48. (Tưởng Niệm Quốc Hận Lần Thứ 42) Bài Đọc Thêm/ Nhà Văn Trần Thị Bông Giấy/ Bức Tâm Thư Gửi Người Bạn Phi Công
BỨC TÂM THƯ
GỬI NGƯỜI BẠN PHI CÔNG.
(Trần Thị
Bông Giấy)
12:44 AM, Thứ
Ba April 24/2017
Anh Phúc
thân,
Đã rất lâu rồi,
tôi tự rút vào cái xó câm lặng cô đơn để nghiền ngẫm hai chữ “ngậm ngùi” vừa
nói. Ngậm ngùi, khi thấy tất cả chung quanh đều thật đáng thương trong số phận
bị bật tung khỏi gốc rễ quê hương. Ngậm ngùi, như một đoạn viết trong Nước Chảy
Qua Cầu: “Mỗi con người Việt Nam trong suốt cuộc đời đã phải trải qua vài lần
chinh chiến. Bà mẹ Âu Cơ kiếp nào vụng tu nên đàn con cháu cứ phải gánh nạn khổ
đau. Chẳng trách ai được. Chỉ biết ngậm ngùi cho bao lớp người đã ngã. Và còn
bao lớp người sẽ tiếp tục ngã theo đây?”
Không biết
nói sao cho anh hiểu, dù rất mong (những người như) anh hiểu. Có cái gì rất tuyệt
vọng trong tôi mấy chục năm qua mỗi khi nghĩ về lịch sử VN khởi đi từ thời Pháp
thuộc. Tôi thấy tự giận mình đã không chịu sống hài lòng, thoải mái (như đại đa
số người Việt hải ngoại). Và cũng giận mình không sao tẩy xóa trong tim nỗi tủi
nhục “là công dân của một đất nước đã từng bán đứng Miền Nam VN.”
Anh, tôi,
anh Đặng Văn Âu, ông Phan Nhật Nam và tất cả bạn bè, người thân chúng ta đều chỉ
là nạn nhân theo những gì gọi là Lịch Sử. Chỉ điều khác rằng, cái đau khổ của
tôi (luôn của anh, anh Âu…) là không muốn bẻ cong cây bút và tâm hồn mình.
Dạo mới lớn,
sắp tốt nghiệp trường Nhạc, tôi được nghe một lời chỉ dạy của ông thầy mình
theo học từ khi còn nhỏ: “Con hãy luôn luôn ngửng đầu lên trong mọi hoàn cảnh,
dù đau thương đến đâu chăng nữa. Nếu không, cuộc đời sẽ đạp con như đạp một con
kiến, và ngay chính con cũng không biết rằng mình đang bị chà đạp.” Lời ấy nằm
luôn trong ý nghĩ suốt cả cuộc đời như một thứ kim chỉ nam quý báu. Chính cái
“ngửng đầu” đó làm mình khổ; càng khổ hơn bởi vì không thể “cúi đầu” trước những
kẻ theo đóm ăn tàn sau lưng các Sử gia Olivier Todd (tác giả cuốn Cruel avril:
1975: La chute de Saigon; NXB R. Laffont, Paris, 1987), Lệ Lý Hayslip (cuốn
Heaven & Earth, xuất bản 1993)... bóp méo vặn vẹo mọi Sự Thật trong các quyển
sách viết về lịch sử và quân đội Miền Nam.
Chọn bước
trên con đường Văn Chương cũng là một cách “vâng theo lời dạy” của ông thầy cũ.
Đó là con đường cô đơn, lắm chông gai và nhiều thù địch NẾU muốn giữ cái Tâm
lương thiện. Tôi tự biết mình chỉ là hạt bụi trong thế giới văn chương lớn rộng,
nên không có nhiều cao vọng. Bể học bao la, bơi được chút nào trong đó cũng là
điều quý. Những đề tài tôi viết chỉ là chuyện đời thường, bất cứ ai cũng đều có
thể gặp trong cuộc sống riêng họ. Trong Văn Chương đã có Lịch Sử. Lịch sử dân tộc
lại là điều dày vò tâm não tôi nhất trên những giòng chữ từng tuôn chảy nhiều
năm.
Sự trăn trở
của anh phơi bày trong bản văn The Last Mission, hay các lá thư gửi tôi, cũng
là một dạng thức khác của con đường chữ nghĩa. Và như đã nói, anh cũng không
tránh được số phận “cô đơn” theo những gì anh đã và còn sẽ viết ra.
Những giòng
viết “chuyện đời thường” của tôi mang tính mềm mại uyển chuyển mà (như anh thấy)
còn không được nhiều đón nhận. Huống hồ các giòng viết anh mang tính lịch sử sắt
đá, làm sao có thể “địch nổi” với những dối trá của các sử gia đời nay? (Xin
anh đừng buồn theo điều tôi vừa nói). Con người bây giờ hình như chẳng màng đến
gì ngoài vật chất? Nhất là trong xứ Mỹ, phải chạy đua từng chút thời giờ mới
mong sống được. (Cơ hồ trong Nước Chảy Qua Cầu, tôi đã viết tư tưởng này trong
một lá thư gửi Hạnh?) Cái thuở thong dong của thế hệ mình và các thế hệ xưa, vừa
đi vừa đọc sách, đã chỉ còn trong các giấc mơ!
Tôi biết vậy.
Nhưng cũng không vì biết vậy mà vứt bỏ hết chữ nghĩa để chạy đuổi theo vật chất.
Có một câu
ghi chú của Dostoievski được tôi luôn luôn nghiền ngẫm: “Phải hiểu sâu xa rằng
Tài Năng cần sự đồng tình, thông cảm. Nhưng NẾU chỉ ngồi chờ và nhìn những gì bạn
hữu xúm lại quanh bạn, chẳng bao lâu bạn sẽ chỉ thực hiện được những thành quả
tồi tàn nhất. Họ sẽ không ban cho bạn sự thưởng lệ trên những ý tưởng mà bạn đã
phải tranh thủ suốt qua công trình khó nhọc, tự quên thân mình, đói khát và những
đêm mất ngủ. Những điều như vậy chỉ được họ nhìn với sự khinh dễ. Họ sẽ không
khuyến khích hay an ủi bạn; không nhìn thấy những gì tốt và thật bên trong con
người bạn; tất cả điều họ làm chỉ là vạch
ra những khuyết điểm của bạn với niềm vui thú ác tâm.”tốt và thât bên trong con
người bạn. Tất cả điều họ làm chỉ là vạch ra những khuyết điểm của bạn với niềm
vui thú ác tâm.”
Vì thế, sự
quay lưng với tất cả văn giới hải ngoại đã khởi sinh từ “điều nhận ra” đó. Cái
thế giới tôi đang úp mặt không chất chứa những đua chen giành giật, cho nên tôi
có rất nhiều thì giờ và cơ hội để nhìn lại mình và những gì mình cho là THẬT. Lịch
Sử dân tộc cũng được gom trong cái Thật đó.
Với tôi, điều
cần thiết không phải là sự đón chào của số đông độc giả theo kiểu những nhà văn
được lancer rầm rộ. Tôi chỉ cần số ít hiểu rõ những gì tôi muốn chia xẻ. Mà cái
số ít này, lại cũng là “thật ít” đó anh. Tuy nhiên không vì vậy mà tôi để cùn
cây viết, hoặc bẻ cong ngòi bút. Một cây gỗ lim đáng quý rất nhiều so với một rừng
gỗ tạp. Phần anh, theo nhận thức riêng tôi, những phơi bày trăn trở của anh về
một thời đoạn đau buồn của quê hương chính là thứ gỗ lim ấy. Nó nằm đó, còn đó,
và càng lúc càng vững chắc gốc rễ hơn theo với Thời Gian.
Anh lại còn
may mắn (hơn tôi) bởi những gì anh suy nghĩ, cũng đã được những tay viết chuyên
nghiệp người Mỹ đọc đến bằng sự hiểu biết sâu sắc riêng của họ. Không gọi rằng
thỏa mãn, nhưng rồi tất cả cái gì Thật đều cũng ló mặt hết mà thôi.
*
* *
Mới ngày hôm
qua, tôi có được nghe từ đài RFI bản tin ngắn như sau: “Căn biệt thự rất đẹp mà
Victor Hugo lưu trú 15 năm lưu đày, nằm trên quần đảo Guernsey, nước Anh, nơi
ông đã cho chào đời nhiều tác phẩm lớn, trong có Les Misérables-- đang bị xuống
cấp dữ dội, phải cần đến 2 triệu Euro để trùng tu lại”;
cái tin lại
phải làm tôi suy nghĩ vớ vẩn.
*
* *
Nói thật
đáng tội, tôi không ưa nước Mỹ, nhưng phải nhận, liên hệ tới cuộc chiến VN,
cũng còn rất nhiều người Mỹ thật đáng cho tôi kính trọng; ví dụ như tác giả bài
The Last Mission đã viết lại lời kể của anh. (Cho đến ngày hôm qua, tôi vẫn tưởng
chính anh là tác giả). Xin gửi lời cảm ơn rất nhiều đến ông ấy. Và cũng cảm ơn
anh theo đoạn thư gửi tôi:
“Lẽ ra bài
The Last Mission này đã được in trong sách USA/VNAF A-1 SKYRAIDER UNIT OF THE
VIET NAM WAR từ năm 2011, nhưng chỉ vì một ông Thiếu úy của Phi đoàn 514 ở
Houston lếu láo rằng ông cùng với chiếc Tinh Long 07 thả bom, và cũng bị SA-7 bắn
nhưng ông né được (tài thế!); còn chiếc Tinh Long 07 bị bắn rơi. Mặc dù tôi có
đoạn video của ký giả Don Harris chứng minh trên vùng trời Tân Sơn Nhất buổi
29/4/1975 ấy, ngoài chiếc Tinh Long 07 thì chẳng có bất cứ chiếc phi cơ nào
khác nữa; ông Byron Hukee, một người trong ban biên tập quyển này, cũng đã hỏi
tôi: "Một sự thật nhưng có hai câu chuyện khác nhau, tao phải tin
ai?" Tôi cảm thấy quá nhục nhã và xấu hổ, không muốn tranh cãi nên lấy lại
bài The Last Mission này.”
Hoan hô anh!
Ít ra danh dự
một người lính VNCH phải là như thế trước người Mỹ, nhất là Mỹ trong làng Văn
làng Báo có đầu óc, chữ nghĩa! Chính anh đã “rửa mặt” giùm cho anh chàng phi
công bên Houston ấy; và cũng là “rửa mặt giùm” cho một triệu quân nhân Miền Nam
cam đành thua trận vì sự quay lưng của người Mỹ trong chận chiến cuối cùng
tháng 4/1975.
*
* *
Anh biết,
tôi và Âu Cơ rất mê bộ phim Band of Brothers. Nhất là Âu Cơ, xem đi xem lại đến
gần như thuộc lòng từng tập, ngưỡng mộ, khâm phục thật nhiều tính cách huynh đệ
của các người lính trong quân đội Đồng Minh thời Đệ II Thế Chiến. Nó hỏi tôi về
chiến tranh VN, tôi đáp: “Tình bằng hữu của các người lính trong QLVNCH còn hào
hùng và đáng cảm động hơn.”
Phần tôi,
khi xem các phim, cũng lại “ngậm ngùi” nhớ về các người tình, người bạn đã tử
trận trên nhiều chiến trường Miền Nam sôi động; luôn cả cái Nghĩa trang Quân đội
Biên Hòa có đầy tên tuổi các chàng trai chết trẻ.
Nói thế để
anh biết rằng dấu ấn về cuộc chiến Bắc-Nam ghi khắc rất đậm trong tâm hồn tôi
ngay từ khi mới lớn. Những lời ca của Hồng Hạnh trong các lần trình diễn chung
từ Sàigòn lên tới Dalat (“Em hỏi anh bao giờ trở lại? Xin trả lời: Mai mốt anh
về!”...), vẫn là câu tôi tự ngậm ngùi cho chính mình và nhiều cô gái cùng thế hệ
với tôi.
*
* *
Mong biết được
hạnh phúc giữa anh và Hồng Hạnh vuông tròn suông sẻ sau mấy chục năm cách biệt.
Tất cả đều là quá khứ, thương nhau không hết ở cái hiện tại, chẳng nên trách cứ
gì nhau những chuyện đã qua theo với ý nghĩ “mọi thứ chỉ là Định Mệnh!” mà
thôi.
Ít hàng “tâm
bút” gửi anh.
Thân mến,
TTBG.
0 comments:
Post a Comment