CHÍNH KHÍ VIỆT

Wednesday, October 12, 2016

SÁU NĂM HOẠT ĐỘNG CỦA CP.VNCH 1954-1960

SÁU NĂM HOẠT ĐỘNG CỦA CP.VNCH 1954-1960

LGT: Tác giả Hà Bắc nhân chuyên viếng thăm Seattle vào hồi đầu năm 2016 đã đến một cửa hàng nằm trên đường Jackson mua quyển "Về Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn VGCS" của Chính Khí Việt. Sau khi đọc xong, tác giả Hà Bắc đã gởi lá thư riêng đến Chính Khí Việt và bày tỏ chí hướng của ông, đồng thời có đính kèm những bài viết của ông liên quan đến Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà và Tổng Thống Anh Minh Ngô Đình Diệm.
Bài viết dưới đây có tên "Sáu Năm Hoạt Động Của CP. VNCH 1954-1963" do tác giả Hà Bắc biên soạn rất phù hợp với quan điểm và lập trường nhất quán của website Chính Khí Việt hàng chục năm nay.  Xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả nhân kỷ niệm 60 Năm Quốc Khánh  Việt Nam Cộng Hoà sắp tới 1956-2016. 
 
 
 
Chính Khí Việt.
 
http://www.chinhkhiviet.net/2016/10/sau-nam-hoat-ong-cua-cpvnch-1954-1960.html
https://plus.google.com/114629819241419490202
https://www.facebook.com/Chinhkhiviet.PhamTrongLuat/posts/183412208733348
https://www.facebook.com/chinhkhiviet.2016/posts/576198675909596

 
 

 
 
*10*
 
 
 


HÀ BẮC

 

*Kính mừng Quốc Khánh VNCH 26/10

 

Sau ngày CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 27/1/1973 cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam hôm 30/4/1975, hầu hết tài liệu của nền đệ nhất VNCH vốn đã bị hủy hoại một phần sau ngày đảo chánh tai hại 1/11/1963 - tiền thân của ngày 30/4/1975 - lại đã bị thủ tiêu toàn phần cùng mọi sản phẩm văn học nghệ thuật khác ấn hành trước 1975 theo một thông cáo của UBQQ Saigon-Gia Định của VC hôm 15/5/1975 có hiệu lực từ 22/5/1975. Tuy nhiên một số tài liệu quí giá hiếm hoi đã được tìm thấy tại các thư viện quốc gia ở các thủ đô văn hóa như Paris, London, Washington D.C., trong số đó có tài liệu "Sáu Năm Hoạt Động Của Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa" phát hành năm 1960 nhân Quốc Khánh 26/10 và kỷ niệm Đệ Lục Chu Niên Chấp Chánh Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

 

Tài liệu dày hơn 900 trang này bao gồm nhiều hình ảnh, sơ đồ, bản đồ và đặc biệt là nguyên văn Hiến Pháp VNCH ban hành ngày 26/10/1956 bởi Quốc Hội Lập Hiến thành lập ngày 23/1/1956 chiếu theo Hiến Ước ngày 26/10/1955 và kết quả cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23/10/1955. Hơn thế nữa còn có Thông Điệp của TT.VNCH Ngô Đình Diệm - vị lãnh tụ anh minh của dân tộc; hiện thân của Dân Chủ, Tự Do và Phú Cường - đọc trước Quốc Hội VNCH hôm 3/10/1960.

 

Trong Thông Điệp có đoạn: ". . . Trên đây là tình hình VNCH bước sang năm thứ sáu. Nếu chúng ta không phải đối phó với sự gia tăng hoạt động phá hoại của Việt Cộng, thì trong thời gian qua kết quả thu lượm được còn có thể mau chóng hơn và quan trọng hơn. Trong một thế giới đầy chia rẽ và nhiều rối ren như hiện nay, không một nước nào có thể tránh khỏi bị ảnh hưởng của những biến chuyển quốc tế. Cũng như các quốc gia ở sát cạnh đế quốc Đỏ, Việt Nam phải chịu đựng nặng nề hậu quả của chánh tình thế giới và sự tăng cường gây hấn của cộng sản. Hơn nữa, cộng sản không quan niệm được rằng một nước kém mở mang có thể phát triển ngoài đường lối và qui luật cộng sản. Không muốn thú nhận là bất lực hay sai lầm, chúng tìm mọi cách phá hoại, hay ít nhất cản bước tiến của những nước không theo chúng. Hoạt động của bọn côn đồ phá hoại lợi dụng biên giới và bờ biển ta rộng dài và dân cư tản mác tại nhiều vùng; nhất là Nam phần.

 

Việc chống cộng sản khủng bố đòi hỏi ở toàn dân óc sáng kiến và đức hy sinh; vì với những phương tiện eo hẹp, chúng ta vừa phải phòng ngự vĩ tuyến và đường ranh giới, vừa phải diệt trừ phá hoại của Việt cộng. Những hoạt động phá hoại này được tăng cường nhờ sự tiếp tế quân số và vũ khí lén lút qua biên giới. Không nhận định được thực trạng hiển nhiên này, một vài dư luận ở các nước bạn chủ trương nên bớt ngân khỏan quốc phòng để tăng ngân khoản kinh tế. Đó là một chủ trương nguy hại về phương diện chiến thuật khi đem áp dụng nó cho những nước như Việt Nam; ở sát cạnh đế quốc Cộng sản và phải đương đầu với sự tăng cường lực lượng quân sự của địch. Đó còn là một nhận định sai lầm về phương diện kinh tế vì dĩ nhiên là tình trạng thiếu an ninh cản trở mọi sự kiến thiết. Đó là một vấn đề mà chánh phủ hằng lưu tâm đến.

 

Tuy nhiên, dù sự giúp đỡ của các nước bạn quí giá đến mức nào, cuộc chiến thắng của ta chỉ tùy thuộc nơi ta: Chánh phủ đã quyết định tổ chức lại các cơ cấu nào chưa thích ứng với những yêu cầu của tình thế đặc biệt; đào tạo mau lẹ hơn những cán bộ mới, cải tiến những cán bộ hiện hữu đồng thời hợp lý hóa và giản dị hóa phương pháp làm việc để cho công tác an ninh cũng như công tác sản xuất hữu hiệu hơn. Song song với những cố gắng mới trong lãnh vực an ninh, chúng ta sẽ tiếp tục củng cố những thành quả và thực hiện những mục phiêu kinh tế và xã hội của chúng ta.

 

Hai phương diện nói trên được phản ảnh trong dự án ngân sách 1961 mà Quốc Hội sẽ cứu xét trong khóa họp này. Ngân sách năm tới sẽ bằng ngân sách năm nay mặc dầu ta phải chi tiêu nhiều hơn về công tác an ninh. Sự quân bình ngân sách phải thực hiện bằng cách tiết kiệm chi phí về điều hành để có thể dành cho công cuộc đầu tư một tỷ đồng trong tổng số ngân sách 15 tỷ. Công tác dinh điền và công chánh được đặc biệt chú trọng. Các ngân khoản về kinh tế, canh nông, y tế, giáo dục, lao động và xã hội cũng được tăng thêm. Công cuộc cải cách thuế vụ sẽ được tiếp tục thực hiện nhằm phân phối công bằng hơn về thuế vụ và chỉnh đốn việc thâu thuế để tăng thêm số thuế thâu hoạch. Dự án ngân sách năm tới sẽ trình bày trước Quốc Hội đã được dự thảo theo những nét đại cương kể trên.

 

Thưa ông Chủ Tịch, quí vị Dân Biểu,

 

Để trường tồn trong Tự Do, cuộc chiến đấu của dân tộc ta đã ra khỏi giai đoạn tối tăm và bấp bênh, nhưng con đường tranh đấu còn dài và khó khăn; phần vì đế quốc Cộng sản phá hoại, phần vì ta phải đương đầu với những vấn đề phức tạp của một thế giới đang biến chuyển mạnh. Nếu ta muốn thắng, ta phải sắm lấy phương tiện thích nghi, tích cực tôn trọng kỷ luật cần thiết và sẵn sàng hy sinh. Trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc hàng ngày, biết bao cán bộ quân chính và thường dân, noi theo truyền thống oanh liệt của tiền nhân, đã tranh đấu anh dũng và cương quyết; nêu cao gương ái quốc. Thành kính biết ơn, chúng ta hãy nghiêng mình trước anh hồn các chiến sĩ đã hy sinh tánh mạng để bảo vệ nhân dân. Với sự đồng tâm nhất trí của mọi người, cố gắng liên tục trôn trọng kỷ luật quốc gia, tôi tin chắc nước nhà sẽ sớm thống nhất trong Tự Do, Hòa Bình và Thịnh Vượng. Xin Ơn Trên phù hộ cho chúng ta".

 

Từng câu, từng đoạn trong Thông Điệp đều cho thấy sự vững mạnh của nền Đệ Nhất Cộng Hòa trước thủ đoạn phá hoại của CSBV, sự lãnh đạo sáng suốt và lòng yêu nước nồng nàn của vị sáng lập ra nước Cộng Hòa nhỏ bé này. Tuy chỉ là lãnh tụ một quốc gia non trẻ bị chia cắt lại bị thường xuyên phá hoại bởi cả bạn lẫn thù, nhưng tầm vóc cá nhân của TT Ngô Đình Diệm thời đó đã được cả thế giới công nhận sánh vai với các lãnh tụ đương đại và vĩ đại, sáng lập nên nền Cộng Hòa đầu tiên tại các quốc gia của họ như Mustafa Kemal của Thổ, Adenauer của CHLB Đức, Tôn Dật TiênTưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, Lý Thừa Vãn của Đại Hàn, Emilio Famy Aguinaldo (23/3/1869-6/2/1964) và Manuel Luis Quezon (19/8/1878-1/8/1944) của Philippines, Sao Shwe Thaik (1894-21/11/1962) của Miến-điện, Sukarno (Kusno Sosrodihardjo-Soekarno 6/6/1901-21/6/1970) của Indonesia ..vv.. TT Mỹ Eisenhower - một danh tướng Mỹ chỉ huy tối cao quân Đồng Minh hồi đại chiến II - đã từng ví TT Diệm như một "Winston Churchill" của Á châu!

 

Chỉ với sáu năm thành lập, VNCH đã bang giao với 83 quốc gia theo thứ tự thời gian từ 26/10/1955 gồm Hoa-kỳ, Pháp, Anh, Úc, New Zealand, Thái, Nhật, Ý, THDQ (Taiwan), Nam Hàn, Holland, Phi, Espagne, Haiti, Cuba (trước 1960), Bolivie, Equateur, Brazil, Liberia, Nicaragua, Chile, Hy-lạp, Luxembourg, Argentina, Costa Rica, Canada, Laos, Turkey, Belgique, Austria, W. Germany, Vatican, Honduras, S. Africa, Venezuela, Guatemala, Columbia, Sudan, Jordan, Portugal, Denmark, Liban, Swiss, Sweden, Dominican, Salvador, Ethiopia. Các nước Peru, Uruguay, Iran và Ireland bỏ phiếu thuận cho VNCH gia nhập LHQ. Các nước Finland, Pakistan, Arab Saudi chỉ có quan hệ thương mại. Các nước Cambodge, Ấn, Indonesia, Norway, Panama và Burma có tòa TLS, Lãnh Sự hay đại diện ở Saigon. VNCH cũng công nhận 22 quốc gia cựu thuộc địa của Anh, Pháp, Bỉ và Espagne như Guana, Maroc, Tunisie, Malaysia, Irak, Cameroun, Somalie, Togo, Madagascar, Congo (Belgique), Dahomey, Niger, Haute Volta, Cote d'Ivoire, Tchad, Centre d'Afrique, Congo (France), Chypre, Gabon, Senegal, Mali và Nigeria. Israel có bang giao nhưng chưa chính thức. Mặc dù rất bận công vụ nội địa, TT Diệm cũng đã công du các nước Ấn, Thái, Mỹ, Hàn, Úc, Phi, Trung Hoa Dân Quốc (Taiwan), Mã-lai. Nhiều quốc vương, quốc trưởng, tổng thống các nước cũng đã đến VNCH và thăm TT Diệm tại thủ đô Saigon.

 

VNCH gia nhập hầu hết các tổ chức chuyên ngành của LHQ; đặc biệt là Văn Bút Quốc Tế và Hướng Đạo Quốc Tế, hai tổ chức mà với 40 năm nỗ lực xin thay thế để hất cẳng VNCH, CSVN vẫn hoàn toàn thất bại vì không hội đủ điều kiện căn bản để gia nhập. Do đó, tuy chánh thể VNCH không còn sau 1975, nhưng cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại đã được công nhận là thành phần kế thừa chính thức với tư cách pháp nhân. Các đoàn Thanh Niên (Thanh Nữ, Thiếu Niên) Cộng Hòa từ gần nửa triệu năm 1958 lên đến 1,635,228 đoàn viên năm 1960 với các phong trào "Khỏe Vì Nước", xây dựng vận động trường Cộng Hòa, tham gia các thế vận hội (Úc 1956, Tokyo 1958, Bangkok, London, Kuala Lumpur, HongKong và Paris 1959, Roma 1960), dự các hội nghị quốc tế ở Paris 1955, Melbourne và Lisbonne 1956, Tokyo 1958, Bangkok 1959. Hướng Đạo VN dự các hội nghị quốc tế ở Úc 1955, Anh 1957 nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhật Huân Tước sáng lập Baden Powell, Ấn và Philippines 1959. Các nguyệt san "Tuổi Xuân", "Tin Tức" được phát hành từ 4,000 đến 5,000 ấn bản, chương trình "Tiếng Nói Thanh Niên", "Thanh Niên và Quân Đội" được phát thanh đến 18,200 buổi chỉ trong năm 1960. Bài "Học Sinh Hành Khúc" được hát trong tất cả các trường công lập. Thành ngữ "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" được treo trên tất cả các lớp học. Chưa kể đến các phong trào "Cách Mạng Quốc Gia, Thanh Niên GĐ Phật Tử, TN Khuyến Nông, TN Công Giáo, Hùng Tâm Dũng Chí ..vv.." với trên nửa triệu đoàn viên.

 

Thành tích lớn đầu tiên của Đệ Nhất VNCH là định cư gần một triệu đồng bào di cư lánh nạn CS từ Bắc Việt. Trong số này, phái đoàn VNCH giao dịch với Ủy Hội QT Kiểm Soát Đình Chiến đã giúp chuyển 13,045 đơn khiếu nại của 13,843 cán bộ VM bị CSBV ép buộc đã tập kết ra Bắc được trở về sum họp với gia đình trong Nam. Phái đoàn cũng nhờ UHQT này đòi CSBV phải trả lại quí kim và tiền bạc cho đồng bào di cư bị cướp đoạt trước khi vào nam; đòi 2.533.275.866 đồng tín phiếu của đồng bào Quảng Ngãi, Bình Định thuộc liên khu V của VC, bị cướp đoạt trước khi rút ra bắc; và đòi VC bồi thường cho CQ hai tỉnh này 593,409,500 đồng VNCH về thiệt hại tài sản công cộng bị chúng phá hủy. VNCH cũng đã ra bạch thư tố cáo những vi phạm của VC đối với HĐ Genève 20/7/1954 từ tháng 7/1959 đến tháng 6/1960. TT Diệm quan tâm đến chương trình "Cải Cách Điền Địa" không kém gì quân sự và giáo dục. Về mặt này, song song với việc bồi thường thỏa đáng các vụ trưng mua, trưng thu ... việc lập "Khu Trù Mật" nằm trong sách lược quân sự để cô lập VC và an dân theo đường lối "Nhân Vị, Cộng Đồng và Đồng Tiến".

 

TT Diệm rất quan tâm về giáo dục: Viện Đại Học Saigon được Pháp bàn giao ngày 11/5/1955 cho Bộ GD/VNCH. VĐH Huế lập ngày 1/3/1957. Viện ĐH Đà Lạt thành lập do đề nghị của GM Ngô Đình Thục. Các trường này dạy đủ các khoa Y, Dược, Nha, Văn, Luật, Kiến Trúc, Khoa Học và Sư Phạm. Ngân sách giáo dục trong 6 năm đã tăng gấp 26 lần trước 1954. VNCH năm 1960 đã chi 1,409,398,000$ chưa kể tiền viện trợ 206,449,200$ cho giáo dục. Trong 6 năm, VNCH đã xây thêm 40 trường trung học. Từ 1954-1960 đã có nhiều trường kỹ thuật được lập: TTQG Kỹ Thuật Phú Thọ với các lớp Cao Đẳng Công Chánh, CĐ Điện Học, QG Kỹ Sư Công Nghệ, VN Hàng Hải, TrH Kỹ Thuật Huế, TrHKT Cao Thắng, QG Thương Mại, Bách Công Phú Thọ, QG Cao Đẳng Mỹ Thuật Saigon, QG Âm Nhạc, Mỹ Nghệ Thực Hành, QG Nông Lâm Mục Bảo Lộc, Canh Nông Thực Hành Cần Thơ và Huế. Tổng số học sinh các trường này niên khóa 1959-1960 lên đến 5,644. Ngoài các trường trung tiểu học công lập, 1,722 tiểu học và 254 trung học tư thục, còn có 87 trường bán công với vốn xây tư nhân. ĐH Sư Phạm Saigon và Huế đào tạo 827 giáo sư (dịch từ chữ "professeur" theo hệ GD Pháp) trung học. Trường QGSP Saigon và các lớp sư phạm cấp tốc ở các tỉnh đào tạo 1,507 giáo viên tiểu học. Trong số 24,678 giáo chức niên học 1959-1960 có 7,702 nữ. Do CP quan tâm về GD, mỗi sinh viên sư phạm được lãnh 1,500$ phụ cấp hàng tháng, một số tiền rất lớn thời ấy! Có 753 du sinh được cấp học bổng du học, 3,302 học sinh được học bổng quốc nội.

 

Hội nghị Giáo Dục năm 1958 tuyên bố 3 nguyên tắc của nền giáo dụcVNCH: Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng. Viện Khảo Cổ lập năm 1956 đã bảo tồn 5 kho tàng di sản Chàm, liệt hạng 300 di tích lịch sử và dịch nhiều bộ sách chữ Hán như "Hoàng Việt Địa Dư Chí, HV Giáp Tí Niên Biểu, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Thiên Khoa Mục Chí, Thiên Binh Chế Chí, Thủ Bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Thủ Bộ Đại Việt Sử Kí Toàn Thư ..vv.." Nha Văn Khố và Thư Viện QG lập ngày 13/4/1959 với 6,500 sách đủ loại. Hải Học Viện  Nha Trang tổ chức hội nghị Hải Dương Học tháng 1/1959. Bộ Y Tế đã lập 1,126 bệnh xá với 20,824 giường; đã xây thêm các phòng khám, thí nghiệm và khu nhi của các bệnh viện Huế, Từ Dũ và Bình Dân; đã xây các bệnh viện Quảng Trị, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Viện Ung Thư QG; trang bị y cụ, thuốc men và phòng ốc cho các bệnh viện Thanh Quan, Bình Định, Quảng Ngãi, Pleiku, Kiên Giang, Kiến Hòa, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Tuy Hòa, Khánh Hội QT, Đà Lạt, Bình Dương, Ba Xuyên, An Xuyên. Trại cùi ở Phong Dinh có 29 giường; chưa kể các trại cùi có từ thời Pháp ở cao nguyên do các nữ tu Pháp thành lập và cai quản.

 

Trung tâm Nguyên Tử Lực phục vụ hòa bình ở Đà Lạt thuộc Quốc Gia Nguyên Tử Lực Cuộc được xây dựng năm 1960 do sắc lệnh của TT Diệm ban hành ngày 11/10/1958 đã được hai hãng General Atomic và Kaiser Engineers and Constractors kí giao kèo xây cất. Hệ thống thủy điện đập Danhim cung cấp 160,000kw với tổn phí 49 triệu Mỹ kim do tiền bồi thường chiến tranh của Nhật chi trả. Hỏa xa từ vĩ tuyến 17 trở vào nay chỉ còn 1,412km đường rầy; trong đó 500km bị chiến tranh phá hoại của du kích VM phá hủy toàn bộ; kể cả cầu cống. Quốc lộ 14 được nối dài. Các quốc và tỉnh lộ tại đèo Hải Vân, Phước Sơn-Daknhe, Mộ Đức-Kontum, QL 19 khúc Qui Nhơn-Pleiku, QL 21 khúc BMT-Ninh Hòa, QL 14 khúc Sùng Đức-Gia Nghĩa, QL 14 khúc Đồng Xoài-Cây Gáo; tất cả đã được lập mới, tu bổ, nối dài hoặc mở rộng.

 

Học Viện Quốc Gia Hành Chánh - hậu thân của trường Pháp Chánh - thành lập năm 1955 đã củng cố khung sườn hệ thống điều hành guồng máy quốc gia do các nghị định thành lập số 331-TTP/TTK ngày 16/4/1958 và số 382-PTT/TTK ngày 30/8/1957 thay NĐ 483-PTT/TTK ngày 9/8/1955. Đài phát thanh "Tiếng Nói VNCH" phát mỗi ngày 42 giờ trên 4 hệ thống ở 4 làn sóng trung bình, 6 làn sóng ngắn và 3 làn sóng siêu tần VHF; có cả Anh, Pháp, Hoa, Thái và Miên ngữ. Ngành Thông Tin và kỹ nghệ điện ảnh phát triển; điển hình có: Phim "Chúng Tôi Muốn Sống" mô tả thảm cảnh đấu tố địa chủ ở miền Bắc sau 1954 nổi tiếng quốc nội. Phim "Đứa Con Của Biển" đoạt giải phim ngắn Đại Hội Điện Ảnh Quốc Tế ở Berlin-Đức có 82 quốc gia tham dự năm 1960; cùng với một phim Disney. Nguyệt San "Le Vietnam En Image" được gởi đến 7,000 địa chỉ khắp 5 châu lục. Các đoàn văn nghệ lưu động như Kiến Quốc, Bình Minh tham gia chiến dịch Phan Chu Trinh ngay từ 26/12/1954. Chiến dịch "Tố Cộng I" từ 11/1/1956 đến tháng 5/1956 nhận được 6,531 VC đầu thú cùng nhiều vũ khí đủ loại và 1,236 hầm cơ sở bị phá hủy. Việt Tấn Xã được Đức trang bị tối tân đã nhận tin viễn kí (radioteletype) từ các thông tấn xã AFP, AP, UPI, SPA, Reuter; nhận tin mã tự (morsecast) từ Kyodo, Jiji, Antara, CNA ..vv..

 

Phi trường quốc tế Tân Sơn Nhất tấp nập máy bay đến từ Âu, Mỹ và Úc châu. Ngoài các khách sạn kỳ cựu như Givral, Caravelle ở Saigon, Thuận Hóa ở Huế, Pacific ở Nha Trang, các khách sạn mới đang được xây cất tại Saigon như Rex, Everest, Catinat ..vv.. Các nhà hàng như Tour d'Argent, Mỹ Cảnh (nổi) được chỉnh đốn và mỹ lệ hóa. VNCH đã lập 6 phi trường mới hạng G gồm: Phụng Dực-BMT, Dương Đông-Phú Quốc, Đức Cơ-Chudron, Nhơn Cơ-Quảng Đức, Quảng Ngãi, Phước Long-Bà Rá và Gia Vực-Q. Ngãi. Thủ đô Saigon có 104 xe bus thu từ người Pháp nay bổ sung thêm là 153 chiếc chạy 93km nội thành.

 

Giá trị "Đồng" tiền VNCH hồi tháng 5/1959 có tỷ lệ hối đoái là $50 đổi một Mỹ kim. Không kể ngoại viện, lợi tức quốc gia đã tăng 144% trong năm 1959. TT Diệm cho mở thực khố "Trịnh Minh Thế" hôm 5/11/1957 để giúp các tiểu thương có kho chứa hàng an toàn. Tỷ lệ số tiền Ngân Hàng QGVN cho vay năm 1959 đã tăng 17% so với năm trước. Ngoài sản phẩm xuất cảng chính là gạo và cao-su, VNCH còn xuất cảng nhiều sản phẩm khác như muối, gỗ, ngư sản, nông sản và lâm sản. Hãng đường Hiệp Hòa sản xuất 10,000 tấn năm 1960. Hai hãng đồ gốm Thiên Thanh và Vĩnh Tường sản xuất hàng loạt theo kỹ thuật Pháp, Nhật thay vì thủ công gia truyền. Nhà máy dệt Vinatexco sản xuất 2,500 tấn chỉ mỗi năm.

 

Thay vì bán biển đảo cho Tàu lấy tiền bỏ túi như CSVN đã làm từ 1958 tới nay, chính phủ VNCH cuối năm 1959 đã cho khai thác quặng phosphat tại 3 đảo Patte, Money và Robert thuộc quần đảo Tây Sa; kí hợp đồng với hãng Catraco khai thác cát trắng ở Cam Ranh xuất cảng sang Nhật 10,000 tấn và Mỹ 30,000 tấn đầu năm 1960. Quặng sắt được khai thác ở Phong Điền, Thừa Thiên; quặng vàng bạc và chì ở Bồng Miêu; quặng đồng ở Đức Bồ. Mỏ than Nông Sơn sản xuất mỗi tháng 1,500-2,000 tấn. VNCH lập 78 hợp tác xã ngư nghiệp và 10 ngư cảng ở các tỉnh ven biển. Khẩu hiệu "Thăng Tiến Cần Lao; Đồng Tiến Xã Hội" là phương châm của Bộ Lao Động. Luật 16/59 ngày 17/6/1959 ấn định thể lệ lập nghiệp đoàn lao động độc lập. Hai quần đảo Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys) được Hải Quân VNCH đổ bộ hôm 22/8/1956 lập bia chủ quyền và cơ quan hành chánh có treo cờ vàng ba sọc đỏ. Cơ quan hành chánh này sau đó được thay đổi bởi một sắc lệnh của TT Diệm (xin xem ảnh đính kèm) kí ngày 13/7/1961. Hơn nữa, TT Diệm đã đích thân đi kinh lí thăm đồng bào ngư phủ ở Cù Lao Lí Sơn (cù lao Ré) cùng năm ấy. Nguyên văn sắc lệnh như sau:

 

"TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA

Tổng Thống Phủ

SL số 27A-57

-Chiếu Sắc Lệnh số 124-TTP ngày 28/5/1952 ấn định thành phần chính phủ

-Chiếu Dụ số 57-A ngày 24/10/1955 cải tổ nền hành chánh Việt Nam

-Chiếu Nghị Định số 3282 ngày 5/5/1959; bổ túc bởi NĐ số 136-3G ngày 15/6/1932 ấn định tổ chức hành chánh Hoàng Sa

-Chiếu Dụ số 10 ngày 30/3/1938 sáp nhập Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên

-Chiếu Nghị Định số 335 ngày 24/6/1958 ấn định các đơn vị hành chánh tỉnh Quảng Nam

SẮC LỆNH

-Điều 1: Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên; nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam.

-Điều 2: Một đơn vị hành chánh xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải trực thuộc quận Hòa Vang. Xã Định Hải đặt dưới quyền một phái viên hành chánh.

-Điều 3: Bộ Trưởng Nội Vụ, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên và Tỉnh Trưởng Quảng Nam chiếu nhiệm vụ lãnh thi hành Sắc Lệnh này.

NGÔ ĐÌNH DIỆM -

Tổng Thống VIỆT NAM CỘNG HÒA (ấn kí)"

 

Ngành Tư pháp có 119 thẩm phán, 6 chưởng khế, 111 lục sự và các thư kí tổng cộng 966 người. Luật quốc tịch ban hành ngày 7/12/1955 khiến phần lớn Hoa kiều sinh sống từ nhiều thế hệ phải nhập tịch và thi hành quân dịch để được tự do buôn bán. Các dân tộc thiểu số như Thượng, Chàm, Miên được ưu đãi về nhiều mặt như nông nghiệp, xã hội, y tế, tiểu công nghệ ..vv.. Tuy nhiên từ 1958-1959 có 734 Thượng Cộng bị bắt, 79 đầu thú với vô số vũ khí bị tịch thu. Các ngoại kiều được kiểm soát và gia hạn cư trú như Pháp (8,000), Tàu (2,500-không được làm một số nghề), Ấn 1,187, Indonesia (12) ..vv.. Tính đến 1960 đã có 27,000 VC bị cảnh sát bắt hoặc đầu thú, Bảo An Đoàn và NDTV cũng bắt được hơn 10,000 VC. Vô số vũ khí bị tịch thu.

 

Do đất nước đang lâm chiến, Bộ Quốc Phòng là cơ quan mà TT Diệm đặc biệt quan tâm. Sau khi đã khó nhọc xóa bỏ nạn "thập nhị sứ quân" có từ thời Pháp để thống nhất quân đội quốc gia về một mối, ông đã cho thành lập các quân binh chủng, các quân trường, chế độ quân dịch và trừ bị tại gia cùng các chiến dịch diệt cộng an dân. Các quân trường gồm Trường Đại Học Quân Sự đào tạo sĩ quan tham mưu, Võ Bị Đà Lạt đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp theo đúng tiêu chuẩn các viện hàn lâm quân sự West-Point, Saint-Cyr và Sandhurst. VBĐL đã mở được 15 khóa tính đến 1960. Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức đào tạo sĩ quan trừ bị; trong đó gồm các trường Quân Cụ, Pháo Binh, Công Binh, Quân Y, HSQ, Hải Quân, Không Quân và Quang Trung từ 1955.

 

QĐVNCH đã tổ chức các chiến dịch: Tự Do (8/2/55-12/3/55) tiếp thu mật khu Cà Mau; Giải Phóng (19/1/55-1/6/55) tiếp thu cơ sở VC ở Bình Định, Nam Q. Ngãi; Bình Xuyên (3/55 ở Saigon) đẩy lui quân giáo phái sau 48 giờ hành quân; Đinh Tiên Hoàng (5/6/55-28/12/55) diệt loạn ở miền Tây nam bộ; Hoàng Diệu (21/9/55-21/10/55) diệt loạn Bình Xuyên ở Rừng Sát; Nguyễn Huệ (11/5-31/5/56) diệt quân Ba Cụt, Trần Văn Soái và VC ở U Minh Hạ; Thoại Ngọc Hầu (8/6/56-31/10/56) diệt loạn quân vùng biên giới Việt-Miên; Trương Tấn Bửu (17/7/56-15/12/57) diệt loạn và VC miền Đông; các chiến dịch khác từ 1958-1959 tảo thanh phiến loạn và VC nằm vùng ở Minh Thạnh, Dầu Tiếng, Lộc Ninh, An Khê-U Minh Hạ, Dương Minh Châu, chiến khu D. Từ tháng 7/1959-7/1960 mở 76 cuộc hành quân.

 

Chiến tranh tâm lí gồm các chiến dịch: Nguyễn Trãi (20/4/58-20/2/59) ở 8 tỉnh miền Đông và 5 tỉnh miền Tây với kết quả 70% thanh niên tòng quân; Hồng Châu vùng Châu Bồi để phản tuyên truyền VC; Thô Lô vùng căn cứ cũ của VC ở Bình Định và Phú Yên để tái lập cơ cấu hành chánh; phát hành báo Chiến Sĩ Cộng Hòa, Thông Tin Chiến SĩChỉ Đạo; lập các đoàn văn nghệ lưu động ..vv.. Hải Quân VNCH phụ trách bảo vệ hơn 2,000km bờ biển. HQVNCH năm 1956 chính thức là thành viên HQ thế giới; tổ chức các cuộc thao dợt và hành quân như Kỳ Vân, Thủy Triều, Kiến Vàng, Keo Ngựa, Rừng Sát, QK 5, Hòn Khoai và cả Hoàng Sa nữa!

 

Khuôn khổ bài viết này không cho phép ghi hết mọi thành tích của nền Đệ Nhất VNCH nói chung; sáu năm chấp chánh của TT Ngô Đình Diệm nói riêng. Tuy nhiên, mốc lịch sử 26/10/1954 đã là niềm hy vọng cuối cùng của đồng bào miền Nam nói riêng, dân tộc Việt cả hai miền Nam - Bắc nói chung; để có được Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường; để có được một ước vọng "Tiểu Long châu Á" như Cộng Hòa Korea và thành tựu thống nhất trong hòa bình như CHLB Đức sau này. Quốc Khánh 26/10 là mốc lịch sử mà tính chánh đáng không thể phủ nhận. Lịch sử đã chứng minh ngày 1/11/1963 không chỉ là thời điểm xóa bỏ mọi thành tích xây dựng và bảo vệ đất nước, mọi hy sinh xương máu của quân cán chính thời Đệ I VNCH; giúp cho "ngư ông đắc lợi" CSBV được "bất chiến tự nhiên thành" - như HCM đã reo vui; nó còn là tiền thân tất yếu của ngày 30/4/1975 đen tối nhất sau này, ngày đã đưa dân tộc vào một chu kỳ nữa của vòng nô lệ Bắc thuộc "ngàn năm tăm tối" - điều mà TT Diệm đã từng tiên liệu hồi 1963 trước đảo chánh và ngay cả TT Ronald Reagan cũng đã từng lập lại tương tự hồi thập niên 1980. Ngày 1/11/1963 - bởi chính sách nhất thời lầm lỗi của một phe cánh thế lực ngoại bang mà có - đã không thể có tư thế để thay tầm vóc và hào quang chính nghĩa của ngày 26/10, ngày Quốc Khánh thực sự của nền Cộng Hòa Việt Nam chân chính. 

 

HÀ BẮC

(tham khảo các tài liệu của đệ I VNCH, tái bản "Sáu Năm  Hoạt Động Của Chánh Phủ VNCH" của Hồ Đắc Huân và các tài liệu cập nhật khác)

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website