất của Hồ Chí Minh. Đó là :

"Họ Hồ ra đứng ngắm trăng
Thấy chú Cuội nằm dưới gốc cây đa
Họ Hồ mới gọi Cuội ta
Rủ thi nói láo xem là ai hơn
Nghe Hồ miệng nói ngọt trơn
Cuội vội quỳ xuống xin tôn làm THẦY."

hoặc một bài khác :

"Họ Hồ có cái mặt mo

Bắc-kinh xin đổi ba bò, chín trâu

Hồ rằng Hồ chẳng lấy trâu

Nga-xô xin đổi một xâu cá mè

Hồ rằng Hồ chẳng lấy mè

Bắc-kinh xin đổi một bè gỗ lim

Hồ rằng Hồ chẳng lấy lim

Nga-sô xin đổi đôi chim đồi mồi

Hồ rằng Hồ chẳng lấy mồi

Bắc-kinh xin đổi máu tươi : Hồ cười

Nga-xô thêm "tý" thịt người Việt Nam

Mặt mo, Hồ đúng Việt gian !!!"

Bởi thế cho nên quá trình tiếm quyền của cộng đảng Việt Nam cũng như đệ tử của Hồ Chí Minh, mà các chóp bu hiện nay là Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, cũng vẫn sử dụng cẩm nang về võ nói láo của Hồ Chí Minh trong suy nghĩ và hành động.

Trong vụ tài liệu về tù binh Mỹ ở thời điểm 1972 có chữ ký của tướng Trần Văn Quang, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, cũng vậy. Một mặt báo chí cộng sản Hà-nội thanh minh rằng tướng Trần Văn Quang vào năm 1972 không giữ chức phó tổng tham mưu trưởng quân cộng sản Hà-nội. Giai đoạn 1965-1974 tướng Trân Văn Quang là tư lệnh cộng quân quân khu 4, tiếp đó là tư lệnh quân khu Trị-Thiên-Huế, để rồi đến 1974-1978 mới trở lại cái ghế tổng tham mưu phó "rồi tư lệnh bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Lào".

Cần lưu ý rằng xã hội cộng sản Việt Nam hoàn toàn khác với xã hội phương Tây ở chỗ đảng cầm quyền và chính quyền của nó coi việc thay đổi lý lịch, tiểu sử bản thân của các viên chức có quyền là nhằm "bảo vệ cán bộ" và đó là công tác của ban tổ chức trung ương đảng. Sự nói láo đó quá phổ biến đến mức người ta chẳng ngạc nhiên về những chuyện như Lê Đức Thọ, Đinh Đức Thiện và Mai Chí Thọ là ba anh em ruột cùng cha cùng mẹ mà đổi ba họ khác nhau; như nhà văn Nguyễn Công Hoan và Lê Văn Lương (ủy viên bộ chính trị cộng đảng) cũng là hai anh em ruột cùng cha cùng mẹ; như Lưu Hữu Phứơc và Huỳnh Minh Siêng là một người, tướng Lê Hiến Mai, ủy viên trung ương cộng đảng, phó chủ nhiệm tổng cục chính trị cộng quân cũng chính là Dương Quốc Chính, ủy viên trung ương cộng đảng, bộ trưởng thương binh xã hội, có lúc cả hai cái tên với hai chức vụ khác nhau đó cùng xuất hiện một ngày trên báo Nhân Dân (!); như Đỗ Mười, vốn xuất thân làm nghề hoạn lợn ở huyện Thanh-trì (xưa thuộc Hà-đông, nay nhập về Hà-nội) được đổi thành làm "công nhân" (cho có vẻ cách mạng nòng cốt); như Nguyễn Sinh Sắc, cha đẻ của Hồ Chí Minh, một tri huyện tham nhũng bị cách quan được chế biến thành "nhà nho yêu nước". Thậm chí đến nhỏ nhặt như các ca sỹ Quang Hưng và Anh Đào của nhà hát giao hưởng cũng đổi lý lịch để thành "văn công giải phóng" hệt như nhà văn (loại đại văn nô) Anh Đức nguyên gốc là Bùi Đức Aí, hay phóng viên báo Cứu Quốc (Hà-nội) là Thái Duy trở thành nhà văn "giải phóng" Trần Đình Vân, đi dự hội nghị các nhà văn Á-Phi và thay mặt văn nô giải phóng chúc thọ "Mao chủ tịch". Chắc mọi người không thể quên vụ đương kim phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, vốn là thư ký riêng của Nguyễn Thị Thập (chủ tịch phụ nữ cộng sản Hà-nội) trở thành Vụ phó vụ lễ tân bộ ngoại giao của bộ trường Xuân Thủy và, từ Hà-nội cưỡi máy bay thẳng sang Paris ngồi vào ghế của Trần Bửu Kiếm để thành "bộ trưởng ngoại giao của cái gọi là chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam".

Cho nên trường hợp tướng Trần Văn Quang cũng vậy, Bản tóm tắt lý lịch của tướng Quang viết trên báo Nhân Dân, rằng viên tướng này quê ở huyện Nghi Lộc (Nghệ an), gốc gia đình cách mạng, làm nghề nông, sinh năm 1917, vào cộng đảng năm 1936. Ngay trong cái đoạn này đã có những chi tiết - chẳng có gì la&osllash; quan trọng - mà cũng bị bóp méo. Sự thực Trần Văn Quang là người xã Nghi hải - xã ven bờ sông Lam, đối mặt bên kia bờ sông là làng Tiên Điền (Hà tĩnh) của thi hào Nguyễn Du; gia đình và bản thân làm nghề đánh cá ở Cửa Lò; tuổi lấy tử vi là Mậu Ngọ, nghĩa là 1918 chứ không phải 1917 !!!

Bởi gần như trọn vẹn giới chức cộng sản không hề có một cuộc đời đàng hoàng, đạo đức, nên chủ trương của cộng đảng Hà-nội là làm nhiễu loạn tư liệu để khó cho việc nghiên cứu tìm ra sự thật sau này qua văn khố thời thực dân Pháp để lại.

Vậy Trần Văn Quang là ai ?

Trần Văn Quang tên khai sinh là Nguyễn Đọi. Từ nhỏ đã theo nghề đánh cá ở sông Lam và vùng biển Cửa Lò (Nghệ an). Một tình cờ mà Nguyễn Đọi đã có dịp chở đò cho nhóm cộng sản hoạt động ở Bến Thủy (Vinh-Nghệ An) và đã được vào cộng đảng từ trước 1940. Cái tên Trần Văn Quang cũng có từ đó. Do mẫn cán, lại vào đảng cộng từ trước 1940, lại là gốc Nghệ An nên Trần Văn Quang đi rất nhanh trên con đường hoan lộ. Năm 1953 đã đeo quân hàm đại tá và là cục trưởng cục tác chiến bộ tổng tham mưu. Trong trận Điện Biên, đại tá cục trưởng cục tác chiến Trần Văn quang là cánh tay mặt của tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp; là người thức suốt ngày đêm để chỉ đạo, thâu thập tin tức chiến trường cho tướng Giáp. Và, đặc biệt ở chỗ đại tá Trần Văn Quang còn là nhà "tâm lý" có hạng, đã có sáng kiến đưa các cháu dân công người dân tộc thiểu số, cũng như các cháu văn công dễ coi đến giải sầu cho đại tướng Võ Nguyên Giáp, để minh mẫn chỉ huy chiến trường Điện Biên. Tướng Trần Văn Quang được coi là một sĩ quan có tính kỷ luật cao, cần mẫn và xông xáo, nên từ 1959 đã là thành viên quân ủy trung ương và đeo lon thiếu tướng, giữ chức tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, và đến đầu năm 1961 đã theo đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào Nam giữ chức ủy viên quân sự trung ương cục cộng sản ở miền Nam, phụ trách về tác chiến. Từ năm 1965, tướng Trần Văn Quang được cử giữ chức chính ủy của cả quân khu 4 lẫn quân khu Trị-Thiên-Huế, để làm sự điều phối thống nhất sự nối liền khúc Nam của miền Bắc Việt Nam với khu Bắc của miền Nam Việt Nam. Năm 1974, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, lúc đó đang giữ chức tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Lào kiêm cố vấn tối cao cho tổng bí thư Lào Cộng, Cay-Xon Phôm-Vi-Hản, được cử sang Bắc Kinh giữ chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền, nên tướng Trần Văn Quang thay tướng Vĩnh ở nhiệm vụ bên Lào. Trong phần lý lịch của tướng Quang, có mấy điểm cần làm sáng tỏ, đó là tướng Trần Văn Quang liên tục giữ chức vụ ủy viên quân ủy trung ương kiêm tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội từ 1959 cho đến 1982, song song vơí các nhiệm vụ khác. Báo Nhân Dân của Hà-nội, cũng như trong cuộc gặp mặt đầu tháng 4-1993 giữa tướng Mỹ,Vessey, tại Hà-nội với chủ tịch Nhà nước cộng sản Lê Đức Anh, thứ trưởng ngoại giao cộng sản Lê Mai và tướng Trần Văn Quang, thì tất cả đều chối rằng năm 1972 tướng Quang vì giữ chúc tư lệnh quân khu 4 nên không làm nhiệm vụ tổng tham mưu phó. Điều đó chứng tỏ tài liệu mật được khui từ cục lưu trữ trung ương cộng sản Nga-xô về số lượng tù binh Mỹ ở Việt Nam, thời điểm 1972, là "giả mạo".

Những người nắm vững lề lối tổ chức của cộng sản Hà-nội đều hiểu rằng sự chối bỏ của Lê Đức Anh, Lê Mai và Trần Văn Quang trước tướng Vessey là cực kỳ trắng trợn theo kiểu lấy vải thưa che mắt thánh với thiên hạ. Trong quân đội cộng sản Hà-nội, nếu một sỹ quan đã được cử làm tổng tham mưu phó thì họ vẫn giữ chức đó mãi cùng lúc với các chức vụ khác, cho đến khi nào họ được cử giữ chức lớn hơn chức tổng tham mưu phó. Thí dụ : trung tướng Hoàng Văn Thái, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, sau vào Nam giữ chức tư lệnh cộng quân giải phóng miền Nam; tướng Nguyễn Chánh, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, giữ chức tư lệnh kiêm chính ủy liên khu 5; tướng Đinh Đức Thiện, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội, giữ chức bí thư đảng ủy khu gang thép Thái Nguyên, sau 1975 giữ chức bộ trưởng dầu khí; đại tá Phùng Thế Tài, tổng tham mưu phó, giữ chức tư lệnh binh chủng phòng không, không quân, sau 1975 còn giữ thêm chức Tổng cục trửơng hàng không dân dụng v.v... Dù làm thêm nhiệm vụ gì và dù ở đâu, những người đó cũng vẫn giữ chức tổng tham mưu phó. Làm sao tướng Trần Văn Quang lại là ngoại lệ ?(!) Vả chăng, năm 1972, người giữ chúc tư lệnh quân khu 4 là đại tá Đàm Quang Trung và tư lệnh quân khu Trị-Thiên-Huế là thiếu tướng Đoàn Khuê. Tướng Trần Văn Quang, với chức tổng tham mưu phó chỉ kiêm nhiệm thêm chức chính ủy của quân khu 4 và quân khu Trị-Thiên-Huế vì tính chất quân sự quan trọng cần có quyết định kịp thời ở khu vực này. Chẳng thế, mà thời kỳ đó tướng Lê Hiến Mai, phó chủ nhiệm tổng cục chính trị cộng quân Hà-nội, cũng được cử vào vơí cái tên là bộ trưởng Dương Quốc Chính, thay mặt đảng và chính phủ ở khu 4 (tức quân khu 4).

Nếu đặt ra chuyện "tài liệu giả mạo", thì ai giả mạo ? Đương nhiên ở cục lưu trữ của trung ương cộng sản Nga-xô thì là Nga-xô giả mạo. Để làm gì ? Để phá hoại sự bình thường của Mỹ với cộng sản Hà-nội chăng ? Hoặc phe cứng rắn trong cộng đảng Nga-xô hiện nay nhằm không cho Việt Nam cộng sản ngả vào vòng tay chú Sam mà muốn Việt Nam đi vào quỹ đạo của Trung Cộng ? Đúng là lý luận con nít, bởi chưng kẻ giả mạo ở cỡ trung ương cộng sản Nga-xô, là thầy cũng là chủ của cộng sản Hà-nội, làm sao có thể lẫn lộn ấu trĩ đến nỗi không biết thời điểm ở Việt Nam 1972 những ai là tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội hoặc vì "tư thù" tướng Quang mà dựng ra chuyện này. Để làm gì ?

Qua chứng minh ở trên, có thể kết luận : tài liệu mật về số lượng tù binh Mỹ ở Việt Nam, thời điểm 1972, do tướng Trần Văn Quang, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội ký, được khui từ cục lưu trữ trung ương cộng sản Nga-xô là tài liệu chân thực và năm 1972, tướng Trần Văn Quang dù kiêm nhiệm thêm gì chăng nữa thì vẫn liên tục là tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội từ 1959 - 1982.

SỐ PHẬN TÙ BINH MỸ CHƯA ĐƯỢC TRAO TRẢ ?

Chứng minh được tài liệu mật về tù binh Mỹ có chữ ký của tướng Trần Văn Quang, tổng tham mưu phó cộng quân Hà-nội vào năm 1972 là chân thực, có nghĩa một vấn đề khác được đặt ra là: số phận của 837 tù binh Mỹ chưa được trao trả hiện nay ra sao ?

Trước khi trả lời câu hỏi này, tưởng cũng cần lược qua bài bản quen thuộc của cộng sản Hà-nội trong những vấn đề tương tự.

Còn nhớ cuộc chiến với thực dân Pháp từ 1946-1954, Hồ Chí Minh và các đệ tử, nhiều người từ thời kỳ đó đến nay đang còn nắm các chức vụ chủ chốt trong đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt v.v..., đã có cách giải quyết tù binh và hàng binh khá là độc đáo. Viên sỹ quan lê-dương gốc Đức, là hàng binh được Hồ Chí Minh nhận làm con nuôi, lấy tên Việt là Hồ Chí Dân, được biên chế trong công tác địch vận, (thời kỳ 1951-1952, chính tướng Trần Văn Quang giữ chức cục trưởng cục địch vận) là một thí dụ. Sau khi hiệp định Genève 1954 về Việt Nam được ký kết, chính quyền cộng sản Hồ Chí Minh đâu có chịu trao trả hết hàng binh và tù binh cho Pháp. Họ còn giữ lại khá nhiều, có người được cho lấy vợ Việt Nam và làm công nhân kỹ thuật bậc cao ở nhà máy ô-tô 1-5 (đường Phan Chu Trinh -Trần Hưng Đạo, HHà-nội), còn hàng trăm lính và sỹ quan gốc Âu-Phi thì chính quyền Hồ Chí Minh cho lấy gái điếm bị giam giữ tại trại tù Ba Sao (Phủ Lý) gả cho làm vợ và cho làm ăn tại nông trường Ba Vì (Sơn Tây) để học về chủ nghĩa Marx-Lénine. Ngoại trừ một số bị chết bỏ lại xác ở Ba Vì, số còn lại được đưa trả cho các chính phủ Phi Châu thân cộng như Lumumba ở Congo, Boumédienne ở Algérie v.v... Số lớn bọn họ trở thành cán bộ cộng sản ở nước họ.

Trong cuộc chiến với Mỹ, các tù binh Mỹ được sự quan tâm đặc biệt của hai nước đàn anh của cộng sản Hà-nội là Nga-xô và Trung-cộng. Đồng thời một số quan chức quân đội cộng sản Hà-nội cũng quan tâm đến lực lượng tù binh Mỹ. Vì đó là kho tài liệu phong phú về khoa học kỹ thuật hiện đại của Mỹ cả về lý luận lẫn ứng dụng, nhất là về công nghiệp chiến tranh và khoa học vũ trụ. Để thuyết phục các giới chức cộng sản khác, đương quyền khi ấy như Lê Duẩn, Tố Hữu (kẻ ra chủ trương mang tù binh Mỹ đi riễu phố và tổ chức cho nhân dân đánh và ném đá vào tù nhân nhằm nâng cao lòng căm thù đế quốc Mỹ !) v.v..., Viện sử học của cộng sản Hà-nội đã cùng với tổng cục chính trị cộng quân Hà-nội và Viện nghiên cứu khoa học công an của cộng sản, phối hợp tổ chức nhiều cuộc tọa đàm về đề tài "Các triều đại Việt Nam đã sử dụng hàng vàtù binh (chủ yếu là Tàu) như thế nào ?".

Nhiều chuyện hành lang lộ ra, cho biết một số tù binh Mỹ được đặc biệt ưu đãi - kể cả lấy vợ Việt Nam - nhưng bị quản thúc rất chặt chẽ và phải làm công tác nghiên cứu khoa học cho Tổng cục hậu cần cộng quân của tướng Đinh Đức Thiện; cho bộ chỉ huy binh chủng phòng không không quân của đại tá Phùng Thế Tài; cho viện khoa học của Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Đình Tứ, Vũ Đình Cự và Nguyễn Văn Đạo. Nhân dân khó mà phân biệt được, bởi họ đi xe hơi và ăn mặc như chuyên gia Nga. Cũng tin hành lang còn lộ ra là chính quyền Nga-xô và Trung-cộng đều làm sức ép về viện trợ để buộc cộng sản Hà-nội phải trao cho họ một số tù binh Mỹ nhằm khai thác và sử dụng về tình báo quân sự. Số được đưa qua Nga và Tàu lục địa "hình như" cũng được cho lấy vợ và đồng hóa, thay tên đổi họ luôn. Có những tin tức lộ ra còn đi xa hơn nữa là có một số tù binh Mỹ còn được trao cho cả Bắc-hàn và Cu-ba !(?)

"Không có lửa sao có khói". Cho nên đối chiếu vơí thói quen của cộng sản Hà-nội; với sự hoạt động tấp nập của các cơ quan khoa học của cộng sản Hà-nội; với các đoàn chuyên gia, giáo sư đủ loại từ Nga-xô và Trung-cộng lén lút sang Hà-nội nghiên cứu và khuân về nước đủ loại khí tài của Mỹ từ mảnh B.52 đến F.105E, đến F4H, đến giấy gây nhiễu radar v.v... và với sự bặt tăm của 837 tù binh Mỹ mà báo cáo của tướng Trần Văn Quang đã cung cấp cho trung ương cộng sản Nga-xô, cũng như sự có mặt của Fidel Castro tại Việt Nam vào cuối 1974, thì những tin lộ ngoài hành lang nói trên nhất định phải có phần chân thực.

Tuy nhiên cũng phải hiểu không hẳn hoàn toàn cả 837 tù binh Mỹ đều được "trọng dụng", mà chắc chắn có nhiều người bị tra tấn, hành hạ đến chết; bị thất vọng điên loạn mà chết; bị thủ tiêu vì có thể là nhân chứng về tội ác dã man của cộng sản Hà-nội v.v...

Dù gì gì đi nữa thì số phận của gần ngàn tù binh Mỹ - còn sống hay chết - cũng cần thiết phải được mọi người có lương tri quan tâm giải quyết thỏa đáng, nhất là chính phủ Mỹ và nhân dân Việt Nam yêu hòa bình, tự do và dân chủ.

K Ế T L U Ậ N



Vấn đề tù binh Mỹ, cũng như nhiều vấn đề quốc nội và quốc ngoại của Việt Nam, chỉ có thể được giải quyết thỏa đáng, lâu dài và vững bền khi mà ở Việt Nam có sự lãnh đạo của một chính quyền đa đảng, do nhân dân Việt Nam ở trong và ở ngoài nước thực sự tự do và dân chủ bầu ra, có sự giám sát và giúp đỡ của Liên hiệp Quốc.

Tháng 4-1993


Việt Thường

Chú rể gù lưng và cô dâu môi sứt

(Bài 12)
Câu chuyện đồng tình luyến ái của Xuân Diệu - Cù Huy Cận

Xưa thì…



Việt Nam có câu chuyện về "Chú rể gù lưng và cô dâu môi sứt". Chẳng là ở một làng kia, có một nhà giàu có một cô con gái bị sứt môi, như môi thỏ vậy. Nếu chọn rể theo kiểu "môn đăng hộ đối" thì chắc cô gái phải chết già trong cô đơn. Nhưng trò đời, hễ có tiền là tự nhiên có kẻ đến tán tụng và bày mưu tính kế giùm. Cho nên, có một mụ mối, dò biết nỗi khổ tâm của vợ chồng nhà giàu nọ, bèn áo khăn tề chỉnh, đến hầu chuyện mà rằng:

Thừa biết mình đâu có nhân đức, vì làm giàu, có quyền là do lừa đảo, trộm cắp mà nên ông này, bà nọ. Bởi vậy, khi nghe mụ mối nói như thế, hai vợ chồng nhà giàu sầm nét mặt lại. Nhưng mụ mối, vốn cũng là loại lưu manh có hạng, nên tinh ý biết ngay, vội chuyển giọng :

- Vì thế hôm nay đến hầu chuyện hai cụ, trước là thăm hai cụ cho thỏa lòng ao ước, sau là xin báo một tin mừng…

Nói đến đấy, mụ mối giả vờ ngừng lại, uống nước để xem "con mồi" có đớp câu không. Nhưng vợ chồng nhà giàu nọ, vốn ĐẠI LƯU MANH, nên vẫn tỉnh khô. Biết là đụng đầu đại cao thủ, mụ mối vào đề ngay :

- Dạ, mừng lắm ạ, vì nghe tiếng hai cụ có một tiểu thư như vàng ngọc, nên một gia đình quyền quý ở tỉnh bên nhờ con sang đánh tiếng xin được thông gia.

Nghe đúng nỗi đau, hai vợ chồng nhà giàu nọ nhìn nhau, thở dài. Bà vợ nói :

• Chắc bà ở xa nên không rõ đấy thôi. Chúng tôi chỉ có một mụn gái. Cháu rất ngoan nhưng có… tật từ nhỏ.
• Dạ, có sao đâu. Có tài có tật là chuyện thường. Bà nhà giàu lắc đầu :
• Tôi muốn nói là… nói là… cháu bị… sứt môi.

Biết mình đang ở thượng phong, mụ mối gật gù :

• Chúng con có biết chuyện, nhưng vì mến đức của hai cụ nên mạnh dạn đến "xin hiến kế".

Nghe thế, vợ chồng nhà giàu tươi nét mặt :

• Kế như thế nào ?

Mụ mối tủm tỉm :

• Hai cụ cho tiểu thư ăn mặc thật đẹp, vàng ngọc đeo cho lóa mắt. Khi nhà trai sang xem mặt, cho tiểu thư cầm quạt trầm che miệng thì họ chỉ tưởng là tiểu thư bẽn lẽn chứ đâu biết tiểu thư sứt môi ạ.

Nghe xong, vợ chồng nhà giàu cùng đứng dậy nắm tay mụ mối khen ngợi và quát người làm mở tiệc đãi khách. Khi tiễn mụ mối về lại còn lót tay ít quà đáng giá. Lại nói ở tỉnh bên, vợ chồng một viên quan hưu trí, có cậu con trai út bị bệnh thuở nhỏ và bị gù lưng từ đó. Vì cái nhược đấy mà khó kén vợ.
Là một tên lưu manh, sống bằng nghề mối mai lừa gạt, mụ mối nắm được hai cảnh ngộ, hai nhược điểm khác nhau, thế là mụ ra tay khai thác. Cho nên sau khi ở nhà giàu nọ ra về, hôm sau mụ đến ngay nhà viên quan hưu trí và cũng lại "hiến kế" :

• Bẩm cụ lớn, nhà gái là con một của gia đình phú hộ, rất nết na, từ bé đến lớn chưa bao giờ đi ra khỏi nhà, được về nâng khăn, sửa túi cho công tử thì thật là may mắn lắm ạ.

Viên quan thở dài :

• Công tử nhà tôi hiền lành, giỏi giang, nhưng hiềm nỗi thuở nhỏ gặp bệnh hiểm nghèo nên bị gù lưng, sợ nhà gái chê thì không tiện.

Mụ mối ỏn ẻn :

• Xin cụ lớn yên lòng, con xin "hiến một kế". Khi đến xem mặt nhà gái, cụ lớn cho công tử cưỡi ngựa đi ngang qua sân rồi cho công tử lui để phụ mẫu đôi bên nói chuyện thì ai mà biết là công tử bị gù lưng cho được. Đến khi ván đã đóng thuyền dù biết cũng đã muộn.

Và, quả đúng như mụ mối dự đoán. Nghĩa là khi đón dâu và làm lễ hợp cẩn thì đôi bên mới biết là chú rể bị gù, cô dâu bị… sứt. Và, đúng là biết THÌ ĐÃ MUỘN. Sự kết hợp thành công của cặp vợ chồng đó chính là do mụ mối biết lợi dụng CHỖ YẾU của hai bên để tìm cách CHE ĐẬY CHỖ NHƯỢC khiến cho tất cả ĐỀU BỊ LỪA. Cặp vợ chồng "gù, sứt" đó có hạnh phúc hay không thì chuyện không nói đến. Nhưng điều RÕ RÀNG LÀ KẺ THỦ LỢI CẢ HAI PHÍA LÀ MỤ MỐI.

Nay thì…

Xưa thì có MỤ MỐI và hiện nay, trong cộng đồng người Việt tỵ nạn mafia đỏ ra sinh sống ở nước ngoài, cùng chạy ăn theo những người tỵ nạn đích thực, có một số ANH MỐI. Họ không làm cái việc mai mối hôn nhân mà MAI MỐI cái gọi là GIAO LƯU VĂN HÓA… (một chiều). Nếu xưa kia, chuyện chú rể có điểm nhược là GÙ LƯNG, thì nay điểm nhược của chúng ta là THIẾU TÀI LIỆU TRUNG THỰC, nhất là thế hệ trẻ, đặc biệt thế hệ được sinh ra ở nước ngoài từ sau tháng 4-1975. Ngay nhân dân trong nước, nhất là thanh thiếu niên, ngày ngày còn dùng toàn TÀI LIỆU GIẢ thì làm sao đồ XUẤT KHẨU RA HẢI NGOẠI TRÁNH KHỎI HÀNG GIẢ.

Còn cái nhược của mafia đỏ là nếu cho MỐI ở trong nước ra thì bị ăn cà chua, trứng thối nên đề ra trò "giao lưu văn hóa" nhưng không thể tự thực hiện được. Cho nên MỐI HẢI NGOẠI nhào dzô.

Bài này xin đơn cử một THỨ GIẢ mà ANH MỐI Ở HẢI NGOẠI đã khai thác sự thiếu vốn thực của người Việt chúng ta, nhất là giới trẻ, để HƯỞNG LỢI. Đó là câu chuyện về chàng thi sỹ từ cái tên XUÂN DIỆU vì nhiễm HIV cộng sản dương tính mà thành XUÂN TÓC ĐỎ .

Cứ theo kiểu ANH MỐI giới thiệu thì người Việt ở hải ngoại chỉ biết đến Xuân Diệu như là một nhà thơ trữ tình ngoại hạng, thuộc phong cách mới của thời tiền chiến – nghĩa là trước 1945.

THƠ MỚI ở Việt Nam những năm 1945 trở về trước không phải là một hiện tượng thuần nhất, nên trong cuốn "Thi nhân Việt Nam", tác giả Hoài Thanh đã phân chia thành các nhóm gọi là XÓM và Xuân Diệu được xếp trong XÓM "Huy – Xuân" (Huy Cận và Xuân Diệu), là những người làm thơ mới chỉ sử dụng những yếu tố tượng trưng. Giai đoạn trước 1944 thì quả Xuân Diệu là một thi sỹ có những bài thơ tình nóng bỏng, được giới trẻ yêu thích. Nhưng, thật đáng buồn cho những người Việt Nam yêu thơ, thật thiệt thòi cho kho tàng thơ hiện đại Việt Nam mà KẺ THIỆT THÒI và ĐÁNG BUỒN nhất chính là Xuân Diệu. Kể từ cuối năm 1944,sau khi bị cộng dảng chi phối thì NHÀ THƠ TRỮ TÌNH XUÂN DIỆU ĐÃ THOÁI HÓA CẢ TRONG SÁNG TÁC LẪN ĐỜI THƯỜNG.

Cũng như Cù Huy Cận, Xuân Diệu được đầu lãnh mafia đỏ cài vào nằm vùng trong đảng Dân Chủ Việt Nam, do Dương Đức Hiền sáng lập với những tên tuổi ở miền Nam như Huỳnh Tấn Phát, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiểng và ở phía Bắc có những gương mặt như luật gia Vũ Đình Hòe, nhà nghiên cứu văn học Đỗ Đức Dục, bác sỹ Nguyễn Tấn Di Trọng, các kỹ sư Trần Đăng Khoa, Nghiêm Xuân Yêm v.v… và tiếng nói của đảng Dân Chủ là tờ báo có tên : ĐỘC LẬP.
Sau khi quân Nhật làm cuộc đảo chính chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, tháng 3-1945, thì quân Nhật trả chính quyền lại cho hoàng đế Bảo Đại. Học giả Trần Trọng Kim được chỉ định lập chính phủ. Hà-nội được đổi tên thành Hoàng Diệu (vị tổng đốc tuẩn tiết khi Hà-nội bị thất thủ vào tay thực dân Pháp, hệt như sự tuẩn tiết của các vị tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai v.v… trong năm 1975, khi binh lính mafia đỏ hoàn thành cuộc xâm lược toàn bộ nước Việt Nam); hầu hết ở các tỉnh thành, các đường phố đều bỏ tên do thực dân Pháp đặt mà mang tên các nhân vật lịch sử của Việt Nam đã được khẳng định, thí dụ như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Ngô Thì Nhậm, Chu Văn An, Duy Tân, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Ký Con, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Tuệ Tĩnh v.v…; lệnh tha ra khỏi nhà tù của thực dân Pháp tất cả các tù, không phân biệt xu hướng chính trị, đồng thời thu hồi lệnh truy tố các tù chính trị đang phải sống lẫn trốn do thực dân Pháp ban hành; chọn bài "Việt Nam Minh Châu Trời Đông" của nhạc sỹ Hùng Lân làm quốc ca; bài "Chiêu Hồn Tử Sỹ" của Lưu Hữu Phước để tưởng nhớ tất cả nhân dân, chiến sỹ Việt Nam đã vì Tổ-quốc mà hy sinh; tự do ra báo, tự do họp hành, đi lại và đặc biệt là lệnh truy tố tham quan, ô lại.

Ngay khi nhậm chức thủ tướng, cụ Trần Trọng Kim đã tâu lên hoàng Đế Bảo Đại rằng cụ đã nhiều tuổi, không có kinh nghiệm làm chính trị, không đảng phái nên cụ chỉ xin tạm nhận sự bàn giao của tụi Nhật rồi sẽ trao lại chính phủ cho đại diện các đảng phái. Vì thế mới có cái chính phủ Liên Hiệp ra đời với đủ thành phần lúc đó là :

• Chủ tịch : Hồ Chí Minh (khi ấy Hồ không nhận là cộng sản nên hắn đã cho giải tán đảng cộng sản mà hạ xuống thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx, do Trường Chinh cầm đầu);
• Phó chủ tịch : Nguyễn Hải Thần (Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội);
• Bộ trưởng ngoại giao : Nguyễn Tường Tam (Đại Việt)
• Bộ trưởng quốc phòng : Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc Dân Đảng);
• Bộ trưởng giáo dục : Nguyễn Văn Tố (nhân sỹ);
• Bộ trưởng nội vụ : Huỳnh Thúc Kháng (nhân sỹ);
• Bộ trưởng y tế : Vũ Đình Tụng (nhân sỹ);
• Bộ trưởng thanh niên : luật sư Phan Anh (thành viên cũ của chính phủ Trần Trọng Kim);
• Bộ trưởng tuyên truyền : Trần Huy Liệu (Việt Nam độc lập đồng minh);
• Bộ trưởng nông nghiệp : Cù Huy Cận (đảng dân Chủ Việt Nam);
• Bộ trưởng không bộ : Hoàng Minh Giám (đảng Xã Hội Việt Nam) và v.v…

Hoàng đế Bảo Đại, sau lễ thoái vị để chính phủ Trần Trọng Kim bàn giao chính quyền cho các đảng phái, trở thành cố vấn Vĩnh Thụy của chính phủ Liên Hiệp; Phạm Khắc Hòe, nguyên bí thư của hoàng đế Bảo Đại, được giữ chức Đổng lý văn phòng Bộ Nội-vụ.

Hội đồng chính phủ Liên Hiệp còn cử ra ban cố vấn, gồm 10 người là các vị : Đức Cha Lê Hữu Từ, Bùi Bằng Đoàn (cựu bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim), Ngô Tử Hạ, Lê Tại, Bùi Kỷ (hiệu trưởng trường trung học tư thục Louis Pasteur, ở Hà-nội) v.v…

Có thể nói là hầu hết thành viên chính phủ là người không đảng phái. Ngay cái gọi là tổ chức Việt Minh (viết tắt của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh) thoạt kỳ thủy cũng là sự LIÊN KẾT của nhiều tổ chức chính trị, nhưng rồi bị tên Việt gian Hồ Chí Minh và tay chân đã thâm nhập và lũng đoạn BIẾN THÀNH CÔNG CỤ CỦA MAFIA ĐỎ.

Chính lá thư tên Việt gian Hồ Chí Minh gửi tướng Tàu (Tưởng) Trần Tu Hòa, đề ngày 19-12-1945, cũng thừa nhận rằng Việt Minh là mặt trận của một số tổ chức, đảng phái, (tài liệu còn lưu tại Bảo tàng Hồ Việt gian ở Hà-nội – VT).

Cùng với những việc, như đã nêu ở trên của chính phủ Trần Trọng Kim, thì MỘT VIỆC CỰC KỲ QUAN TRỌNG NỮA LÀ SỰ RA ĐỜI LÁ QUỐC KỲ CỦA VIỆT NAM : QUẺ LY MÀU ĐỎ NẰM TRÊN NỀN VÀNG. Trên cơ sở lá cờ đó đã ra đời lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ hiện nay nhằm qui tụ những người Việt Nam chống tập đoàn mafia đỏ Việt Nam tiếm quyền. (Lá cờ mà nhờ đó đã qui tụ người Việt tự do đấu tranh buộc mafia đỏ phải thả viên tiến sỹ quản trị (chứ không phải chính trị như họ Đoàn nhập nhằng) Đoàn Viết Hoạt để khi được TỰ DO thì Hoạt khước từ đứng dưới lá cờ đã CỨU MẠNG và ĐÁNH BÓNG cho họ Đoàn… Vô ƠN!!!

Thâm nhập, tiến tới lũng đoạn Mặt Trận Việt Minh mà trước hết là đưa được cái cờ "nền đỏ sao vàng" làm cờ của mặt trận. Rồi dựa vào việc mặt trận là của "một số tổ chức đảng phái (có cả Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng) để biến lá "cờ đỏ sao vàng" thành quốc kỳ. Cái chuyện nhập nhằng này là kết quả của âm mưu lưu manh chính trị Hồ Việt gian và sự "nhẹ dạ" của một số người có trách nhiệm lúc đó trong chính quyền lâm thời, vì đa phần là nhân sỹ không đảng phái, chưa có kinh nghiệm nhận diện Hồ Việt-gian và bè lũ.
Đánh tráo lá "cờ đỏ sao vàng" vào vị trí của "cờ vàng ba sọc quẻ ly" là một bước của sự thoán đoạt. Sau đó lại thay thế quốc thiều "Việt Nam minh châu trời Đông" bằng "Tiến quân ca" của Văn Cao (khi ấy là một nhạc sỹ tên tuổi, chưa gia nhập tổ chức mafia đỏ, là tác giả những bài đương thời được ưa thích như Thiên Thai, Suối Mơ v.v…). Tiến tới ÂM THẦM bỏ cái tên Hoàng Diệu để lấy lại cái tên Hà-nội và v.v… Tất cả đều là bài bản của tên Việt gian, bài tây "ba lá" Hồ Chí Minh, nhằm xóa bỏ giai đoạn lịch sử Trần Trọng Kim, che giấu sự thật về SỰ KẾ THỪA CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM, dựng ra HUYỀN THOẠI của cái gọi là CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1945)!!!

Chính vào lúc "tranh tối tranh sáng đó" của lịch sử Việt Nam thì XUÂN DIỆU đã lộ cái mầm lưu manh XUÂN TÓC ĐỎ. Hắn tự nguyện để cho mafia đỏ lợi dụng "cái uy tín" của hắn, NHẤT LÀ TRONG GIỚI THANH NIÊN BỒNG BỘT, để viết một bài gọi là THƠ mang tên "NGỌN QUỐC KỲ", ca ngợi lá "cờ đỏ sao vàng", đăng trên tờ báo Độc Lập của đảng Dân Chủ. Chính Xuân Diệu đã góp phần quan trọng trong việc tạo cơ hội cho HIV cộng sản dương tính là "lá cờ màu đỏ máu và ngôi sao vàng bệnh hoạn của sốt rét ác tính" vào cơ thể xã hội Việt Nam, mà hậu quả tai hại còn kéo dài từ đó đến nay.

Cũng chính Xuân Diệu là tên bút nô đầu tiên của mafia đỏ CÔNG KHAI CA NGỢI cái gọi là CHUYÊN CHÍNH (tức độc tài khát máu của mafia đỏ) cả nói lẫn thơ. Trong hồi ký mang tên "Mài sắt nên kim", Xuân Diệu viết : "Bây giờ đã 29 năm rồi. Tôi vẫn nhớ, càng nhớ cuộc tái sinh của mình… Ôi, chính quyền, chính quyền, chính quyền của chúng ta… Riêng tôi, tôi liên hệ cái vui sướng có chính quyền, có CHUYÊN CHÍNH ấy (chúng tôi nhấn mạnh – VT) với niềm hạnh phúc của tình yêu thứ nhất."

Thế là CHÍNH QUYỀN và CHUYÊN CHÍNH đã có ngay từ đầu trong bút ký, hồi ký và thơ của Xuân Diệu. Sợ không?!!! (Chẳng biết mấy ANH MỐI HẢI NGOẠI có biết không để dùng quạt trầm và ngựa mà che đậy như MỤ MỐI ngày xưa ?). Những năm 1956 – 1957, ở miền Bắc Việt Nam, văn nghệ sỹ, trí thức, sinh viên đứng lên trong phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, thì Xuân Diệu, trong hồi ký của hắn có kể rằng :

"… Và có một đêm, chừng hai, ba giờ sáng, tôi đứng nghe gió, nghe ngực trái đất đập và nghe đâu đó có ai mở mắt, ai khóc thầm, có ai ban chiều ăn chẳng no lòng, cái đói dậy như trẻ con khóc thét, có ai nhức nhối những vết thương lở loét… Bỗng điện thoại reo. Tiếng đầu giây, anh Trần Quốc Hoàn (lúc bấy giờ phụ trách an ninh) thăm hỏi sức khỏe và hỏi nhà thơ đã có thơ cho cuộc đấu tranh này chưa ? Nhà thơ loay hoay định "khai thác" ở nhà lãnh đạo mặt trận bảo vệ, nhưng anh Hoàn như hiểu ý, cười nhẹ nói gọn một câu :"Vô sản chuyên chính là hồn thiêng dân tộc đã có trong Ngọn Quốc Kỳ của nhà thơ đấy". Thế là bài thơ "Vô sản chuyên chính" cái khởi điểm bắt đầu lại ở những câu thơ cuối :
"Tôi đã từng làm thơ về gió về mây
Tôi làm thơ về tư tưởng đêm nay
Bọn chúng cười ta làm thơ chính trị
Nếu hình thức có hơi non một tý
Chúng vui mừng la ó vỗ tay ran
Mặc chúng kêu rêu lá rụng hoa tàn
Tôi thẳng thắn ngợi ca nền chuyên chính".

Cái gọi là "bài thơ" nói trên được đăng ở tờ Nhân Dân – cơ quan ngôn luận của mafia đỏ, vào số ngày đầu thứ hai tháng 8-1957.

Hơn 30 năm qua rồi, đến tận bây giờ, trong lúc tập đoàn mafia đỏ ò è hợp ca bài chèo "xóa bỏ hận thù", "hòa giải – hòa hợp", "cùng nhau xây dựng đất nước", "khúc ruột ngàn trùng" và gợi nhớ "quê hương" v.v…, thì lũ bút nô của chúng, loại bút nô đàn em của Xuân Diệu vẫn lên tiếng ca ngợi tên "Xuân tóc đỏ" trong thơ này là "một nhà thơ cách mạng, một công dân chân chính". Rồi trân trọng BÌNH những thơ sau đây của Xuân Diệu :

Bọn hổ báo ta ghè nanh, ta bẻ vuốt
Những luật điên cuồng ta buộc sẽ thông minh
Luật chiến tranh thay bằng luật hòa bình
Bọn rồng đất dần dần ta tóm gáy
VÔ SẢN TÀI TÌNH, CHUYÊN CHÍNH LÀ THẾ ĐẤY!
Con ngựa bất kham
Ta khớp quai hàm…"
Đọc những giòng trên mà gọi là THƠ, xin lỗi : BUỒN ÓI !

Ấy thế mà có người hỏi Xuân Diệu rằng :"bài thơ ‘tư tưởng’ ấy có đầy đủ chất liệu nghệ thuật không?" Thì, giống hệt Hồ việt gian viết sách tự "bốc thơm", Xuân Diệu đã thản nhiên trả lời :

"… Thơ cũng là tư tưởng, tâm hồn, còn là thể xác nữa chứ. Phải có những câu thơ mà ngay thân xác của nó cũng đáng nhớ. Thơ đi vào ý là thơ giáo huấn. Ý phải vật chất hóa thành tứ. Tứ đổi ra thành hình tượng. Hình tượng trong "Vô sản chuyên chính" khá rõ. Nhiều lần người nghe đòi tôi bình bài thơ ấy. Họ thích không phải vì "chiếu cố". Tài giỏi là anh hùng đi nữa, nhưng phải là đàn bà thì người ta mới cưới làm vợ chứ. Tính nữ là tiêu chuẩn của vợ, cũng như tính thơ là tiêu chuẩn của thơ…"

Và, Xuân Diệu nhấn mạnh :
"BÀI THƠ ‘VÔ SẢN CHUYÊN CHÍNH’ ĐẢM BẢO HOÀN TOÀN TÍNH THƠ, TÍNH THI SỸ."

Đúng là chỉ có "tư tưởng Hồ Chí Minh" mới đủ mặt thớt tự bốc thơm hệt như cảnh "khỉ soi gương nhăn mặt… cười"!

Và, trước khi đi lao động cải tạo, ở Âm-ty với họ Hồ và các đầu lãnh mafia đỏ khác, một tuần, Xuân Diệu có ý viết một tập sách "Về nghề làm thơ" cho LỚP TRẺ với tâm niệm rất BÚT NÔ MAFIA ĐỎ là :

"Tôi đã từng làm thơ về mây gió
Tôi sẽ còn làm thơ về sen ngó với đào tơ
Hẹn sớm mong chiều tôi vẫn sẽ làm thơ
NHƯNG HƠN CẢ XƯA KIA, HƠN CẢ BAO GIỜ
TÔI MUỐN LÀM BÀI THƠ VỀ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN."

Không biết ANH MỐI HẢI NGOẠI đã "nghiên cứu" những bài thơ loại này của Xuân Diệu chưa ?

Nhân đây, vì Xuân Diệu đã từng bị cụ Phan Khôi, một học giả hàng đầu đã thấy rõ chất mafia của tập đoàn cộng sản, bật mí câu chuyện Xuân Diệu và Cù Huy Cận "BÊ-ĐÊ" với nhau, để thấy tại sao Xuân Diệu lại lập luận "thừa thải" và so với hiện tại còn là lạc hậu khi hắn nói :
"Tính nữ là tiêu chuẩn của vợ, cũng như tính thơ là tiêu chuẩn của thơ…"
Chắc để chống lại cái "bật mí" của cụ Phan Khôi, nên…

Xuân Diệu lấy… vợ

Thời kỳ ở Việt Bắc, vì sống tập thể nên ai ai cũng biết chuyện Xuân Diệu và Cù Huy Cận ăn ngủ với nhau "đúng kiểu vợ chồng". Đến thời Nhân Văn – Giai Phẩm, bọn Xuân Diệu – Cù Huy Cận cũng đi bài bản của Hồ việt gian và các đầu nậu mafia chóp bu, theo kiểu các cụ xưa thường nói là:"Chân mình những cứt bết bê còn cầm bó đuốc mà chê chân người", nên bị cụ Phan Khôi mắng cho ở giữa đám đông. Cả hai đứa bẻ mặt. Xuân Diệu bèn đem em gái gả cho Cù Huy Cận làm vợ, và bản thân cũng đánh tiếng với "đảng" (tức mafia đỏ) là muốn lấy vợ để… chứng tỏ cụ Phan Khôi mắng… ẩu.

Một bút nô trung thành như Xuân Diệu thì làm sao bọn Hồ việt gian chẳng thưởng công. Và, một nữ phóng viên ban văn-xã (tức văn hóa và xã hội) của báo Nhân Dân được chọn để "nâng khăn sửa túi" cho Xuân Diệu, tên B.D. (xin phép được viết tắt). Tầng lớp trẻ ở trong và ngoài Việt Nam hiện nay chắc không thể hình dung được rằng, trước 4-1975, ở miền Bắc Việt Nam do mafia đỏ đặt ách cai trị thì nô lệ mọi giới, được gọi bằng uyển ngữ "cán bộ công nhân viên", lấy vợ lấy chồng không do tự chọn hoặc do cha mẹ cưới hỏi, mà do chủ nô (tức tập đoàn mafia đỏ Hồ việt gian) gán ghép và cho phép. Chính vì không được "tìm hiểu" mà tin tưởng ở "tổ chức" (một cách gọi khác về lũ đầu nậu mafia đỏ các cấp) nên việc Xuân Diệu lấy vợ thành "tiếu lâm" một thời ở Hà-nội.

Đại diện bên chú rể, Xuân Diệu, là giáo sư Đặng Thái Mai (bố vợ của Võ Nguyên Giáp), lúc đó là Chủ tịch hội liên hiệp văn học nghệ thuật (là tổ chức của các loại bút nô).

Đại diện bên cô dâu, B.D., là Hoàng Tùng, dự khuyết trung ương mafia đỏ kiêm tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan nói láo của mafia đỏ).

Đám cưới thật là "đông và vui", hiện diện đủ mọi loại mồm loa mép giải, mọi chức sắc ác ôn của tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ. Cuộc vui kéo đến gần nửa đêm và cặp vợ chồng mới, Xuân Diệu – B.D., được đưa bằng xe Volga, sản xuất tại Nga xô, chỉ giành cho cấp trung ương mafia đỏ, đưa về tận nhà ở đầu phố Cột Cờ, Hà-nội. Vợ chồng làm lễ động phòng chưa được một giờ đồng hồ thì, cô dâu B.D. lu loa khóc, áo quần xốc xếch, đầu tóc rối bù nhào ra cổng sắt bỏ chạy về phía vườn hoa Canh Nông (trước sứ quán Trung cộng).
Từ lầu trên (vì ở chung một vi-la), cặp vợ chồng son Cù Huy Cận – XN (em gái Xuân Diệu) nhào xuống xem chuyện gì. Em gái Xuân Diệu mặt tái mét hỏi ông anh dồn dập. Xuân Diệu lúc lắc cái đầu, thở phì phì như bò tót ở sân đấu. Chỉ riêng Cù Huy Cận là "tủm tỉm cười" vì biết tỏng tòng tong chuyện "con mẹ hàng lươn". Họ Cù bảo vợ đi lên gác ngủ một mình, rồi vào phòng Xuân Diệu, đóng chặt cửa phòng lại "an ủi" nỗi… "vô hạnh" của người bạn thơ mới cùng chung một… XÓM (như sự phân chia của Hoài Thanh). Phải vài năm sau, em gái Xuân Diệu xin ly hôn cùng Cù Huy Cận thì cái "đoạn phim" của giờ Xuân Diệu "động phòng" và cách "an ủi" của Cù Huy Cận mới được bật mí cho một số ít người thân và người có trách nhiệm xử lý vụ ly hôn.

Còn về cô dâu B.D., đêm tân hôn tháo chạy ra vườn hoa Canh Nông, khóc cho đến sáng thì về báo Nhân Dân, làm đơn xin ly hôn đưa cho tòa án khu Hoàn Kiếm. Sau đó B.D. chuyển qua ngành điện ảnh.

Chuyện đồn ầm cả Hà-nội, chỉ tội cho bà B.D., một dạng độc đáo của nạn nhân dưới ách mafia đỏ, còn bị đưa tên vào mấy câu đối của "tay chơi Hà-nội", không tiện chép ra ở đây.

Người ta kể rằng, lúc nhận đơn xin ly hôn của B.D., mụ chánh án tòa án khu Hoàn Kiếm, vốn xuất thân bán rau ở chợ Bắc qua nên có thèm biết luật đâu. Đánh vần mãi không xong và chẳng hiểu tại sao Xuân Diệu… "móc tay" mà B.D. lại phải xin… ly hôn. May làm sao, có "tay chơi Hà-nội" ghé qua, mới dùng đôi câu đối của Trạng Quỳnh để giải thích rằng :

"Vũ cậy tài vũ ra vũ múa
Vũ bị mưa vũ ướt cả lông"

đối lại :

"Thị vào chầu thị đứng thị trông
Thị cũng muốn nhưng không có… ấy!"

Bấy giờ mụ Chánh án mới đỏ mặt cười lên hưng hức và bèn ký giấy cho "LY HÔN HỎA TỐC".

Nhờ đó dân Hà-nội lại có thêm bài Thơ Ghế Đá như sau :

"Nhà thơ "chuyên chính" thật là gân guốc
Bao sợi gân ra tuốt thành thơ
Khi cơn lên ngồi đứng ngẩn ngơ
Lòng quằn quại nhưng chỉ biết sờ cùng mó
Bởi cái "gân cần" thì quá nhỏ, đành bỏ xó
Bằng ngón út trẻ thơ thì làm được cái chó gì
Đêm tân hôn Xuân Diệu ngồi khóc tỷ ty
B.D. ơi ! về đi em hỡi
Nâng tay nghề anh xin chừa :"May ngón tóc"!"
("May ngón tóc" là câu chữ nói lái của Trạng Quỳnh dạy cho quan hoạn trong "Tiếu lâm Việt Nam).

Trò đời thật trớ trêu. Trong khi tại Việt Nam, nhiều cây bút đi võ lập lờ nước đôi trong VIẾT để LÁCH, khiến người đọc hiểu là khen cũng được, mà hiểu là chê cũng được, thì, ở hải ngoại, mấy ANH MỐI, CHỊ MỐI vẫn đam mê trò "theo voi ăn bã mía". Thí dụ, cây bút Trúc Chi ở quốc nội, trong khi tán tụng Xuân Diệu thì lại nhắc đến câu chuyện :

Xuân Diệu bị đánh

Đó là chuyện của cái thời năm 1945, người Hà-nội suốt ngày biểu tình tuần hành. Một lần, đoàn biểu tình của những người dân Hà-nội ủng hộ Việt Nam Quốc Dân Đảng đi ngang qua bờ Hồ Gươm ở góc đường Tràng Tiền, Hà-nội; Xuân Diệu đứng ở đó bày đặt chống lại đám đông, gào lên "đả đảo". Thế là mấy người trong đoàn biểu tình tóm cổ Xuân Diệu, bợp tai cho mấy cái và quẳng xe đạp của hắn xuống Hồ Gươm. Xuân Diệu đành ôm mặt lủi thủi vớt xe đạp lên rồi cúp đuôi dzọt về nhà.
Từ ngày nhập bọn với lũ mafia đỏ, Xuân Diệu đã bị lưu manh hóa. Mặc dù được bọn đầu lãnh mafia đỏ đánh bóng bằng cái danh "Viện sỹ thống Viện hàn lâm"… nhưng là của Đông Đức, ngoẻo từ những năm 1990, nhưng làm sao bút nô Xuân Diệu có thể BÓNG được. Thuốc đánh bóng của Đông Đức vốn là đồ giả, còn Xuân Diệu thì "xỉn" quá xá. Chỉ nội cái chuyện ăn cắp công trình sưu tập thơ về Hồ việt gian, của Hạ Bá Nền, đủ cho thấy diện mạo thực của Xuân Diệu. Hắn bị "Tay chơi Hà-nội" CHƠI cho nhiều vố đau mà đành nén đau câm miệng hến.

Không c… mà dám lấy vợ, quả là con đẻ của tập đoàn mafia đỏ Hồ việt gian, thuộc loại TIỂU LIỀU.

Ăn cắp công trình nghiên cứu của cháu Hoàng Quốc Việt (tức Hạ Bá Cang), một mafia đỏ loại gộc là TRUNG LIỀU.

Và, làm thơ "TƯ TƯỞNG" ca ngợi "CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN" thì quả là… ĐẠI LIỀU.

Bệnh LIỀU THEO VOI ĂN BÃ MÍA đã nhiễm vào phủ tạng các ANH, CHỊ MỐI ở hải ngoại rồi, mau tìm thuốc chữa chạy kẻo muộn. Đừng lặp lại cái miểng "phản chiến" bằng võ "giao lưu văn hóa" như kiểu Trịnh Công Sơn xưa kia mà tiếng xấu để đời, nếu có chết thì con em cũng mang tiếng con em "phản bội", "phản chiến !!!!


Cù Huy Cận và Cù Huy Hà Vũ cha con đại gian họ Cù tâm dạ Hán

Nguyên Chủ tịch Nước Đại tướng Lê Đức Anh và Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
Đại tướng việt gian Lê Đức Anh công thần của Tàu TC2
việt gian Cù Huy Hà Vũ là người của TC2 giả vờ chống đảng ?--------------

Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Nhiều người đã viết về ông và nhiều nhất là về thơ tình của ông. Nhưng trong thơ tình của Xuân Diệu, những đối tượng nào được ông yêu thì hình như chưa có ai bàn đến. Trong khi, đó lại chính là điểm hứa hẹn nhiều chuyện thú vị.

Chúng ta nên biết là suốt đời Xuân Diệu không có vợ, không có con. Ông sống độc thân cho đến lúc mất, vào năm 1985, lúc 69 tuổi. Trong bài 'Khung cửa sổ', Xuân Diệu tả cuộc sống của mình như sau:
Anh có nhà, có cửa
Nhưng không vợ, không con
Sợ cái bếp không lửa
Sợ cái cửa không đèn.
Những đêm đi xa về
Tận xa nhìn cửa đóng
Không ánh sáng đón mình
Chẳng có ai trông ngóng.
Cảm giác ngậm ngùi mỗi lần nói đến chuyện tình yêu đã xuất hiện trong thơ Xuân Diệu ngay trước năm 1945, lúc Xuân Diệu còn là một thanh niên. Lúc đó, khi nhìn những người đẹp, ông đã chua chát tự nhủ thầm:
Ta thấy em xinh khẽ lắc đầu
Bởi vì ta có được em đâu.
Cũng có khi ông trách móc:
Lòng ta là một cơn mưa lũ
Đã gặp lòng em là lá khoai.
Mưa biếc tha hồ tuôn giọt ngọc
Lá khoai không ướt đến da ngoài.
Những cảm giác như vậy xuất hiện nhiều lần trong thơ Xuân Diệu. Có thể nói là mặc dù rất đa tình, Xuân Diệu ít khi được thoả mãn. Lý do chính của tình trạng này có thể làm nhiều người kinh ngạc: Xuân Diệu là một người đồng tính luyến ái.
Ở Hà Nội, trong giới quen biết với Xuân Diệu, hình như đã có nhiều người biết chuyện này. Tuy nhiên, ít ai dám công khai nói ra, có lẽ vì sợ cái uy thế của Xuân Diệu và của Huy Cận. Người đầu tiên dám đề cập đến chuyện này một cách công khai chính là Tô Hoài trong cuốn Cát bụi chân ai xuất bản năm 1993 tại Hà Nội. Tô Hoài kể, trước năm 1945, ông được gặp Xuân Diệu vài lần, lần nào cũng diễn ra cái cảnh:
Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm. Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập thơ Thơ thơ khổ rộng nhà in Trung Bắc phố Hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chì sắc gọn, không phải chữ gỗ dẹp đét.
Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi, nhìn tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. (tr. 168-69)
Cũng trong cuốn hồi ký này, Tô Hoài kể là trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, lúc ở căn cứ Việt Bắc, hằng đêm Xuân Diệu hay sang giường các bạn trai của ông để tỏ tình, âu yếm. Các bạn trai của ông rất sợ, vì vậy cứ đêm đến là họ...đi tị nạn sang các nhà khác, không ai dám ở chung với Xuân Diệu:
Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên, nháo lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ vào ngủ lang trong xóm. Thằng Đại trắng trẻo, mũm mĩm thì biến là phải. Nhưng cả thằng Nghiêm Bình cao to hiên ngang thế, tối cũng lẳng lặng vác cái ghi ta đi. Bốn bên lặng lẽ như tờ. (tr. 171)
Mặc dù Tô Hoài đã được Xuân Diệu vuốt tay và nhìn đắm đuối trước năm 1945 như ông đã kể, nhưng hình như ông cũng chưa hiểu hết mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Cho nên đêm đầu tiên ghé lại khu văn nghệ sĩ ở căn cứ địa Việt Bắc, ông đã an nhiên ngủ lại trong căn nhà này chung với Xuân Diệu. Nửa đêm, lúc ông đang ngủ mê, thì:
Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần xuống dần [...].
Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa. (tr. 170)
Cuối cùng, khi chuyện vỡ lỡ, tổ chức đem Xuân Diệu ra kiểm thảo. Tô Hoài viết tiếp:
Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo dài hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn, nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tổ buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm, hướng sửa chữa và công việc ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ có ông Phan Khôi lên buồng vẫn mắc màn sẵn đi ngủ từ chặp tối, bỏ ngoài tai mọi việc.
Xuân Diệu chỉ ngồi khóc, chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, thằng Đại và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, nhưng cũng không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà. Không nói cụ thể việc ấy, nhưng ai cũng to tiếng gay gắt “tư tưởng tư sản, phải chừa đi.” Xuân Diệu nức nở “tình trai của tôi... tình trai” rồi nghẹn lời, nước mắt lại ứa ra.
Ít lâu sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường vụ. Và cũng thành một cái nếp kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những việc chủ chốt trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người hiếm thì giờ chỉ chuyên đi viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh mọi công tác. (tr. 171-2)
Đó là chuyện ngoài đời. Chuyện này tuy có thể thoả mãn óc tò mò của chúng ta, tuy nhiên nó lại không đáng bàn và cũng không nên bàn nhiều. Dù sao nó cũng là chuyện riêng tư và chúng ta có bổn phận phải tôn trọng chuyện riêng tư đó. Điều đáng nói hơn là chúng ta thử tìm những biểu hiện đồng tính luyến ái trong thơ của Xuân Diệu.
Trong đoạn hồi ký trên, Tô Hoài có nhắc đến chi tiết: Xuân Diệu nức nở nói về 'tình trai' của mình. Tình trai là tình giữa hai người con trai với nhau. Chữ 'tình trai' gợi cho chúng ta nhớ, trong tập Thơ thơ, tác phẩm đầu tay xuất bản năm 1938 của Xuân Diệu, có một bài thơ nhan đề là ‘Tình trai’ như sau:
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ, mê tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.
...
Kể chi chuyện trước với ngày sau
Quên ngó môi son với áo màu
Thây kệ thiên đường và địa ngục
Không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Bài thơ viết về chuyện hai nhà thơ Rimbaud và Verlaine của Pháp nhưng qua đó ngụ ý của Xuân Diệu là nói đến chuyện của mình. Yêu bạn trai, ông quên cả chuyện “ngó môi son với áo màu”, tức là phụ nữ. Mối tình trai này tha thiết đến độ “Thây kệ thiên đường và địa ngục / Không hề mặc cả, họ yêu nhau.”
Cũng trước năm 45, Xuân Diệu có bài thơ nhan đề là ‘Tặng bạn bây giờ’:
Ta biết ngày mai em có vợ
Đi làm hai bữa, tối về thăm
Cơm xong, chén nước chờ bên cạnh;
Em bế thằng con được mấy năm.
Chỉ mấy năm thôi, đủ phận chồng
Chàng trai tơ mởn đã thành ông
Không còn mộng dễ ngày tươi trẻ
Mắt sáng phai rồi, má hóp không.
Em ngồi trông vợ thấy nàng tiên
Là một người thôi, mộng hão huyền
Ta bước bên đường kêu gọi mãi
Nhớ người bạn cũ thuở anh niên.
Em nghe tê tái dưới hàng mi
Tiếc thuở say nồng, nhớ bạn si
Khép mắt buồn xa, em sẽ bảo:
- Có chàng Xuân Diệu thuở xưa kia...
Từ trước đến nay, đọc bài thơ trên, ít ai chú ý đó là bài thơ tả mối tình của một người đồng tính luyến ái. Người được tác giả gọi bằng em một cách tha thiết lại là một người con trai. Nhà thơ yêu người con trai đó và ghen tức trước viễn tượng là một ngày kia người con trai sẽ lấy vợ “Ta biết ngày mai em có vợ.”
Sau này, có thời gian Xuân Diệu sống hẳn với một thanh niên tên là Hoàng Cát. Ông làm bài ‘Đời anh em đã đi qua’ tả lại quãng đời hạnh phúc này:
Đời anh em đã đi qua
Sáng thơm như một luồng hoa giữa đời
Hiểu làm sao hết, em ơi
Bốn năm kỳ diệu đất trời nhờ em
Ngôi nhà, cánh cổng, trái tim
Khóm cây, con mắt ngày đêm đón mừng.
Em đi, anh ngóng trông chừng
Anh về, miệng đã gọi lừng: em ơi !
Bữa ăn thành một hội vui
Có em gắp với, rau thôi cũng tình
Cảnh thường cũng hoá ra xinh
Có em, anh hết nghĩ mình bơ vơ ...
Khi Hoàng Cát đi bộ đội rồi phải rời Hà Nội vào chiến trường miền Nam, Xuân Diệu làm bài thơ đưa tiễn đầy nước mắt nhan đề là ‘Em đi’ với lời đề “Tặng Hoàng Cát” như sau:
Em đi, để tấm lòng son mãi
Như ánh đèn chong, như ngôi sao.
Em đi, một tấm lòng lưu lại
Anh nhớ thương em, lệ muốn trào.
Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa !
Nụ cười em nở, tay em vẫy
Ôi mặt em thương như đoá hoa.
Em hỡi! Đường kia vướng những gì
Mà anh mang nặng bước em đi
Em ơi, anh thấy như anh đứng
Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa.
Nhưng bóng em đi khuất rồi,
Đứa lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi chân, dẫu cách vời.
Em hẹn sau đây sẽ trở về
Sống cùng anh lại những say mê
Aùo chăn em gửi cho anh giữ
Xin gửi cùng em cả hẹn thề!
Một tấm lòng em sâu biết bao
Để anh thương mãi, biết làm sao!
Em đi xa cách, em ơi Cát
Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ, yêu...
(Đêm 11/7/1965, 23 giờ 30)
Hoàng Cát đi rồi, Xuân Diệu buồn vô cùng. Trong bài ‘Đời anh em đã đi qua’, còn có một đoạn cuối nói đến nỗi buồn trống vắng người yêu của Xuân Diệu:
Từ đây anh lại trong đời
Bữa ăn ngồi với một đôi đũa cầm
Giường kia một bóng anh nằm
Phòng văn một sách đăm đăm sớm chiều.
Xin nhắc lại là Hoàng Cát, người được Xuân Diệu gọi là 'em', em Cát,người em có khuôn mặt như đoá hoa, là một người con trai. Và chúng ta thấy, dù người yêu là con trai thì tình cảm của Xuân Diệu vẫn dạt dào và nồng cháy. Nếu chúng ta đừng để ý đến chuyện đồng tính luyến ái của nhà thơ thì đây là một bài thơ tình rất mực đằm thắm. Nó góp một tiếng nói tương đối đẹp vào kho tàng thơ tình vô cùng giàu có của Xuân Diệu.
Một vấn đề khác cũng rất quan trọng là: ai cũng biết người bạn thân nhất của Xuân Diệu là Huy Cận. Chúng ta không thể không thắc mắc: nếu Xuân Diệu là người đồng tính luyến ái, vậy thì Huy Cận là người như thế nào?
Chúng ta nên biết là Huy Cận có hai đời vợ, mà người vợ trước không ai khác hơn là chính em gái ruột của Xuân Diệu. Tuy nhiên, cái chuyện Huy Cận có vợ, một hay hai đời vợ cũng vậy, không có ảnh hưởng gì đến cái kết luận có thể có: ông cũng là một người đồng tính luyến ái, hoặc ít nhất là lưỡng tính luyến ái (bisexual).
Một điều nữa chúng ta cũng cần biết là suốt đời, lúc nào Xuân Diệu và Huy Cận cũng ở bên nhau, như hình với bóng. Từ giữa thập niên 30, họ đã chơi thân với nhau, khi cả hai còn là học sinh trung học. Lúc nào họ cũng cặp kè bên nhau. Trừ khoảng thời gian Xuân Diệu phải đi làm việc ở Mỹ Thọ, họ sống chung với nhau một nhà. Có thời gian, từ năm 1939 đến 1940, Xuân Diệu và Huy Cận sống tại số 40 phố Hàng Than, Hà Nội. Hai người sống trên gác, phía dưới là vợ chồng nhà thơ Lưu Trọng Lư. Rồi đến thời kháng chiến chống Pháp, họ cũng quanh quẩn với nhau ở chiến khu Việt Bắc. Sau năm 1954, họ sống với nhau trong căn nhà ở số 24 Cột Cờ, sau đó đổi thành đường Điện Biên Phủ ở Hà Nội. Huy Cận và vợ con ở trên gác, Xuân Diệu sống phía dưới. Trong một bài thơ, Huy Cận tả:
Đêm đêm trên gác chong đèn
Cận ngồi cặm cụi viết dòng thơ bay
Dưới nhà bút chẳng ngừng tay
Bên bàn Diệu cũng miệt mài trang thơ
Bạn từ lúc tuổi còn thơ
Hai ta hạt chín chung mùa nắng trong
Ánh đèn trên gác, dưới phòng
Cũng là đôi kén nằm trong kén trời
Sáng ra gõ cửa: “Diệu ơi,
Nghe dùm thơ viết đêm rồi xem sao”.
Diệu còn ngái ngủ: “Đọc mau!
Nghe rồi, xem lại từng câu mới tường”.
Dưới nhà trên gác thông thương
Dòng thơ không dứt giữa luồng tháng năm...
Trong bài thơ, Huy Cận dùng chữ ‘hai ta’, ‘Hai ta hạt chín chung mùa nắng trong’. Người Việt Nam không ai dùng chữ ‘hai ta’ hay ‘đôi ta’ để chỉ hai người bạn cùng phái. Cách xưng hô như vậy rất lạ. Trong bài ‘Nửa thế kỷ tình bạn’ in trong tập Xuân Diệu, con người và tác phẩm xuất bản tại Hà Nội năm 1987, Huy Cận kể tỉ mỉ hơn về mối quan hệ giữa ‘hai ta’ đó như sau:
Tựu trường năm 1936, chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên ở trường tú tài Khải Định, Huế. Anh Diệu học năm thứ ba, tôi vào học năm thứ nhất. Hai đứa đọc thơ cho nhau nghe, và ‘đồng thanh tương ứng’, kết bạn với nhau gần như tức khắc... Tựu trường 1937, anh Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo Ngày nay, tôi học năm thứ hai ban tú tài... Anh Diệu và tôi viết thư cho nhau hàng tuần... Năm 1938, tôi ra sống với Diệu ở chân đê Yên Phụ. Ở đó Diệu viết ‘Truyện cái giường’, một số bài thơ, còn tôi thì viết ‘Buồn đêm mưa’, ‘Trông lên’, ‘Đi giữa đường thơm’ và mấy bài khác... Tựu trường năm 1939,... hai chúng tôi cùng sống ở gác 40 phố Hàng Than, Hà Nội... Cuối năm 1940, Diệu đi làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho... Chúng tôi tạm sống xa nhau, buồn đứt ruột, hàng tuần viết thư cho nhau, có tuần hai, ba lá thư... Hè 1942, tôi đậu kỹ sư canh nông và cuối năm bắt đầu đi làm ở Sở nghiên cứu tầm tang. Diệu điện hỏi tôi: ‘Diệu từ chức được chưa?’, tôi điện trả lời: ‘Từ chức ngay! Về ngay Hà Nội!’. Chúng tôi sống trên gác Hàng Bông (số nhà 61), tiếp tục làm thơ.
Xuân Diệu và Huy Cận sống với nhau, gắn bó với nhau đến nỗi nhà xuất bản họ lập ra hồi đó cũng mang tên là Huy-Xuân, tức là ghép hai chữ đầu của tên hai người lại với nhau, như tên của một tình nhân hay một cặp vợ chồng trẻ. Rồi trong bài ‘Mai sau’, Huy Cận lại giới thiệu Xuân Diệu như người bạn thân thiết, hay đúng hơn, như một tình nhân thân thiết của mình:
Người ta bảo bà mẹ chàng hay khóc
Chia gia tài cho con quí: lệ đau
Chàng là con một bà mẹ hay sầu
Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ
[...]
Chiều nay đây nửa thế kỷ hai mươi
Viết dăm câu tôi gửi lại vài người
Những thế hệ mai sau, làm bè bạn
Hỡi ai đó, có nhớ lòng Huy Cận
Gọi gió trăng mà thỏ thẻ lời trên
Rất thương yêu, xin nhớ gọi giùm tên
Rất an ủi của bạn chàng: Xuân Diệu.
Bài thơ trên đã công khai bày tỏ tình cảm của Huy Cận đối với Xuân Diệu. Ngoài ra, bài ‘Vạn lý tình’ rất nổi tiếng của Huy Cận cũng hé lộ một số chi tiết rất đáng chú ý:
Người ở bên này, ta ở đây
Chờ mong phương nọ, ngóng phương này
Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm
Vạn lý sầu lên núi tiếp mây
Nắng đã xế về bên xứ bạn
Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy
Trông vời bốn phía không nguôi nhớ
Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay
Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt
Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày
Chiếu chăn không ấm người nằm một
Thương bạn chiều ôm, sầu gối tay.
Chi tiết đáng chú ý nhất chính là chữ ‘bạn’ được lặp lại hai lần trong bài thơ, trong câu ‘Nắng đã xế về bên xứ bạn’ và câu ‘Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay’. ‘Bạn’ chứ không phải là người yêu. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Xuân Diệu phải đi làm việc ở Mỹ Tho, Huy Cận sống ở Hà Nội, và lời kể của Huy Cận: "Hai đứa phải sống xa nhau, buồn đứt ruột." Một chi tiết khác quan trọng không kém, đó là câu 'Chiếu chăn không ấm người nằm một'. Lúc này Huy Cận còn là học trò, chưa lập gia đình, chưa có vợ con. Người nằm chung chăn, chung chiếu với ông không phải là vợ ông, mà chính là người bạn trai của ông. Điều này sẽ rõ hơn, thuyết phục hơn, khi chúng ta đọc thêm bài ‘Ngủ chung’ cũng của Huy Cận, in trong tập Lửa Thiêng, xuất bản năm 1940:
Ôi rét đêm nay mấy học trò
Ngủ chung giường hẹp, trốn bơ vơ
Cô hồn vạn thuở buồn đơn chiếc
Có lẽ đêm nay cũng ngủ nhờ.
Lạnh lùng biết mấy tấm thân xương!
Ân ái xưa kia kiếp ngủ giường.
Đâu nữa tay choàng làm gối ấm,
Còn đâu đôi lứa chuyện canh sương
Trốn tránh bơ vơ, chạy ngủ lang,
Hồn ơi! có nhớ giấc trần gian
Nệm là hơi thở, da: chăn ấm,
Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn?
Bài thơ tả cảnh ngủ chung của học trò cùng phái tính, giữa những người bạn trai với nhau. Ở Việt Nam, đó là chuyện bình thường. Nhưng chúng ta hãy để ý kỹ: cả ngôn ngữ lẫn cảm xúc trong bài thơ này lại thấp thoáng những dấu hiệu không bình thường, chẳng hạn như chuyện ‘ân ái’: 'Ân ái xưa kia kiếp ngủ giường'; rồi ‘đôi lứa’: 'Còn đâu đôi lứa chuyệän canh sương', Rồi chuyện ‘nệm là hơi thở’, ‘da là chăn ấm’, rồi chuyện ‘xương cọ vào xương’, v.v... Đọc kỹ bài thơ, chúng ta thấy ngay tính chất không bình thường của nó. Có lẽ, cùng với bài ‘Tình trai’ và bài ‘Em đi’ của Xuân Diệu, bài ‘Ngủ chung’ này của Huy Cận là những bài thơ tiêu biểu nhất cho chuyện đồng tính luyến ái trong thơ Việt Nam.



Xuân Diệu
Hình ảnh Hình ảnh

Xuân Diệu (2 tháng 2, 1916 - 18 tháng 12, 1985) là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Những bài được yêu thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 - 1944, thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, ông được mệnh danh là "ông hoàng thơ tình". Ông từng được Hoài Thanh và Hoài Chân đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam (1942).

Sau khi theo đảng (1945), thơ ông chủ yếu ca ngợi đảng lao động, Hồ Chí Minh, thơ tình của ông không còn được biết đến nhiều như trước.

Ngoài làm thơ, Xuân Diệu còn là một nhà văn, nhà báo, nhà bình luận văn học.


Tiểu sử, sự nghiệp

Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.

Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938–1940). Ông tốt nghiệp cử nhân Luật 1943 và làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về ở Hà Nội.

Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày Nay và Tiên Phong. Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam[1].

Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới", "ông hoàng của thơ tình".


Đời sống riêng

Xuân Diệu đã lập gia đình riêng một lần với NSND Bạch Diệp nhưng hai người đã ly dị và họ không có con chung. Sau khi ly dị ông sống độc thân cho đến lúc mất vào năm 1985. Xuân Diệu là người cùng quê Hà Tĩnh với Huy Cận (làng Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh) nên khi gặp nhau, hai ông đã trở thành đôi bạn thân. Vợ của Huy Cận, bà Ngô Xuân Như là em gái của Xuân Diệu. Có người cho rằng Xuân Diệu cùng với Huy Cận là hai nhà thơ đồng tính luyến ái[3]. Huy Cận và Xuân Diệu từng sống với nhau nhiều năm. Những bài thơ "Tình trai", "Em đi" của Xuân Diệu và "Ngủ chung" của Huy Cận được cho là viết về đề tài đó. Theo hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài thì Xuân Diệu từng bị kiểm điểm về việc này.
Hình ảnh
(Bạch Diệp)

Câu nói nổi tiếng

Trong tập Chân dung và đối thoại, Trần Đăng Khoa ghi lại câu nói của Xuân Diệu:

"Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết."

Xuân Diệu - Huy Cận và chuyện văn, chuyện đời

Huy Cận và Xuân Diệu.
Huy Cận và Xuân Diệu.
Năm 1942, khi Huy Cận đỗ kỹ sư, làm việc ở Sở nghiên cứu tằm tang, Xuân Diệu điện ra hỏi: "Diệu từ chức được chưa?", Huy Cận trả lời: "Từ chức ngay! Về Hà Nội ngay". Từ đó, đôi bạn ở 61 phố Hàng Bông.
Xuân Diệu và Huy Cận bây giờ đã trở thành người thiên cổ nhưng thơ ca và tình bạn cảm động của hai ông còn ngân vọng mai sau.
Xuân Diệu (sinh năm 1916), Huy Cận (sinh năm 1919) tuy quê gốc cùng ở Hà Tĩnh nhưng Xuân Diệu lại sinh ra và lớn lên ở Bình Định; mãi đến năm 1936, họ mới gặp nhau lần đầu ở trường Khải Định (quốc học Huế). Hai người đọc thơ cho nhau nghe và cảm nhau tức khắc, trở thành đôi bạn tri ân, gắn bó, chung sống bên nhau suốt gần nửa thế kỷ cho đến năm 1985 khi Xuân Diệu mất. Nghĩ lại mối tình ấy, chính Huy Cận nhiều khi cũng thấy làm lạ:
Hai đứa rồi ra nghĩ cũng kỳ
Thương nhau hơn ruột thịt dường ni
Mà đàn mỗi đứa riêng âm sắc
Cuộc sống muôn màu lặp lại chi!
(Nằm bệnh viện, gửi Diệu, 1974)
Đấy là sau này, nhưng ngay khi còn thanh niên, năm 1942, Huy - Xuân đã thấy có một sự gắn bó "định mệnh". Khi Xuân Diệu làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho, có gửi vải may quần áo cho Huy Cận, lúc đó đang học cao đẳng nông lâm sắp tốt nghiệp. Huy Cận viết:
Mở thư một sáng lạnh lùng
Hai chiều vải dệt tao phùng Huy - Xuân
Dọc ngang tơ chỉ sát gần
Đi về mấy dạo hai thân một hồn
Vào lúc 7 giờ 40 phút ngày 18/12/1985, Xuân Diệu mất, đúng lúc ấy, Huy Cận đang ở Dakar (Senegal) đột ngột bị xuất huyết nặng.
Cuối năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học Trường Luật và viết báo Ngày nay. Năm 1938, Huy Cận ra sống với Xuân Diệu ở chân đê Yên Phụ. Năm 1939, họ chuyển về một căn gác nhỏ ở 40 phố Hàng Than. Xuân Diệu tiếp tục học luật và dạy văn ở Trường Thăng Long. Huy Cận học cao đẳng nông lâm. Dưới gác là Lưu Trọng Lư. Sinh thời Huy Cận có kể với tôi rằng, khi Huy Cận in bài Tràng Giang, Lưu Trọng Lư phục lắm, kéo đi chiêu đãi phở Hàng Mành ngon có tiếng hồi bấy giờ. Ăn xong, Lưu Trọng Lư móc túi, không thấy tiền đâu đứng ngơ ngác giữa quán, cuối cùng, thành ra Huy Cận lại phải chiêu đãi.
Đầu năm 1940, "cơm áo không đùa với khách thơ", Xuân Diệu buộc phải vào Mỹ Tho làm tham tá thương chánh. Những người quen biết Xuân Diệu và Huy Cận, thường kể lại rằng, đó là cách hai người nuôi nhau ăn học. Năm 1942, khi Huy Cận đỗ kỹ sư, làm việc ở Sở nghiên cứu tằm tang, Xuân Diệu điện ra hỏi: "Diệu từ chức được chưa?", Huy Cận trả lời: "Từ chức ngay! Về Hà Nội ngay". Từ đó, đôi bạn ở 61 phố Hàng Bông. Những tác phẩm của Xuân Diệu, Huy Cận thời đó thường có dòng "Huy Xuân xuất bản" trên bìa sách.
Năm 1941, Huy Cận tham gia Việt Minh. Năm 1942 đến lượt Xuân Diệu. Năm 1944, Xuân Diệu về thăm quê nội ở Can Lộc rồi lên quê hương Huy Cận ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn. Ông giúp mẹ Huy Cận một số tiền để trả nợ, nói: "Anh Huy Cận hoạt động cách mạng rồi bà ạ. Nếu có điều gì chẳng may, con sẽ thay anh Cận cùng bà lo việc gia đình".


Xuân Diệu, mối tình trai

07/04/2009


Cuối thế kỷ 20, bước qua đầu thế kỷ 21, “đồng tính luyến ái” gần như được “bình thường hóa” trong xã hội con người của nhiều vùng đất trên thế giới.
Đã có một thời, ở Việt Nam người ta xếp loại đồng tính luyến ái là một căn bệnh. Những người đồng tính luyến ái, cả nam lẫn nữ thường hay bị dè bĩu, diễu cợt, xem thường… Trong nhiều thập niên cận
đại, những người đồng tính đã chứng minh cho thấy sự thông minh, khả năng nhạy cảm và hiệu quả trong công việc làm của họ. Ở hầu hết mọi lãnh vực, nhất là nghệ thuật sáng tạo, người đồng tính thường có nhiều phát kiến đi trước thời đại. Phải chăng, điều này nảy sinh từ tâm thức tự do, phá vỡ những cái bình thường của suy tưởng tiềm thức “vượt mọi biên giới” trong con người đồng tính, đã cho họ nguồn lực quý giá của một con người sáng tạo? Giới văn học, đặc biệt Tây Phương, nhiều tác giả lừng danh vốn là người đồng tính. André Gide cuối thế kỷ XIX của Pháp, Allen Ginsberg cuối thế kỷ XX của Mỹ .v.v… chẳng phải là hai tên tuổi lừng lẫy trên khắp địa cầu sao?
Xuân Diệu dĩ nhiên là một trong những tài danh khai phá của nền Thơ Tiền Chiến Việt Nam. Xuân Diệu còn là nhà thơ đồng tính của thi ca Việt Nam đầu tiên được ghi nhận. Tôi nói là “đầu tiên được ghi nhận”, vì biết đâu trong giới thi, văn sĩ Việt Nam từ thời xa xưa, đã có những người đồng tính. Nhưng những người này vì bối cảnh xã hội thời đó, vì những quan niệm, lề thói đạo đức phong kiến và thành kiến, nên đã suốt đời đành giấu diếm, nén đè đi cái con người thực của chính mình!
Tô Hoài, tác giả Cát Bụi Chân Ai, cuốn hồi ký do nhà Thanh Văn Paris xuất bản và đã giới thiệu nơi trang bìa cuối những dòng trang trọng như sau:
“Quyển sách không hề tỏ lộ một lời bào chữa hay kết tội nào đối với cái chế độ mà Tô Hoài phục vụ nửa thế kỷ ròng rã. Chỉ là những cảm nghĩ, những điều mắt thấy tai nghe. Chỉ là những lời thuật lại không hơn không kém, không cường điệu cũng như bi thảm hóa. Cái lối kể chuyện của một bà già nhà quê, ngồi bệt xuống đất, ngay lề đường, ngay đầu ngõ. Cái lối kể chuyện luôn luôn bắt đầu bằng cách lấy gấu quần lau những giọt mồ hôi, có thể giấu trong những giọt mồ hôi này đôi ba giọt lệ mà người nghe phải tinh ý mới nhận thấy. Chính vì thế mà thái độ chính trị mới mạnh làm sao. Nó làm những người nghe phải đau buồn quằn quại cho sự thật. Một chế độ thản nhiên chà đạp lên tấm lòng của mọi con người, chế độ đó không thể nào tồn tại được. Một chế độ dựa vào sự dối trá và bạo lực cho dù có khống chế được xã hội, thì cũng chỉ khống chế được một thời khoảng nào đó. Khi mọi con người trong xã hội đó đã không còn sợ hãi, khi mà những nhà văn đã biết khát khao sự thật, khi mà những công thần đã phải đổi giọng thì đó chính là giờ cáo chung của chế độ”.
(Tô Hoài, Cát Bụi Chân Ai, trang bìa sau)
Tuy nhiên, trong bài viết này tôi sẽ chỉ nói về chuyện “Tình Trai” của Xuân Diệu với Tô Hoài trong Cát Bụi Chân Ai, qua chính lời kể của Tô Hoài một cách hết sức nồng nàn và cảm động.
Chuyện tình giữa Xuân Diệu và Tô Hoài, thực ra, từ bao lâu đã có nhiều lời đồn và nghi vấn. Lần này, khi viết hồi ký về đời mình, Tô Hoài đã ngang nhiên kể lại mối tình đó. Một hành động vô cùng chân thật đầy tính “cách mạng” với xã hội Việt Nam hãy còn rất nhiều những thành kiến; một thái độ can đảm dứt khoát để nói với Đảng và Nhà Nước Việt Cộng về hai chữ Tự Do.
Tô Hoài ghi:
“Rời thành phố, lên đến Yên Dã đã u tỳ lắm rồi. Tôi quen Xuân Diệu trước năm 1945. Tôi cũng là người Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu lần đầu tiên diễn thuyết đề tài Thanh Niên Với Quốc Văn ở giảng đường trường đại học Hà Nội. Xuân Diệu nói “Hoài ơi đi ủng hộ Diệu”. Anh Hiến sinh viên mặt tái xanh nhút nhát ra giới thiệu lung tung. Không sao, Xuân Diệu áo Tuýt so lụa mỡ gà, cà vạt lấm tấm vàng sẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán đã thu hút người nghe vào ngay câu chuyện. Đột nhiên, Xuân Diệu nói nhịu chữ “tâm hồn” – như một bà già trong làng bán bánh đúc có tật nói nhịu nhảm. Nhưng Xuân Diệu vẫn tiếp tục sang sảng hùng biện, không ai kịp sửng sốt.
Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm. Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống.Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập Thơ Thơ khổ rộng nhà in Trung Bắc phố hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chì sắc gợn, không phải chữ gỗ giẹp đét.”
(Tô Hoài, Cát Bụi Chân Ai, Thanh Văn (không thấy ghi năm xb), trang 188 & 189)
Điều trước hết phải nên ghi nhận, Xuân Diệu quả là một người mê đắm và đỏm dáng! Những đặc tính rõ nét của một người đồng tính. Áo Tuýt so lụa mỡ gà, cà vạt lấm tấm vàng sẫm… Xem ra, nét ăn mặc của Xuân Diệu từ hơn nửa thế kỷ trước, so với những tay đỏm dáng hiện đại chả có gì thua sút lạc điệu. “Hoài đi ủng hộ Diệu”. Câu nói nhẹ nhàng, mỏng manh đầy nữ tính nhưng quyết liệt. Và hai chữ “tâm hồn” nói nhịu. Tại sao? Nói nhịu như một bà già bán bánh đúc trong làng có tật nói nhịu nhảm! Đó là cái ám ảnh của bản chất, hay là sự thể phản ảnh của một nỗi cuồng si?
Xuân Diệu cầm tay Tô Hoài và âu yếm vuốt lên, vuốt xuống. Nhưng là “bốn mắt nhìn nhau đắm đuối”. Có nghĩa, Tô Hoài cũng đã đắm đuối nhìn vào mắt Xuân Diệu. Cái đắm đuối mà Tô Hoài chẳng thể nào hiểu nhưng nó có làm Tô Hoài cảm động và rung động!
Tô Hoài kể tiếp. Rành mạch, rõ ràng với một trí nhớ xanh tươi:
“Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi, nhìn tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. Nhớ những tình yêu con trai với nhau, ở trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ, nói vỡ tiếng ồ ồ mặt sùi trứng cá, chúng nó cứ bảo tôi là con gái. Nhiều thằng cặp đôi với tôi, đòi làm vợ chồng. Có hôm chúng nó tranh vợ đánh nhau lung tung. Có đứa xô vào ôm chặt, sờ soạng toạc cả đũng quần tôi. Nhiều hôm đi học không dám đến sân trường sớm. Phải lẩn vào trong ngõ Trúc Lạc, nghe trống mới chạy ù đến sắp hàng vào lớp.”
(Tô Hoài, sđd, trang 189)
Tô Hoài hôm nay đã là một ông già. Nhưng ông già Tô Hoài vẫn chưa hiểu lắm về sự khác biệt giữa “Tình Trai” và những nghịch phá của tuổi học trò con nít. Chắc rằng Tô Hoài lúc bé ẻo lả và giống con gái. Cho nên lũ bạn tiểu học mới dỡ những trò chơi tinh quái đó. Nhưng với Xuân Diệu thì khác! Đúng như Tô Hoài đã xác định: Xuân Diệu yêu Tô Hoài. Tình yêu thật sự của tuổi thanh niên trưởng thành. Tình trai, tuy là “tình trai”, ai cấm giai đoạn mở đầu vẫn khai mào bằng những gì đằm thắm, thơ mộng. Tay cầm tay. Mắt nhìn mắt. … Đắm đuối. Nồng nàn…
Nhưng mối tình của Xuân Diệu với Tô Hoài không chỉ có thế. Không chỉ là tay cầm tay, mắt nhìn mắt. Tô Hoài làm tôi ngạc nhiên ở đoạn tôi sắp trích dẫn dưới đây, khi họ Tô kể lại, miêu tả lại bằng giọng văn tài tình có tay nghề của ông:
“Mới xế chiều đã chập tối, chẳng còn người thò chân ra đường xóm đá tảng lầy lội. Cơm xong, nhà ăn đóng cửa, mái rạ lẫn vào sườn đồi chơ vơ. Mấy cậu văn phòng ở một mình, xong bữa lại quẳng bát đũa nay, vào chơi ngủ luôn tại các nhà trong xóm. Có cậu việc gấp, đánh máy đêm xong rồi cũng chuồn mất. Dẫy buồng ở tập thể không đèn đóm, tối thui. Không nghe tiếng người trở mình, giát giường không ken két. Im như đất hoang. Nhà tôi ở ngoài ven ngõ giữa đồng. Rượu khuya, đường mưa lội tôi ngủ lại.
Chúng nó sợ, đi bỏ trống cả cơ quan. Cả dạo mưa gió, Xuân Diệu ở lại u tỳ quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi về những đêm ma quái, rùng rợn, say đắm. Bàn tay ma ở đâu rờn vào. Không phải. Tay người, bàn tay người nay đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm dần lên. Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quit, cánh tay, cặp đùi thong chão trói lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, dữ dội giằng ngửa cái xác thịt kia.”
(Tô Hài, sđd, trang 190 & 191)
Tôi có thể thấy như trước mắt cái đìu hiu hoang sơ trên triền Tam Đảo. Và những cuồng mê xác thịt giữa mưa gió, bóng tối và những khoảng trống vắng trơ lạnh giữa núi rừng Yên Dã. Bao vò rượu nếp của kiến trúc sư Võ Đức Diên hẳn nhiên sẽ nung nấu dòng máu nóng của những chàng thanh niên như Tô Hoài, Xuân Diệu. Và thế là cơn đồng thiếp được gọi lên. Chỉ là ở một người. Bắt đầu ở một Xuân Diệu thi sĩ Tình Trai. Tô Hoài là kẻ bị cuốn vào cơn sóng dập dờn đó. Bằng vô thức. Không suy nghĩ suy luận phân tích gì hết. Nhưng tôi thấy rõ ở những dòng chữ kể lại của Tô Hoài một ý thức rất tỉnh táo. Và nhất là không chút mặc cảm hay vò xé (cần thiết) theo thói thường của một cái gì đó gọi là Truyền Thống Việt Nam hay Luân Thường Đạo Lý kiểu áo dài khăn đóng!
Tô Hoài tiếp tục tỉ mỉ, rất văn chương với những dòng kể tiếp theo:
“Rồi như chiêm bao, tôi ngã ra, thống khoái. Im lặng. Nghe mưa rơi xuống tàu lá chuối trong đêm và cái mệt dịu dàng trong mình. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống roan, xuống bẹn… Cơn sướng lại cồn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt. Lần này thì tôi lữ lả, tôi nguôi ra rên ư ử, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa.”
(Tô Hoài, sđd, trang 191)
Tôi đã đọc Hồ Trường An, Ngô Nguyên Dũng, Hoàng Mai Đạt, v.v… viết về đồng tính. Tội cũng từng đọc vài nhà văn nữ Việt Nam ở hải ngoại viết về những mối tình, những cơn ái ân đồng tính. Theo tôi, chưa có ai xuất sắc như Ông Già Tô Hoài khi viết lại mối tình trai của ông và Xuân Diệu.
Tô Hoài táo bạo mà vẫn nên thơ. Buông thả một cách tận cùng nhưng đồng lúc lại vẫn như e dè muốn níu lại hết. Níu lại một cái gì đó rất mơ hồ ngay chính họ Tô chẳng hề biết hiểu, chẳng hề phân biệt được:
“Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa.”
(Tô Hoài, sđd, trang 191)
Những níu lại vô ích vô thức. Những hứng thú quả tình khủng khiếp! Nhưng vẫn là những hứng thú kỳ bí “nồng nàn kích thích”. Trong bóng tối.
Bởi ánh sáng bạch bình minh ban ngày sẽ làm tan rã hết. Sẽ làm “lạnh” đi những “nồng nàn kích thích” trong đêm mưa gió giữa núi rừng.
Tô Hoài chạy trốn những “khủng khiếp” của cơn hứng thú. Trong cái khựng lại e dè (tôi không thấy nói chút gì đến niềm sợ hãi hay ân hận!), vẫn có một sự “tuôn chạy băng băng” vào “chốn đó”. Dù cái “nơi chốn đó” có là thiên đàng hay địa ngục. Xin nghe Tô Hoài kể tiếp:
“Nhưng đêm mai lại vào cuộc dữ dội. Trong đêm quái quỉ lại thấy mình như không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn.”
(Tô Hoài, sđd, trang 191)
Chỉ là rờn rợn khi ánh sáng mặt trời đã trở về với không gian. Rờn rợn như một phản ứng thiên nhiên tự nhiên không lý giải. Do đó, khi đêm về, Tô Hoài đã không có ý niệm, không biết là rồi trời sẽ lại sáng!
Nhưng một mối, hay những mối tình trai trong thời “kháng chiến” như vậy làm sao qua mắt nổi “cơ quan”! Và hậu quả của những cơn “hứng thú khủng khiếp” là ánh sáng. Là phải phô bày, tự thú. Là phải lôi từ đêm thẳm, từ gió mưa của rừng núi ra những lời bộc bạch. Phải mang bóng tối ra trình diện trước ánh sáng.
“Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên, nháo lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ vào ngủ lang trong xóm. Thằng Đại trắng trẻo, mũm mĩm thì biến là phải. Nhưng cả đến thằng Nghiêm Bình cao to hiên ngang như thế, tối cũng lẳng lặng vác cái ghi ta ra đi. Bốn bên im như tờ. . . . .
. . . . chiếc màn một trơ trọi của lão Hiến, đôi khi cả màn của Kim Lân, của Nguyên Hồng ở Bắc Giang sang, ngủ tạm nay. Chẳng biết đêm hôm có ông kễnh nào bị bàn tay nhung sờ vào roan không. Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo liền hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn, nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tổ buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ có ông Phan Khôi lên buồng vẫn mắc màn sẵn đi ngủ từ chập tối, bỏ ngoài tai mọi việc.
Xuân Diệu chỉ ngồi khóc, chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, thằng Đại và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, nhưng cũng không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, chính mình cũng điên kia mà. Không nói cụ thể việc ấy, nhưng ai cũng to tiếng gay gắt “tư tưởng tư sản, phải chừa đi”. Xuân Diệu nức nở “tình trai của tôi… tình trai…” rồi nghẹn lời, nước mắt lại ứa ra.”
(Tô Hoài, sđd, trang 193)
Hẳn là còn may mắn, vì “hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn”, nên Xuân Diệu chỉ bị mắng mỏ là “tư tưởng tư sản, phải chừa đi”. Chỉ tội nghiệp cho cái gọi là “tư sản”! Làm như chỉ có những con người “tư sản” mới biết đến “đồng tính luyến ái”!
Chẳng có đấu tố, khai tội và phỉ nhổ chửi bới. Chẳng có ném đá hay hành hạ cụ thể tức thì. Nhưng sau đó ít lâu, thì Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường vụ.
“Và cũng thành một cái nếp kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những việc chủ chốt trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người được nhiều thời giờ chỉ chuyên đi viết. Mà Xuân Diệu cũng như xa lánh mọi công tác.”
(Tô Hoài, sđd, trang 193)
Xem ra, hình phạt như vậy đối với những “tội tình, bê bối” mà Xuân Diệu đã làm ra đã là quá nhẹ. Đảng Việt Cộng vì trọng tài Xuân Diệu nên nương tay? Hay vì là giai đoạn cần kết nạp, cần những cán bộ tiếng tăm, có tài, nên Đảng đã ngó lơ phần nào cho Xuân Diệu? Tôi lại nghĩ những lí do vừa nêu ra có thể là vài chục phần trăm. Nhưng nhiều phần trăm chính yếu là Đảng đã “mắc cỡ”! Đảng ngượng ngùng chẳng biết… kết tội ra làm sao với trường hợp Xuân Diệu.
Và như thế, Xuân Diệu, theo như Tô Hoài đã ghi, vốn là một người “đào hoa” với những mối tình trai. Xuân Diệu không biết chung thủy. Xuân Diệu chỉ biết mê đắm. Tô Hoài hồi ức:
“Từ thuở trẻ, cái bắt tay như vồ lấy, trán đụng vào nhau, bốn con mắt nghiêng ngả vuốt ve nhau. Ở đâu Xuân Diệu cũng đào hoa những mối tình trai. Buổi chiều trong kháng chiến, đã hết lo đám máy bay lên đánh bom, chúng tôi đặt ba lô nghỉ chân ở Ấm Thượng xuống sông tắm táp xong lên dạo phố. Đêm nay thị trấn mời Xuân Diệu nói chuyện thơ. Bọn con trai choai choai kháu khỉnh xúm xít quanh nhà thơ. Tuổi trẻ, trai gái thấy nhau như có điện, dù điện yêu hay điện ghét, thái độ hiện ngay ra con mắt, nụ cười, cái bỉu môi, dáng xóc cổ áo, bãi nước bọt. Đằng này, con gái đi ngang mặt dửng dưng như không, nhưng con trai xoắn xít vòng trong vòng ngoài. Sáng hôm sau còn đến chơi. Xuân Diệu nắm cổ tay từng đứa mân mê như chọn đẵn mía, và nhìn dõi vào mắt…”
(Tô Hoài, sđd, trang 196)
Xuân Diệu quả là một tay đào hoa với những mối tình trai. Qua ngòi bút Tô Hoài, chúng ta thấy một Xuân Diệu đồng tính thản nhiên và ngây thơ không mặc cảm. Mặc cảm, một trạng thái gần như (đương nhiên và thậm chí cần thiết) bắt buộc phải có ở những con người đồng tính chẳng những vào thời thi sĩ Xuân Diệu, mà ngay cả ở thời nay tại Việt Nam!
Và như Tô Hoài đã kể, Xuân Diệu chẳng phải là một tay chung tình. Tuy nhiên, để kết luận về Xuân Diệu, Tô Hoài viết:
“Mỗi khi nhớ, chuyện về Xuân Diệu buồn thương, buồn cười và đáng yêu, chỉ đáng yêu…”
(Tô Hoài, sđd, trang 193)
Để dứt bài này, tôi xin chép lại nay một bài thơ “Tình Trai” của Xuân Diệu, gửi một người lính trẻ rời thành phố vào chiến trường. Bạn đọc nếu không biết trước, chắc chắn sẽ nhầm đây là một bài thơ Tình Gái, do một chàng trai viết gửi cho người yêu bé nhỏ của mình:


EM ĐI
Tặng Hoàng Cát


Em đi, để tấm lòng son mãi
Như ánh đèn chong, như ngôi sao
Em đi, một tấm lòng lưu lại
Anh nhớ thương em, lệ muốn trào
Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nụ cười em nở, tay em vẫy,
Ôi mặt em thương như đóa hoa
Em hỡi! Đường kia vướng những gì
Mà anh mang nặng bước em đi!
Em ơi, anh thấy như anh đứng
Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi.
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi chân, dẫu cách vời
Em hẹn sau đây sẽ trở về
Sống cùng anh lại những say mê…
Áo chăn em gửi cho anh giữ,
Xin gửi cùng em cả hẹn thề!
Một tấm lòng em sâu biết bao
Để anh thương mãi, biết làm sao!
Em đi xa cách, em ơi Cát
Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ yêu…”




0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website