Date: 2015-11-05 11:27 GMT-08:00
Subject:
To: joepham2014@gmail.com
xin anh CKV phổ biến
Le H Phuc
Cái Chết Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
Một món nợ lịch sử
BS. Chu Mỹ Dung

Vì sao cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một
món nợ lịch sử?
Vì sao cái chết của
TT Ngô Đình Diệm là một món nợ lịch sử? Vì người ta giết ông tức là người ta
đã giết lãnh đạo, giết nguyên thủ quốc gia, giết Tổng Tư Lệnh Quân Đội, tức là ngươi
ta đã chặt đi cái đầu của Việt Nam. Vì vậy Việt Nam đã chết theo định mạng của ông như nhiều chính
trị gia trên thế giới đã nhận định.
Hãy đọc nhận xét của TT Richard Nixon về TT Ngô Đình Diệm
“Tổng Thống Ngô Đình Diệm Diệm ổn định miền Nam Việt Nam như dùng đá xây
móng để căn nhà đứng vững. Những thế lực chính trị từ mọi xu hướng đều chĩa mũi
dùi vào ông ta. Để thăng bằng những chống
đối lẫn nhau, ông đã khóa tất cả lại. Khi mà đá xây móng ấy không còn nữa, người
ta mới thấy nó là quan trọng. Thì cũng y hệt như vậy, khi ông Diệm mất đi, toàn
hệ thống chính trị Nam Việt Nam bị sụp đổ tan tành, người ta mới nhận rõ vai
trò của ông ta đáng quý trọng. Đáng lẽ những kẻ chủ trương hổ trợ cho cuộc đảo
chánh thuộc chính Phủ Kennedy phải hiểu điều đó ngay từ đầu, nay thì họ phải cảm
thấy quá đau đớn ê chề: Sự lựa chọn ở Nam Việt Nam lúc ấy không phải
là lựa chọn giữa ông Diệm và một kẻ nào đó tốt hơn ông, mà là giữa ông ta với một
kẻ nào đó tồi tệ hơn ông.”
Khi cái đầu của Việt
Nam không còn, hoặc nói theo TT Nixon là khi viên đá tảng xây móng căn
nhà Việt Nam không còn, thì 9 năm
sau bọn Trung Cộng bắt đầu công khai thanh toán VN qua vụ tấn công Hoàng Sa
ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Hiên nay Việt Nam
đã và đang chết theo định mạng TT Ngô Đình Diệm như thế nào?
Đó là hàng ngàn
kilomet vuông dọc theo biên giới phía bắc đã bị sát nhập vào Trung Cộng qua cái
gọi là Hiệp Định Biên Giới Việt Trung 1999 được ký kết như là một món quà mà CSVN dâng
cho Trung Cộng trong Hội Nghị Bán Nước Thành Đô 1999 để đổi lại sự sống còn của
ĐCSVN trước sự sụp đổ hàng loạt của cộng
sản thế giới. Cũng theo thỏa thuận mãi quốc cầu vinh này người Trung Hoa đang
được Trung Cộng cài dày đặc từ Cao Nguyên đến đồng bằng, từ Móng Cái đến Mũi Cà
Mau và đến tận Côn Lôn Phú Quốc. Ngoài biển khơi thì Trung Cộng khoanh vùng
toàn bộ biển đông dọc theo thềm duyên hải nước ta và tuyên bố đó là lãnh thổ của
chúng. Trong tình hình đất nước nghiêm trọng như thế nhưng Đảng VGCS thì đang chuẩn
bị chào đón quân xâm lăng “Chủ Tịch Tập Cận Bình” một cách long trọng như một
quốc khách đến thăm để mở ra một “kỷ nguyên mới” cho Việt Nam!.
Vậy “kỷ nguyên mới” đó là gì? Đó là kỷ nguyên
dâng nước cho nhà Hán chứ không thể khác hơn được
Chuyện xảy ra
đúng như tầm nhìn chiến lược của TT Ngô Đình Diệm cách đây 60 năm. Ngày 17 tháng 9 năm 1955 tại buổi lễ khánh
thành đập Đồng Cam Tuy Hòa, ông đã nói như sau: Cuộc đời
của chúng ta, tự do của chúng ta, hạnh phúc của chúng ta và cuộc đời, tự do, và
hạnh phúc của con cháu chúng ta đều phụ thuộc vào cuộc chiến đấu này. Nếu Việt
Minh thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta sẽ biến mất
và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là một tỉnh phía nam của Trung Cộng.
Hơn nữa nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài do Mạc Tư Khoa tạo
ra và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình.”
Vì vậy không thể
phủ nhận rằng việc giết ông là một món nợ lịch sử quá lớn của dân tộc Việt Nam.
Mất ông không chỉ là mất Miền Nam mà là mất cả Việt Nam. Như ông đã nói khi còn
là một Thượng Thư trẻ tuổi “người Pháp chỉ là giai đoạn và sớm muộn gì
Pháp cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam, mà cộng sản mới là nguy cơ trầm
trọng và dài hạn. Tuy nhiên nếu giữ được Nam Kỳ là giữ được nước”.
Nói một cách khác, chuyện đã xảy ra như lời lẩm bẩm của ông với chính
ông trước khi rời dinh Gia Long vì bọn tướng lãnh phản loạn: “Như ri là mất nước rồi!”
Vì sao mà ông biết rằng cuộc phản loạn này sẽ dẫn đến mất nước? Đơn giản
vì ông biết rằng số chính trị gia bấy giờ chỉ là một đám thùng rỗng kêo to bất
tài vô tướng như Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, và nhóm “Nhân sĩ Caravelle”, thì
khả năng gì mà giữ được Nam Kỳ? Mà không
giữ được Nam Kỳ thì cả nước sẽ lọt vào
tay CSVN, mà lọt vào tay CSVN thì có nghĩa là lọt vào tay Trung Cộng. Và sự việc
đã diễn ra không thể nào khác hơn tầm nhìn của ông!
Với sự thay ngựa giữa dòng liên
tục trong bốn năm làm cho tình trạng đất nước ngày mỗi tồi tệ hơn còn cộng sản
được lợi thế xâm nhập tràn lan đã chứng minh rằng câu nói “Như ri là mất nước rồi”
là đúng như đinh đóng cột, và những con người như Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh
và “nhân sĩ Caravelle” như Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát là những kẻ hoàn toàn không có khả năng lãnh đạo.
Sự kiện bất tài này được thay bởi bất tài khác đã tạo ra một cuộc khủng
hoảng chính trị nghiêm trọng kéo theo sự suy sụp về quân sự như một hậu quả
đương nhiên của một Miền Nam không có lãnh đạo giỏi trong thời chiến
Hãy nhìn lại bộ máy quản trị đất nước của VNCH bấy giờ. Sự thay đổi nội
các, thay đổi các luật lệ và ban hành các sắc luật xảy ra như chóng chóng, cái
này đá đít cái kia khiến các viên chức
chính phủ từ cao cấp đến trung cấp đến thấp cấp đều hoang mang không biết phải
làm gì. Và cuối cùng thì mọi người đều chọn con đường án binh bất động là tốt
nhất. Không ai dám làm gì cả, vì làm bất cứ điều gì đều cũng có thể dễ sa vào
vòng lao lý vì cái tội “mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo”. Hôm nay nhận lịnh cấp
trên đi giải tán biểu tình nhưng ngày mai phải vào tù vì tội anh đã “đàn áp Phật
Giáo”. Không những những người trong bộ
máy có liên quan bị gán tội mà bất cứ ai làm cho GHPGVNTN không ưa thì cũng dễ
dàng bị tống cổ vào tù, cũng cái tội “ đàn áp Phật Giáo” chứ không gì khác. Đó
là một sự thật tồi tệ đã xảy ra tại Miền Nam, nơi đại diện cho nền chính trị dân
chủ pháp trị đầu tiên của người Việt Nam!
Nhờ có thần dược “Mật vụ Nhu Diệm
đàn áp Phật Giáo” mà hệ thống tình báo CSVN đã đánh sập hệ thống tình báo của
VNCH một cách dễ dàng. Chúng đã mở bó đủa
tình báo VNCH ra và bẻ gãy từng chiếc một. Những người có tài nhất đương nhiên
phải là chiếc đũa đầu tiên mà bọn cộng sản
bẻ trước. Trùm mật vụ đặc trách Miền Bắc Phan Quang Đông, ông chẳng dính gì đến
Miền Nam nhưng đã bị xử bắn vì tội “mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo” thực hiện
bởi lịnh của Nguyễn Chánh Thi. Trùm mật vụ “ Đoàn đặc nhiệm Miền Trung”, một cơ
quan tình báo Miền Nam kiệt xuất đã phá vỡ và bắt được rất nhiều tên tình báo
chiến lược cao cấp trong đó có đại tá công an CS Mười Hương, ông Ngô Đình Cẩn
cũng bị xử bắn bởi lệnh của Nguyễn Khánh vì tội ông là em ruột của Tổng Thống thì
đương nhiên là “mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo”. Dương Văn Hiếu Trưởng Đoàn Đặc
Nhiệm Miền Trung bị kết án chung thân cũng cái tội “ Mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật
Giáo”, và dĩ nhiên kể cả ông Đặng Sĩ “hung thủ giết 8 thánh tử đạo tại đài phát
thanh Huế”!
Ai chịu trách nhiệm trước lịch sử về những tội ác này?
Chưa bao giờ mà tình hình chính trị và an ninh xã hội Miền Nam lại hỗn
loạn và tồi tệ như giai đoạn 1964-1967. Thế nhưng giai đoạn này lại là niềm tự
hào vô kể của một nhóm người hung hãn núp dưới khẩu hiệu “Phật Giáo tranh đấu
dành Pháp Lý cho GH”. Cái mà ngài Tăng Thống Thích Quảng Độ nay vẫn hãnh diện gọi
đó là “cuộc cách mạng không tiền khoáng hậu đầu tiên của lịch sử Phật Giáo”. “Cuộc
cách mạng không tiền khoáng hậu của GHPGVNTN” gồm toàn các cuộc biểu tình tự
thiêu lên đường xuống đường mang tính bạo lực chẳng hạn như núp sau trong chùa núp sau tượng Phật bắn giết
người ở Thanh Bồ Đức Lợi, thiếu úy Phật Tử tranh đấu Nguyễn Đại Thức bắn tướng Huỳnh Văn Cao, được
PGVNTN phong làm anh hùng “Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức”, nổi lửa đốt Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, đập phá
tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế, chiếm đóng quốc lộ I, chiếm đài phát thanh chính phủ
tại Huế và Đà Nẳng.
Để thị uy, GHPGVNTN đã phát hành rộng rãi tội “Mật vụ Nhu Diệm đàn áp
Phật Giáo”cho tất cả các cơ quan mật vụ tình báo của chính phủ VNCH. Vì vậy các
cơ quan tình báo trọng yếu của Miền Nam bị lâm vào tình trại bại liệt. Cộng với
tình hình chính trị ngày mỗi mất phương hỗn quân hỗn quan, chính phủ không thể
điều hành đất nước dưới áp lực của các cuộc biểu tình tự thiêu sách động bởi
GHPGVNTN. Tất cả những rối loạn trên đã tạo điều kiện tốt đẹp cho bọn bọn nằm
vùng xâm nhập khắp nơi, nhất là các cơ quan trọng yếu của chính phủ, làm nội ứng
cho những đợt tấn công quân sự trên quy mô lớn nhằm thanh toán nhanh gọn Miền
Nam trước cơ hội ngàn năm có một này.
Vì vậy mà đã đưa đến sự kiện Mỹ phải gấp rút đổ quân vào bãi biển Đà Nẳng
để tăng cường an ninh cho Miền Nam vào sáng sớm ngày 8/3/1956, khi mà “thủ tướng
nước ta”, Phan Huy Quát còn đang ngủ và không hay biết ất giáp gì!
Đó là những gì xảy
ra trên quê hương Miền Nam Việt Nam sau cái chết bi thảm của một vị nguyên thủ
quốc gia tài đức nhất trong lịch sử cận đại
Cái chết mà Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã nhận định rằng “Thus, as the nine-year rule of Diem came to
a bloody end, our complicity in his overthrow heightened our responsibilities
and our commitment in an essentially leaderless Vietnam” . (Pentagon
Papers viii). .
Chín năm cầm quyền của
Diệm chấm dứt trong máu, sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ ông ta đã
làm tăng thêm trách nhiệm cũng như sự trói buộc của chúng ta vào
trong một đất nước Việt Nam hoàn toàn không có lãnh đạo.
Mỗi năm qua, cứ đến những ngày tháng này, nhìn vào tình
hình đất nước ngày mỗi bi đát dân chúng sống trong thế kỷ 21 mà vẫn không có
quyền làm người, không được bầu chọn người lãnh đạo đất nước, bị đày đọa bị
đánh đập bị giết chết chỉ vì thực hiện quyền tự do ngôn luận, còn lãnh thổ và
lãnh hải bị mất dần vào tay Trung Cộng, chúng ta lại nhớ đến vị lãnh đạo ưu tú
tài đức của đất nước đã bị giết hại bởi nhóm phản tướng và bị vu khống bởi một
nhóm người chỉ muốn dùng thần quyền để lũng đoạn thế quyền GHPGVNTN. Thí dụ như
cụ thể người ta đã đấu tố chính quyền TT Ngô Đình Diệm bằng những tội ác như sau: Hòa Thượng Hội
Chủ Phật Giáo Thích Tịnh Khiết đã bị giết, hằng trăm Phật tử đã bị chính quyền
dìm chết dưới sông Sài gòn, nhiều ni cô đã bị mổ bụng, và chùa Xá Lợi đã bị đốt
cháy,
các nhà sư đã bị ném
từ trên các tầng lầu cao xuống vào đêm Thiết quân luật 20/8/1963 khi lực lượng
quân đội của chính quyền Tổng Thống Diệm mở cuộc hành quân lục soát chùa Xá Lợi
..Phái Đoàn cũng đã tìm gặp được một số nhà sư lãnh đạo Phật Giáo và thanh
niên phật tử mà theo những báo cáo trước đây mà phái đoàn đã nhận được rằng những
người nầy đã bị chính quyền của Tổng Thống Diệm giết chết, nay hóa ra đó chỉ là
những báo cáo khống, không đúng sự thật.” (Báo cáo của Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra
LiênHiệp Quốc)
Món nợ lịch sử này chỉ có thể trả được khi đất nước không
còn chìm đắm trong thảm họa cộng sản và một tòa án lịch sử phải được mở ra để
viết lại những gì không thật. Kẻ gây ác phải bị lên án, người tài đức yêu nước
phải được trả lại đúng vị trí của họ trong lòng dân tộc.
Trong niềm kính trọng và thương tiếc một anh hùng dân tộc
đã bỏ mình vì đất nước, chúng tôi xin được viết đôi dòng về ông
Tiểu sử TT
Ngô Đình Diệm
Cá nhân TT Ngô
Đình Diệm là sự thể hiện đồng thời của cả
ba triết lý Nho Giáo, Thiên Chúa Giáo và triết lý Đông Phương. Nền tảng Nho
Giáo đã tạo cho cá nhân ông cách hành xử khắc kỷ, quân tử, Thiên Chúa Giáo đã đem đến cho ông đức bác ái, bao dung
công chính, và triết lý văn minh phương tây đã đem đến cho ông kiến thức cấp tiến và cởi mở về tự do dân chủ.
Và bao trùm lên tất cả các nền giáo dục Đông Tây mà ông đã được may mắn lãnh hội,đó
là thượng đế đã ban cho ông tư chất thông minh và tấm lòng ái quốc yêu dân mãnh
liệt
Nói về Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, có thể tóm tắt bằng câu nói của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,
cháu ngài, khi nói về cậu
mình với đức Khâm Sứ Tòa Thánh như sau như sau: “Cậu Diệm của con là một người
hoàn hảo”
Những tài liệu của
chính thức của VNCH ghi rằng ông sinh
ngày 3 tháng 1năm 1901 tại Phước Quả, Thừa Thiên. Là con trai thứ 4 trong một
gia đình có truyền thống chính trị, nổi tiếng về lòng yêu nước và chống cộng
triệt để: anh
cả Ngô Đình Khôi tổng đốc Quảng Nam và con là Ngô Đình Huân cả hai đã bị cộng sản
giết, Ngô Đình Luyện đại sứ VNCH tại Anh, Ngô Đình Cẩn linh hồn thực sự của lực
lượng tình báo Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung. Trong gia đình, Tổng thống Ngô Đình
Diệm là người con tài ba đức độ nhất của Đại Thần Ngô Đình Khả. Ngoài thân phụ
ra, ông còn chịu ảnh hưởng bởi dưỡng phụ Nguyễn Hữu Bài cũng là một nhà Nho ái
quốc đức độ uyên bác Đông Tây như cha ruột của mình.
TT Ngô Đình Diệm tư chất rất thông minh: 16 tuổi đổ nhì
Thành Chung, 17 tuổi được mời dạy Quốc Tử Giám và 18 tuổi vào học trường Hậu Bổ
( tương đương với Quốc Gia Hanh Chánh) năm 21 đổ thủ khoa. Ông đặc biệt xuất sắc
trong các môn học về hành chánh, luật pháp và chính trị. Ngay sau tốt nghiệp,
ông được bổ nhiệm làm tri huyện Quảng Điền Huế, Hải Lăng Quảng Trị. Bảy năm
sau, 29 tuổi, ông được bổ làm Tuần Phủ Ninh Thuận và Bình Thuận, tức là tỉnh
trưởng. Dưới sự lãnh đạo của ông, Ninh Thuận và Bình Thuận có đời sống kinh tế
khả quan, có chiến lược cụ thể đối phó với sự tuyên truyền của cộng sản và phá
vỡ nhiều mạng lưới nằm vùng. Uy tín này
lan đến triều đình cho nên năm 31 tuổi ông được mời làm thượng thư Bộ Lại,
tương đương với chức Thủ Tướng Chính Phủ. Năm 33 tuổi ông được mời kiêm nhiệm
chức vụ Tổng Thư Ký hội đồng Hỗn Hợp Việt
Pháp.
-Với chức vụ quan trọng bậc nhất quốc gia này, ông đòi hỏi
nhiều quyền lợi cho đất nước. Ông yêu cầu người Pháp thực thi việc thống nhất đất
nước bằng việc sát nhập Trung Kỳ và Bắc Kỳ, thực hiện dân chủ bằng cách cho
phép Viện Dân Biểu được lo những vấn đề quốc sự giống như Quốc Hội. Nhưng
đề nghị của ông không được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận. Thấy việc tham chính của mình không thể đem lại
lợi ích cho đất nước, ông xin từ chức Thượng Thư, chọn con đường làm thường dân
để phục vụ đất nước theo cách riêng của ông, năm đó ông chỉ 33 tuổi.
Hành động từ quan
này làm chấn động Triều Đình Huế và Chính Phủ Pháp. Điều này chứng minh rằng ngay khi còn rất trẻ, ông đã là người không
hề màng danh lợi. Nó cũng bẻ
gãy luận điệu của những kẻ bất tài không được ông sử dụng nên đem lòng oán hận rêu rao rằng ông độc
tài tham quyền cố vị. Với tiết tháo xem
thường danh lợi như vậy, những ai đến bây giờ còn cho rằng Tổng Thống là một
người độc tài gia đình trị thì rõ ràng họ chỉ là những kẻ vu khống và muốn sửa
đổi lịch sử, nhưng tiếc rằng họ chẳng bao giờ có khả năng làm điều đó.
Thâm tâm thấy con đường phục vụ quốc gia qua
chức vụ Thượng Thư Bộ Lại không thể thực hiện được nên ông đã quyết định chọn
con đường khác, đó là từ chức để có thì giờ học hỏi về chính trị luật pháp xã hội
và cũng để kín đáo hoạt động chống Pháp. Trong 17 năm ở ẩn, ông đọc rất nhiều
sách vở về chính trị phương tây, về cộng sản chủ nghĩa về các phong trào đòi độc
lập. Song song với việc nghiên cứu chính trị, ông liên kết với các nhà cách mạng
có uy tín khác như Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu trong phong trào Cường
Để, ông cũng là đại diện chính thức của Kỳ Ngoại Hầu tại Việt Nam.
Ông đã từng nói “người
Pháp chỉ là giai đoạn và sớm muộn gì Pháp cũng phải trao trả độc lập cho Việt
Nam, mà cộng sản mới là nguy cơ trầm trọng và dài hạn. Tuy nhiên nếu giữ được
Nam Kỳ là giữ được nước”. Điều này đã diễn ra đúng như lời nhận xét của
ông 11 năm sau đó!
Có quá nhiều điều
ông phát biểu từ mấy chục năm trước đã trở thành hiện thực. Người ta ca ngợi
ông là người có viễn kiến chính trị, điều này theo chúng tôi chưa chính xác lắm.
Thực sự ông là một nhà toán học
chính trị, ông tính
toán chính xác đường bay quỹ đạo chiến
lược đối với cộng sản . Sở học sâu sắc và một năng khiếu đặc biệt về chính trị cộng với tư chất thông
minh đã làm ông trở thành người thấy xa trông rộng, một yếu tố không thể thiếu của một vị lãnh đạo quốc gia trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng
Pháp đánh giá được
tiềm năng và tâm huyết của ông, vì vậy cuộc sống ẩn dật ngụy trang cho các hoạt
động bí mật của ông không làm sao qua được tầm theo dõi của Pháp. Toàn Quyền
Đông Dương Jean Decoux ra lệnh bắt ông đi đày ở Lào, ông được mật báo và trốn
vào Sài Gòn. Một thời gian sau, ông bị Hồ Chí Minh bắt sau đó ông lại may mắn thoát khỏi bàn tay của hắn. Ông sang Nhật gặp
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, tại đây, Kỳ Ngoại Hầu khuyên ông sang Mỹ để tìm sự hậu
thuẫn của Hoa Kỳ mà không thể trông cậy vào Nhật hay chờ đợi gì
từ Pháp.
Sang Mỹ, qua sự giới
thiệu của Hồng Y Spellnam, ông được sự tiếp xúc và đánh giá cao của một số
chính trị gia Hoa Kỳ, thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas dân biểu
Kennedy, Mike Mansfield v,v Ông tham gia diễn thuyết về các vấn đề Việt Nam,
Châu Á và hiểm họa cộng sản tại một số các trường Đại Học. Một số nhân vật
trong quốc hội và chính quyền Hoa Kỳ đã chú ý đến ông, nhưng chưa bao giờ chính
quyền Hoa Kỳ quyết định chọn ông làm con bài chính trị. Giả thuyết cho rằng nhờ
sự vận động của Hồng Y Spellman cho nên ông được chính giới Hoa Kỳ đưa về làm Thủ Tướng là một giả thuyết không
đứng vững. Theo luật pháp Hoa Kỳ Hồng Y Spellman không có quyền và trên thực tế
ông cũng không có khả năng can thiệp vào chính quyền Hoa Kỳ. Và nếu như được
chính quyền Hoa Kỳ ủng hộ, thì những năm sau đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã
không phải nản lòng rời Hoa Kỳ bôn ba sang Châu Âu tìm kiếm sự hổ trợ khác
Tóm lại, về thân
thế sự nghiệp, tổng thống Ngô Đình Diệm đã từng là một vị thượng thư trẻ tuổi
không màng danh lợi, quyết tâm chống Pháp và chống cộng tới cùng. Và ông đã nhận
lời cựu hoàng Bảo Đại để gìn giữ một quốc gia đang đứng trên bờ vực thẳm chờ cộng
sản thâu tóm trong lúc binh quyền và
chính quyền chỉ là con số không cũng không hề có một sự hậu thuẩn nào từ các quốc
gia phương tây. Người đã cậy nhờ chí sĩ Ngô
Đình Diệm nắm lấy chức vụ thủ tướng không ai khác ngoài cựu hoàng Bảo Đại, và giao cho ông 27 sĩ quan và cảnh sát với
một ngân khố trống rỗng như cựu hoàng đã tự xác nhận trong cuốn sách “
Con rồng Việt Nam”.
Từ một con số
không, TT Ngô Đình Diệm đã thành lập nên nước Việt Nam Cộng Hòa và biến nó
thành Hòn Ngọc Viễn Đông trong vòng chỉ 9 năm. Đó là sự thật lịch sử mà
không ai có thể chứng minh khác được!
Hoàn cảnh đất nước
khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm về chấp chính:
Muốn đánh giá công
hay tội của một vị lãnh đạo quốc gia, lịch sử phải xem xét gia tài mà vị lãnh đạo
đó tiếp nhận trước khi điều hành đất nước, và so sánh với những gì đất nước được hay mất sau khi họ rời chức.
Thế nhưng, đối với tổng thống Ngô Đình Diệm, những kẻ chê bai hay kết tội ông đều
không bao giờ dám đề cập đến hoàn cảnh của Miền Nam vào thời điểm 1954. Lý do? Nếu đề cập đến tình hình đất nước
trước ngày ông về nước nhận nhiệm vụ thì chẳng khác nào họ đã xác nhận ông thật
là một con người phi thường
Tình hình Miền Nam trước khi TT NĐD về nước như chỉ mành treo chuông chờ HCM và Trung Cộng
thôn tính. Cựu hoàng Bảo Đại trong cuốn hồi ký đã xác nhận khi được yêu cầu về lập chính quyền, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã từ chối
và thưa rằng sau bao năm bôn ba, giờ đây ông muốn trải cuộc đời còn lại trong một
tu viện dòng kín. Cựu Hoàng Bảo Đại lộ vẻ tức giận và dẫn ông vào một căn phòng
vắng, đưa cho ông một cây thánh giá và nói rằng “ Đây chúa của ông đây, ông hãy thề trước mặt chúa là gìn giữ đất nước
Việt Nam, ông phải bảo vệ nó để chống lại cộng sản, nếu cần phải chống cả người
Pháp”. Cầu nguyện hồi lâu một mình trong phòng kín, ông trở ra nói với
cựu hoàng rằng ông nhận lời
Không đành tâm đứng nhìn đất nước rơi vào
tay cộng sản, TT Ngô Đình Diệm nhận đã chức vụ thủ tướng trong một tinh thế mà chỉ có những kẻ điếc không sợ súng
mới làm. Hãy đọc lại lời của
một nhân chứng lịch sử ông Bùi Kiến Thành về tình trạng của Thủ Tướng Ngô Đình
Diệm bấy giờ: “Làm
Thủ tướng mà không có cảnh sát không có quân đội chỉ vỏn vẹn có 27 sĩ quan đi
theo mà thôi”.
Thực tế quân đội
lúc đó vẫn nằm trong tay Pháp qua tay tướng
Nguyễn Văn Hinh. Cựu hoàng Bảo Đại đã không hề có binh quyền
hay chính quyền gì cả để giao cho vị
thủ tướng mới bổ nhiệm của mình. Có chăng cựu hoàng đã giao cho TT Ngô
Đình Diệm một Miền Nam đầy tham nhũng bài bạc đĩ điếm và thuốc phiện ma túy và
những tay anh chị khét tiếng như Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh, và giao cho ông sứ
mạng nặng nề và nguy hiểm nhất đó chống lại khối cộng sản khổng lồ sẳn sàng rót không giới hạn vũ khí và
tiền bạc cho CS Hà Nội để nuốt
chửng Miền Nam
Miền Nam lúc đó,
không có tổ chức quân sự cũng như kinh tế nào khả dĩ có thể đối đầu với đảng cộng
sản đã có trên 24 năm kinh nghiệm
luôn và luôn sử dụng những thủ đoạn chính trị vô cùng tàn bạo nhất. Trong khi đó thì chí sĩ Ngô Đình
Diệm chỉ có người em đang sống tại Việt Nam là ông Ngô Đình Nhu, đang cố gắng hết
sức để kiếm nguồn ủng hộ cho anh mình từ trong nước. Vì một thực tế không hy vọng như vậy nên chính quyền Hoa Kỳ đã không muốn
phiêu lưu uy tín của họ để ủng hộ Thượng Thư Ngô Đình Diệm, mặc dù chính phủ
Pháp lúc đó đang hết sức kiệt quệ là
một điều kiện tốt cho Hoa Kỳ đang mong muốn thay thế Pháp tại Đông Dương .
Hãy tưởng tượng một
người nắm chức vụ thủ tướng mà trong tay chỉ có 12 người cảnh sát thay
phiên nhau canh giữ dinh Gia Long và
mươì mấy sĩ quan lại phải đối đầu với nạn thập nhị sứ quân, các giáo
phái và nhất là phải đối đầu với khối cộng sản Nga Tàu. Những khuôn mặt thực sự có quyền lực của Miền Nam bấy giờ là Bảy Viễn, Ba Cụt,
Lại Văn Sang, Nguyễn văn Hinh và các giáo phái v.v mỗi người hùng cứ một phương
và thủ đắc các phương tiện kiếm chác tài chánh riêng cho mình, không ai muốn từ bỏ quyền lực đang có để phục vụ cho quốc gia dưới sự điều
hành của một chính phủ trung
ương. Quân sự, kinh tế, ngoại
giao, tài chánh, hối đoái, quan thuế đều thuộc quyền của Pháp và các tay sai
Pháp. Một thủ tướng không một đồng
xu dính túi với ngân khố trống rỗng nhưng phải đối mặt với một Miền Nam
mà hạ tầng cơ sở bị phá hủy vì chiến tranh một cách nặng nề. Toàn bộ ruộng
đồng bỏ hoang, thất học và thất nghiệp tràn lan, tham nhũng cờ bạc đĩ điếm, thuốc
phiện Bên cạnh đó là gánh nặng ngàn cân
về an ninh chính trị và xã hội của một triệu người di cư từ Bắc vào Nam tháng 8
năm 1954, và nguy hiểm nằm trên hết
các nguy hiểm là mạng lưới cộng sản nằm vùng rất mạnh dày đặc
khắp nước và đang được sự viện trợ dồi dào của Tàu và Liên Xô chờ đợi để nuốt gọn một Miền Nam hết sức yếu kém bấy giờ
Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho ông lúc bấy giờ là chỉ một nhân viên CIA Mỹ cố giúp TT Ngô
Đình Diệm trong việc chiêu dụ những người đang nằm trong các phe phái khác ngưng chống lại ông và về làm việc chung
với ông là Đại Tá Edward Lansdale
Tóm lại,
TT Ngô Đình Diệm ngoài 27 sĩ quan và
cảnh sát giúp bảo vệ dinh Gia Long, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã không có được bất cứ sự yểm trợ nào từ các đảng
phái chính trị của Miền Nam cũng như bất cứ một quốc gia nào khi ông về nước, còn tài chánh chỉ là con số không, trong
khi đó thì ông lại có quá nhiều kẻ
thù. Kẻ thù của ông là Pháp và tay sai, kẻ thù là Bình Xuyên Bảy Viễn, Nguyễn
Văn Hinh, kẻ thù của ông là cộng
sản Hà Nội với một nguồn viện trợ khổng lồ từ Liên
Xô, Đông Âu và đặc biệt là Trung Cộng từ năm 1930.
Câu hỏi được đặt
ra ngoài ông ra thì ai là người dám gánh vác trọng trách này? Chắc chắn là
không ai cả, chỉ có ôngchỉ vì
một lẽ duy nhất: ông quá
yêu nước!
Những thành tựu TT
Ngô Đình Diệm đã đem lại cho đất nước
Một số bài viết và dư luận cho rằng Mỹ đã hổ trợ và viện trợ
rất nhiều cho TT Ngô Đình Diệm ngay khi ông về nước, nhờ vậy ông mới làm nên
cơm nên cháo. Điều
này hoàn toàn không đúng. Căn cứ vào các sự kiện lịch sử xảy ra lúc bấy giờ và
căn cứ vào các tài liệu được giải mã cách đây hơn 15 năm thì quả thật số viện
trợ cho TT Ngô Đình Diệm khi ông về nước trong 11 tháng đầu tiên hầu như chỉ là
con số không. Nổi bật chỉ có sự tiếp xúc và vận động kín đáo của Đại Tá Edward
Lansdale với các phe nhóm chính trị như Cao Đài Hòa Hảo để thuyết phục họ ủng hộ
TT Ngô Đình Diệm v.v.
Xin dẫn chứng sự yểm trợ yếu ớt và đầy hoài nghi của Hoa Kỳ
cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm giai đoạn 1954-1955 như sau: cứ hai lần mỗi
tháng, Joe Lawton Collin, bạn thân tổng thống Eisenhower và là đặc sứ của ông tại Sài Gòn, đề nghị tổng thống Eisenhower phải
loại bỏ Diệm và thay thế bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ. Còn người Pháp thì
khỏi nói, họ xem TT Ngô Đình Diệm là kẻ thù. Hãy nghe tướng Pháp Paul Ely đại
diện tối cao của Pháp phá đám với người Mỹ như sau:” Ông ta chỉ là tên bù nhìn tệ hại nhất không được nhân dân ủng hộ. Cho
nên vì lợi ích của Việt Nam và lợi ích của thế giới, không nên cứu Diệm”. Chính phủ Hoa Kỳ có lúc đã tin rằng
chính phủ Ngô Đình Diêm sẽ không tồn tại quá sáu tháng và vì vậy họ chỉ viện trợ
rất cầm chừng với thái độ chờ xem, và thậm chí đã có những chỉ dấu loại bỏ ông. Collin đã ngày đêm thuyết phục tổng
thống Eisenhower và tổng thống Eisenhower đã sắp sửa nghe lời Collin thì bất thần,
trong tình huống tuyệt vọng đó, đầu tháng 5 năm 1955, tổng thống Ngô Đình Diệm
với lòng can đảm và sự sáng suốt, ông đã lật ngược thế cờ, triệt hạ những tên
trùm Bảy Viễn, Lại Văn Sang, Nguyễn Văn Hinh, thu phục được sự ủng hộ của Cao
Đài Hòa Hảo và các tướng như Trịnh Minh Thế. Với sự thành công tuyệt vời
này, Hoa Kỳ từ đó mới dám thở phào viện
trợ cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm, triệu hồi Lawton Collin về nước.
Sau 11 tháng cầm
quyền trong sóng gió Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ổn định tình hình chính trị tuyệt
vọng của Miền Nam nhờ vào uy tín và lòng can trường của ông. Sau 11 tháng theo
dõi khả năng và những thành tựu của ông, chính phủ Eisenhower không còn thấy
mình phiêu lưu khi hổ trợ cho Ngô Đình Diệm nữa, mới chính thức quyết định viện trợ cho ông
Có thể tóm tắt
công lao của tổng thống Ngô Đình Diệm trong việc tái thiết và ổn định Miền Nam
qua lời nhận xét của một vĩ nhân thế giới, Tổng Thống Eisenhower như sau: “He is a miracle man”.
Không thần kỳ sao được khi từ một quốc gia bị sáu vấn nạn: một
là là chiến tranh tàn phá từ 1945 đến 1954, hai là vấn nạn chia rẽ ly tán thập
nhị xứ quân, ba là vấn đề giáo dục cộng đồng quá thấp, bốn là tệ nạn xã hội đen
tràn lan đến độ lấn át cả
chính quyền, năm là thực dân Pháp và tay sai người Việt vẫn nắm quyền lực chính
về kinh tế và quân sự, sáu là, và nguy hiểm nhất là, phải đối đầu với khối cộng
sản thế giới, ông đã làm cho Miền Nam trở thành Hòn ngọc Viễn Đông!
Ai có thể phản bác lại lời của Tổng Thống Eisenhower rằng Tổng
Thống Ngô Đình Diệm không phải là một miracle man, một con người của huyền thoại?
Vài nét chính về
những thành tựu trong việc tái thiết xứ sở dưới sự cầm quyền của TT Ngô Đình Diệm:
1/Cuộc
di cư vĩ đại trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: Di cư năm 1954
Đây là một thành
tích vĩ đại của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà không ai có thể phủ nhận. Lịch sử
Việt Nam sẽ ghi nhớ công ơn của TT Ngô Đình Diệm
Đáp máy bay về nước
ngày 26 tháng 6 năm 1954, ngày 30 tháng 6 ông bay ra Hà Nội để xem xét dân
tình, ngày 20 tháng 7 năm 1954 Pháp và Bắc Việt ký hiệp ước chia đất nước Việt Nam, tổng thống
Ngô Đình Diệm tuyệt vọng bay ra Hà Nội ngày 3 tháng 8, đọc một bài diễn văn kêu
gọi dân chúng theo ông di cư vào Nam xây dựng đất nước tự do, và khoảng một triệu
người đã nghe ông theo ông vào Nam với sự trợ giúp bằng không vận và đường hàng
hải của Hoa Kỳ, Pháp, Thụy Sĩ v.v
Ngày 4 tháng 8 cuộc
di cư chính thức bắt đầu. Trong lúc chính quyền đang còn rất mong manh, bị sự
chống đối và hoành hành của Bình Xuyên Bảy
Viễn, Nguyễn Văn Hinh, Tổng Thống đã lập Phủ Tổng Ủy Di Cư đảm nhận việc tiếp thu
gần một triệu đồng bào Miền Bắc vào Nam. Lo ổn định đời sống cho khoảng một triệu
người ồ ạt di cư vào Nam trong một thời gian chỉ hơn một tháng và gìn giữ cho đời
sống vật chất an ninh xã hội tại Miền Nam không bị rối loạn phải nói là một
công việc quá phi thường vượt quá sức của một chính phủ còn quá non trẻ lại không
tiền trên nền tảng của một quốc gia bị chiến tranh tàn phá, chia rẽ, tệ nạn xã
hội và cộng sản hoành hành.
Hãy so sánh tất cả
các cuộc di cư, nhập cư và tị nạn của tất cả các quốc gia trên thế giới để thấy
rằng chưa có một vị nguyên thủy quốc gia nào có khả nặng làm việc như Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm. Ông gìn giữ xã hội Miền Nam không bị rối loạn vì số lượng di dân
quá bất thần và quá lớn, cung cấp những dịch vụ cần thiết như nhà ở thực phẩm y
tế thuốc men, giáo dục cho một triệu người và nhanh chóng ổn định đời sống họ
trong vòng vài tháng. Ai có thể phủ nhận được nỗ lực kinh khủng và khả năng tổ chức hiếm có, sử dụng và theo dõi
đồng tiền trợ giúp một cách hữu
hiệu, và đặc biệt là sự cần kiệm của chính phủ trong vấn đề định cư một số quá
lớn người như thế? Điều gì đã làm cho ông can đảm đứng ra lãnh nhận gánh nặng
to lớn này và đã hoàn thành tốt đẹp công tác định cư cho cả triệu đồng bào
trong tình thế bấp bênh của chính quyền và đất nước như thế? Không gì khác hơn đó chính là lòng yêu nước thương dân vô hạn
và sự can đảm thông minh phi thường của ông!
2/Giáo dục và y tế: Trong
khi ở Miền Bắc, giáo dục rất thiếu sót chương trình trung học chỉ có 10 năm, và
đội ngũ khoa học kỹ thuật của họ rất tồi tệ, thì ở Miền Nam Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đã có những điểm sáng chói như sau: Chương trình trung học ở Miền Nam đúng
theo tiêu chuẩn quốc tế là 12 năm. Chương trình đại học cũng có chất lượng của
các nước phương tây. Xin được dẫn chứng vài vì dụ
Chương trình mở mang giáo dục dưới thời TT
Ngô Đình Diệm đem lại số học sinh và số trường trung học tiểu học tăng vọt hàng
năm với tốc độ khoảng 60% 70%. Từ năm 1957 đến 1961, số học sinh và trường học
tăng lên gấp 4. Ông cũng cho thành lập rất nhiều các trường dạy nghề. Về giáo dục đại học, tổng số sinh viên tăng
trong vòng 3 năm là 60% vào năm 1957. Đại Học công lập Huế và đại học tư thục
Đà Lạt được mở ra dưới thời của TT Diệm theo sau là Viện Đại học Sài Gòn The University of Saigon, là một viện đại học công lập, được thành lập vào năm 1957 dưới chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm. Đây là viện đại học được xem là có uy tín nhất ở Miền Nam
Việt Nam, cung cấp các giáo sư đi thỉnh
giảng ở các viện đại học khác. Viện đại học này cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, và
tiến sĩ. Năm 1961 ông cho thành lập Đại Học Y Khoa Huế. Số sinh viên chỉ
trong vòng 3 năm sau khi ông về nước chấp chánh đã tăng lên gấp 4 lần đồng thời
chính phủ cũng có chương trình cấp học bổng cho sinh viên du học ở các nước
tiên tiến phục vụ mục tiêu Việt Nam hóa đội ngũ giáo sư đại học với tiêu chuẩn
quốc tế. Trường Đại Học Y Khoa là một dẫn chứng cụ thể rằng Tổng Thống coi trọng
quốc thể, vào năm 1961 trường này đã hoàn toàn không còn giảng viên người Pháp.
Xin được lập lại, chỉ sau 5 năm cầm quyền, ông đã xây dựng
được một trường hệ thống Đại Học mà các nước trong vùng phải kính nể. Ông đã chứng
minh cho thế giới thấy người Việt Nam hoàn toàn không thua bất cứ một dân tộc
nào trên thế giới. Nhiều bệnh viện nổi
tiếng chẳng hạn bệnh viện Bình Dân cũng được thành lập để phục vụ nhu cầu chữa
bệnh cho dân chúng và giảng dạy y khoa.
3/Kinh Tế: Nhờ kiến thức sâu rộng về chính trị, bản chất
thông minh, trọng của công, cần kiệm và rất cẩn trọng trong việc sử dụng tiền
viện trợ, ông đã lèo lái đất nước đưa đến bến bờ của sự thanh bình thịnh vượng
và nhân quyền. Qua chương trình CIP ( Comercial Import Program), mỗi năm ông nhận
viện trợ kinh tế của Hoa Kỳ là 322 triệu năm 1955, và nhờ việc sử dụng hiệu quả
và chính xác, viện trợ Mỹ đã tăng lên 450 triệu Mỹ Kim sau đó. Với sự trợ giúp
này, ông lại nhanh chóng biến Miền Nam thành một hòn ngọc viễn đông trong một
thời gian kỷ lục là ba năm, đến nỗi tổng thống Eishenhower đã đón ông với 21
phát súng đại bác. Xin được cụ thể hóa vài thành tựu nổi bật về kinh tế của ông
như sau:
1.Toàn bộ hệ thống
giao thông thủy bộ và đường xe lửa xuyên Việt được tái thiết lại, phục vụ nhu cầu
thương mại và sản xuất và nông nghiệp. Chương trình cải cách ruộng đất và khuyến
nông đã biến những thửa ruộng và đồn điền bỏ hoang thành những cánh đồng phì
nhiêu và đồn điền trù phú, làm đem lại số gạo và cao su xuất cảng tăng vọt. Đơn
cử là chỉ mới năm 1957 mà số gạo sản xuất là 3 triệu tấn, chăn nuôi heo gà vịt
phát triễn mạnh và đã xuất cảng được một số lượng đáng kể hàng năm
2.Điều quan trọng đáng nói là dù Miền
Nam căn bản là một quốc gia nông nghiệp, ông vẫn quyết tâm biến Miền Nam trở
thành một quốc gia kỹ nghệ. Giai đoạn này chúng ta thấy Miền Nam đã có những
nhà máy ván ép, nhà máy giấy, nhà máy dệt, nhà máy xà bông, viện bào chế dược phẩm v.v. TT thống Ngô Đình
Diệm là con người thấy xa trông rộng và rất chu đáo trong tất cả mọi kế hoạch phát triễn quốc gia. Chương trình mở
mang và nâng cao chất lượng giáo dục song song với phát triễn kinh tế là một dự
án đồng bộ và hoàn chỉnh nhằm chuẩn bị tài nguyên con người để thực hiện việc kỹ
nghệ hóa Miền Nam .
Các trường đại học và các trường dạy nghề đào tạo công nhân và chuyên viên kỹ
thuật ở mọi mọi lãnh vực từ hành chánh đến khoa học đến kỹ thuật để có thể đáp ứng
nhu cầu kỹ nghệ hóa đất nước. Trung tâm nguyên tử Đà Lạt và đập Đa Nhim cộng với
2 kế hoạch ngũ niên 1957 đến 1961, 1962-1967 và chương trình đẩy mạnh mở mang
giáo dục là một bằng chứng về một kế hoạch phát triễn rất hợp lý và đồng bộ của
tổng thống để có đủ tài nguyên vật chất và tài nguyên con người cho một quốc
gia kỹ nghệ. Nếu tổng thống còn sống, thì chắn chắn Miền Nam còn tiến xa hơn
Nam Hàn gấp bội, một Nhật Bản thứ hai cũng không phải là điều nói quá, vì ông
và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu là người đã sống ở Nhật hiểu biết về
Nhật. Tuy không tin tưởng và cũng không hợp tác với chính phủ Nhật, nhưng ông rất
ngưỡng mộ thể chế chính trị, sự phát triễn kinh tế khoa học của Nhật. Khuôn mẫu
chính trị và sự tiến bộ của Nhật Bản là điều TT Ngô Đình Diệm muốn Việt Nam đạt
được
4/Quân sự và nội chính: Ông hết sức
quan tâm đến vấn đề nội chính và quốc phòng.
Để đối đầu với cộng sản, ông phân chia Miền Nam thành 4 vùng chiến thuật, không ngừng canh tân quân
đội và Việt Nam hóa quân đội và đào tạo các chuyên viên hành chánh cao cấp của
quốc gia. Ông hết sức chú tâm đào tạo một thế hệ sĩ quan trẻ có tiêu chuẩn
ngang với quốc tế để thay thế hàng ngũ sĩ quan được Pháp đào tạo. Sự cải tổ sâu
rộng và đầu tư hai trường quân sự lớn hàng đầu Đông Nam Á và Học Viện Quốc Gia
Hành Chánh là những ví dụ cụ thể.
- Học Viện Quốc
Gia Hành Chánh:
Xuất thân là
khôi nguyên trường Hậu Bổ, tức trường dạy về chính trị luật pháp và hành chánh,
Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi chấp chánh,
ông đã hết sức coi trọng công việc nội chính quốc gia. Ông bắt tay cải tổ trường
QGHC mà trước đây đặt ở Đà Lạt và trực
thuộc bộ Giáo Dục. 1954, ông cho dời trường về Sài Gòn và đặt học viện
này dưới sự đào tạo và giám sát của Phủ Thủ Tướng sau đó thuộc phủ Tổng Thống,
tức trực thuộc sư chăm sóc của ông
Chương trình học của
học viện này do Michigan State
University (MSU) trợ giúp trong việc soạn giáo trình. Kho sách của trường được
coi là một trong những thư viện lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa. Sinh
Viên cũng được huấn luyện quân sự ở các trường quân sự chuyên nghiệp như trung
tâm huấn luyện Quang Trung, học chiến thuật ở rừng cao su Phú Thọ hay trung tâm
Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám v.v Môn học
chính của QGHC gồm những kiến thức
như soạn thảo công văn, kế toán thương mại, định chế chính trị, luật hành chánh
và cả quân sự. Tùy theo bằng cấp tốt
nghiệp là tham sư, đốc sự hay giám sự, các chuyên viên hành chánh cao cấp này sẽ
về làm việc tại các bộ như Bộ Nội vụ
hoặc cơ quan hành chánh địa phương. Giám sự được bổ nhiệm ở các phủ bộ chuyên
môn khác như Bộ Tài chánh, Tổng Nha Kế Hoạch. Sau khi ra trường thì chuyên viên được bổ
dụng từ Phủ Thủ tướng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo hay
Tổng Nha Ngân Sách và các Bộ
cấp quốc gia cho đến các ty, các sở ở địa phương như phó tỉnh trưởng hoặc phó
quận trưởng.
-Trường Võ Bị
QGVN:
Tuy trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1950
nhưng đên năm 1959 dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới thực sự có những cải
tổ sâu rộng và huấn luyện theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1961, TT Ngô Đình Diệm
cho xây dựng lại cơ sở đào tạo mới tại đồi 1515, ông đưa ra chương trình đào tạo
4 năm thay vì 3 năm như trước đây, nhưng vì những rối ren chính trị và ông bị
thảm sát, mãi đến năm 1966 chính phủ tiếp theo mới thực hiện được chương trình
này. Trường VBQGVN đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho Không Quân, Hải Quân và Lục
Quân.
-Liên Trường Võ
Khoa Thủ Đức năm 1955 đến 1961 đã cung cấp 2/3 số sĩ quan cho QLVNCH và khoảng
trên 90% các binh chủng như Thiết Giáp, Công Binh Pháo Binh Quân Nhu Quân Cụ
truyền tin. Giữa tháng 10 năm 1961 ông lại tiếp tục cải tổ tách các trường đào
tạo chuyên môn thành các trường riêng chỉ còn giữ lại Bộ Binh và Thiết Giáp là
chính
-Phân chia các
vùng chiến thuật: 42 tỉnh Miền Nam được chia làm 4 vùng chiến thuật
với trách nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật này Quân Đoàn. Quân Đoàn 1 bản
doanh tại Đà Nẵng, QĐ II tại Pleiku Quân Đoàn III tại Biên Hòa QĐ IV tại Cẩn Thơ
Để thấy được thành
công trong lãnh vực quân sự, chống trả lại các cuộc tấn công quân sự của khối cộng
sản trong giai đoạn của tổng thống Ngô Đình Diệm, cần đánh giá sức mạnh quân sự
của đối phương. Giai đoạn này đặc biệt là bắt đầu vào khoảng năm 1961, 1962 cộng
sản gia tăng chiến tranh quân sự và gia tăng các hoạt động khủng bố, để cố chiếm
lấy nữa nước còn lại nhằm phục vụ cho ý thức hệ cộng sản và gấp rút thỏa mãn ý
đồ Hán Hóa Việt Nam của Trung Cộng. Dẫn chứng: trong giai đoạn chiến tranh từ
năm 1954 đến 1975, luôn luôn có mặt của cán bộ Trung Cộng và ngay cả của tất cả
các nước công sản khác như Tiệp Khắc, Cuba v.v tại Hà Nội. Có lúc con số lính
Trung Cộng lên đến 300 ngàn. Hồ Chí Minh và những đảng viên trung ương đã đến
tiếp kiến Chu Ân Lại ở Nam Ninh tháng 7 năm 1957 để cùng hợp tác soạn thảo kế
hoạch cài cán bộ cộng sản nhằm phục vụ mưu đồ thôn tính Miền Nam . Kế hoạch này gồm 2 chiến lược
chính đó là làm suy yếu chính quyền VNCH bằng các âm mưu gây bất ổn chính trị
xã hội, hai là tấn công quân sự và tấn công khủng bố. Tất cả các kế hoạch này lấy
tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và bịa đặt vấn đề đàn áp Phật Giáo để lừa phỉnh
lòng yêu nước và đánh lận tín ngưỡng của người dân VN. Sự hiện diện trong chiến
tranh của bọn cộng sản Bắc Việt chỉ là bề ngoài, bên trong chính là Trung Cộng
vẽ kế hoạch từng giai đoạn và cung cấp vũ
khí tiền bạc. Như vậy chính phủ Ngô Đình Diệm đang đối đầu với cả một khối
cộng sản lúc đó đang vô cùng mạnh, và
nguy hiểm hơn nữa là khi chính quyền Kennedy đồng ý trung lập Lào, tạo đường
giao thông cho Hà Nội liên tiếp đưa quân
vào Miền Nam và làm gia tăng các trận tấn công quân sự của Hà Nội vào Miền Nam.
Tuy phải đương đầu với muôn vàn khó khăn như trên, nhưng Tổng
Thống Ngô Đình Diệm đã giữ cho hậu phương Miền Nam luôn thanh bình ấm no, người
dân đi lại an toàn, không có nạn đắp mô xe đò đánh du kích v.v
5/Ngoại giao: với sự thành cộng vượt bực
về chính trị kinh tế và khống chế được cộng sản, ổn định Miền Nam một cách
nhanh chóng, ông đã được rất nhiều các nguyên thủ quốc gia cũng như các nhân vật
chính trị nỗi tiếng trên thế giới ca ngợi, chẳng hạn tổng thống Lyndon Johson
vào năm 1955 và 1961 đã ca ngợi tổng thống Ngô Đình Diệm là Churchill của Châu
Á, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch nói rằng 100 năm nữa Việt Nam cũng chưa tìm được
người tài đức như TT Ngô Đình Diệm. Tổng Thống Eisenhower gọi ông là Miracle
man, ông được giải thưởng Magsaysay và đã tặng số tiền này cho Đức Đạt Lai Lạt
Ma. Trước uy tín cá nhân và những thành tựu vượt bực về kinh tế quân sự, Miền
Nam đã được trên 80 quốc gia công nhận, rất nhiều nước mời tổng thống Ngô Đình
Diệm công du, và vinh dự nhất là chuyến viếng thăm Hoa Kỳ và New York của ông
đã được đích thân TT Eisenhower ra tận máy bay đón và chào mừng bằng 21 phát
súng đại bác
Cho đến bây giờ,
thật hiếm hoi có một vị nguyên thủ quốc gia được Hoa Kỳ đón tiếp với thủ tục
cao quý nhất như vậy. Đó là niềm vinh dự cho cá nhân TT Ngô Đình Diệm và cũng
là niềm vinh dự cho chính thể VNCH và cho chính chúng ta hôm nay
6/An ninh tình
báo:
Theo cuốn hồi ký của Đại Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng,
số cán bộ cộng sản gài tại Miền Nam là
60 ngàn tên, sau 3 năm dưới sự cầm quyền của chính phủ TT Ngô Đình Diệm con số
này chỉ còn lại 5 ngàn. Tức là trong ba năm chính phủ đã tận diệt trên 90% số
cán bộ nằm trong màng lưới gián điệp. Đây là sự tự thú mà chính cộng sản sau
1975 đã đưa ra, như vậy thành công vô cùng to lớn này là do ai? công lao này là
do ai? Nếu không phải là của TT Ngô Đình Diệm và các ông như Phan Quang Đông, Ngô
Đình Cẩn, Dương Văn Hiếu và toàn bộ hệ thống tình báo công an mật vụ của Đệ Nhất
Cộng Hòa. Hế thống tình báo này đã bắt và loại trừ được 55 ngàn tên cán bộ cộng
sản qua chiến dịch tình báo xâm nhập chiêu hồi và tố cộng, bẽ gãy âm mưu thâm
nhập vào hệ thống quân sự dân sự và chính quyền VNCH. Hệ thống tình báo thời kỳ
tổng thống Ngô Đình Diệm là một hệ thống vô cùng hữu hiệu và có công lớn với đất
nước, đã phá vỡ một hệ thống tình báo cộng sản tinh vi và dày đặc, thế nhưng
người ta vẫn lập đi lập lại như một thành ngữ: hệ thống mật vụ Nhu Diệm đàn áp
Phật Giáo trong lúc kết luận điều tra của Liên Hiệp Quốc là hoàn toàn không tìm
thấy bằng chứng đàn áp Phật Giáo của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Liệu chúng ta có thể chấp nhận sự thật bị đánh tráo này
không, hoặc để cho những kẻ cuồng tín tiếp tục vu khống?
Để đánh giá thành
công này, chúng ta phải xem xét đến cách cài người vô cùng tinh vi của khối cộng
sản có tên gọi là Lucy. Xin được điểm qua kế hoạch Lucy của Xô Viết để chúng ta
thấy rằng loại trừ được hệ thống cộng sản nằm vùng không phải là một công việc
dễ dàng mà là một công việc muôn vàn khó khăn mà hệ thống công an mật vụ của
chính phủ Ngô Đình Diêm và ông Ngô Đình Cẩn đã đạt đượ
Kế hoạch Lucy là gì?
Đó là kế hoạch mà sau
cách mạng Nga 1917, Nga đã chỉ thị cho các cán bộ cộng sản trẻ của mình ở lại
trong hệ thống quân đội và chính quyền Đức dù lúc đó chính quyền Đức bị bại trận
và số lính tình nguyện giải ngũ rất nhiều, chỉ còn lại khoảng 100 ngàn. Các cán
bộ trẻ này vẫn sống một đời bình thường
hoàn toàn không hoạt động tình báo gì cả. Nhóm này hiện diện trong các lãnh vực
quân sự, dân sự và trong các ngành quan trọng của chính quyền. Hai mươi năm
sau, khi thế chiến II bùng nổ 1939, các cán bộ cộng sản này trở thành những sĩ
quan cao cấp trong hàng ngũ quân đội Đức, tức là trở thành những tên cán bộ điệp
viên cộng sản cho Nga ngay trong chính quyền nổi tiếng sắt máu tàn bạo và tinh
vi của Hitler. Những tên sĩ quan cao cấp này của Đức đã cung cấp toàn bộ tin tức
tình báo kế hoạch hành quân cho Nga và
đã góp phần tạo nên chiến thắng cho Liên Xô trong trận đệ nhị thế chiến. Chính
phủ Nhật Hoàng cũng bị bại trận trước Nga cũng trong môt tình huống tương tự
khi một điệp viên cộng sản Đức trongtrở thành một chuyên viên tín cẩn của chính
quyền quốc xã Hitler làm việc cho tòa Đại sứ Đức tại Tokyo.
Điểm qua kế hoạch
cài người Lucy để chúng ta thấy rằng việc loại trừ khoảng 55 ngàn điệp viên cộng
sản tại Miền Nam mà Văn Tiến Dũng đã thừa nhận là một kỳ công của hệ thống “ Mật
vụ Nhu Diệm” của ông Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đoàn Đặc Nhiệm Miền
Trung. Trở lại vấn đề cán bộ tình báo nằm vùng tại Miền Nam Việt Nam: Trong lúc
chính quyền của TT Ngô Đình Diệm là một chính quyền mới khai sinh sau ngày chia
đôi đất nước, chỉ thật sự có quyền lực và được Hoa Kỳ viện trợ đáng kể sau khi
dẹp loạn Bình Xuyên Bảy Viễn và Nguyễn
Văn Hinh, tức là 11 tháng sau khi về nước chấp chính, thì chính quyền CSVN lúc
đó đã hoạt động được 24 năm, có ngân sách điều hành dồi dào và rất ổn định từ
khối cộng sản quốc tế đặc biệt là Trung Cộng, nên đã tạo được một màng lưới
gián điệp nguy hiểm nằm sâu và nằm sẳn trong tất cả các cơ quan dân sự, chính
quyền, quân đội và tôn giáo của Miền Nam. Ngoài ra còn có thêm số cán bộ cộng sản
từ Bắc được gởi vào Miền Nam
qua làn sóng di cư 1954. Điều này giải thích lý do tại sao điệp viên cộng sản
đã trở thành các đảng viên cao cấp trong các đảng phái quốc gia, trở thành các
sĩ quan cao cấp, trở thành tướng lãnh, trở thành các nhà tu, nhà báo, các chính
trị gia đối lập và thậm chí len lõi vào cả Dinh Độc Lập. Đó cũng giải thích lý
do tại sao có quá nhiều tên cán bộ cộng sản giả dạng quốc gia mà chỉ sau 1975
dân chúng mới biết, chẳng hạn như Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ ni
sư Huỳnh Liên, Thích Trí Quang v.v
Cuối 1956, khi thấy
nền kinh tế và chính trị Miền Nam càng ngày càng vững mạnh, cộng sản Hà Nội và
Bắc Kinh cùng với Liên Xô đổi chiến lược tấn công, đó là bên cạnh các cuộc tấn
công quân sự, tổ chức chiến tranh khủng bố ám sát bắt cóc trên toàn Miền Nam
gây hoang mang lo sợ trong dân chúng, đồng thời năm 1960, chúng đẻ ra tổ chức gọi
là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được lãnh đạo bởi những tên cộng sàn gộc pha trộn
các trí thức thiên tả của Miền Nam, chẳng hạn Nguyễn Hữu Thọ, Võ Chí Công, Nguyễn
Thị Định, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, rêu rao rằng đây là
tổ chức do dân chúng Miền Nam nổi dậy chống chính quyền. Thủ đoạn chính trị này
đã lừa bịp một số trí thức Miền Nam như Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Đoàn
văn Toại v.v hăng say hoạt động cho chúng, đồng thời đã lừa bịp được dư luận thế
giới rằng MTGPMN không phải là tổ chức cộng sản mà chỉ là do dân Miền Nam nổi dậy
Nói chung, chính phủ
VNCH không phải chỉ đối đầu với cộng sản Miền Bắc, mà chính là đối đầu với Bắc
Kinh và Nga, đòi hỏi chính phủ phải thấy xa trông rộng và bắt buộc phải giới hạn
một số quyền tự do bình thường để khống chế số Việt Cộng nằm vùng ngụy trang
trong các tổ chức báo chí, tôn giáo, học sinh sinh viên, tôn giáo v.v.Trong đó
đòi hỏi chính quyền phải chọn người tài giỏi tâm đầu ý hợp trong quan điểm và
đường lối chống cộng. Số kết luận rằng chính phủ TT Ngô Đình Diệm độc tài, thì
họ là những người đã nhắm mắt bịt tai để không thấy rằng, dưới thời chính phủ của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm người dân có được các quyền căn bản về tự do dân chủ,
đặc biệt là quyền tự do biểu tình tự thiêu chống đối thóa mạ chính phủ, tuy vậy
chính phủ vẫn thừa khả năng vô hiệu hóa mạng lưới tình báo cộng sản. Đó là một
điểm son khi điểm lại lịch sử
Hãy nghe cộng sản
ghi nhận về hệ thống an ninh tình báo mật vụ Nhu Diệm như sau:
“Từ 1957 đến 1958, tình thế dần
dần đổi thay. Kẻ thù liên tục phá hoại sự thi hành hiệp định Geneva, củng
cố và tăng cường một cách tích cực ngành an ninh quân sự và bộ máy hành chánh,
từ trung ương xuống đến tận thôn xóm, ám sất tàn bạo cán bộ và thật sự đã phá hủy
đảng ta một cách hữu hiệu…”
Chúng ta phải công
bằng rằng tất cả những thành công về giáo dục, y tế, kinh tế, quân sự, ngoại
giao, nội chính, an ninh tình báo của TT Ngô Đình Diệm trong hoàn cảnh đất nước
phải đương đầu với cộng sản Việt Nam, chống Nga, chống Bắc Kinh, là vượt quá sự
mong đợi của người dân Việt Nam, vượt quá sự tiên liệu của Hoa Kỳ và các quốc
gia khác. Uy tín của Miền Nam và của cá nhân của Tổng Thống lên cao đến mức TT
Eisenhower, không những là vĩ nhân của Hoa Kỳ mà còn là vĩ nhân của thế giới,
đã thân chinh đón ông tận cửa máy bay với thảm đỏ trải dài từ chân cầu thang và
21 phát súng đại bác chào mừng, là một chứng minh rõ ràng nhất mà không ai có
thể phản bác về uy tín và thành công quá lớn của Tổng Thống
Tóm lại, những người
cho rằng TT Ngô Đình Diệm độc tài đàn áp Phật Giáo gia đình trị, hầu như họ đã
tránh né việc mà họ phải làm để thuyết phục dư luận rằng họ đúng, đó là họ phải
so sánh tình trạng đất nước trước khi ông về, với một đất nước sau đó với 9 năm
đất nước dưới quyền lãnh đạo của ông, rồi sự suy yếu bệ rạc xảy ra ngay sau khi
đất nước không còn bóng dáng ông nữa.
Những kẻ đánh giá sự nghiệp của một vị lãnh đạo quốc gia mà
chỉ đưa ra tình hình bất ổn chính trị của đất nước do Phong Trào Phật Giáo
Tranh Đấu gây ra vài tháng trước khi ông mất là một việc làm gian trá đánh lận
con đen, tự làm giảm giá trị của mình và không ai có thể chấp nhận được. Vì vậy
sự kết luận rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người không có tài tham quyền cố vị
là những lời nói vô giá trị mà không một lịch sử nào nhìn nhận
IV Những tội mà một
số người đã luận cho ông:
Qua những sự kiện
lịch sử nói trên, cho thấy TT Ngô Đình Diệm đã dâng hiến trọn cuộc đời ông cho
đất nước. Ông đã xây dựng nên niềm tự hào hãnh diện của một quốc gia VNCH hùng
mạnh từ trên điêu tàn chia rẽ và hiểm họa cộng sản. Hành trang mà ông có chỉ là
sự can đảm thông minh, khí tiết thanh liêm cương trực và một lòng yêu nước vô
biên. Nhưng cuối cùng ông đã được gì?
Ông đã được tặng
những tội trạng như sau:
1.
Tội
lớn nhất: Đàn áp Phật Giáo:
Bàn về vấn đề này, nên bàn đến ba điểm then
chốt: Vụ cấm treo cờ Phật Giáo, vụ nổ Đài Phát Thanh Huế, và vụ tự thiêu của
ông Thích Quảng Đức
Ba điểm then chốt
này đã dẫn đến lật đổ chính phủ, sát hại Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, Ngô
Đình Cẩn, kéo theo các rối ren chính trị vô cùng tai hại cho đất nước, đến nổi
Tổng Thống Johnson đã phải nói rằng chưa bao giờ có một tình huống chính trị kỳ
lạ đến như vậy. Tình hình an ninh càng lúc càng thê thảm, các cơ quan tình báo
bị xâm nhập nặng nề, cộng quân mở những đợt tấn công quân sự mỗi lúc mỗi quy mô
hơn, đất nước đứng bên bờ vực thẳm chờ Bắc Việt ra tay thanh toán Miền Nam, khiến
cho TT Johson không còn hành động nào khác hơn là phải tự ý gấp rút đổ quân vào
Miền Nam với hy vọng đẩy lui được cộng quân một cách nhanh chóng. Các chính quyền
như Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu,
Phan Huy Quát và đặc biệt là bộ trưởng nội vụ Hà Thúc Kỳ đã hoàn toàn bất lực để
cho cộng sản xâm nhập tràn đìa, độc hại là có những tên cán bộ cộng sản đã trở
thành các quan chức và nhân viên của các cơ sở tình báo VNCH qua áp lực của những
cuộc biểu được tổ chức bởi một số tên cộng sản đội lốt tu hành làm loạn như
Thích Trí Quang. Thích Trí Quang liên tục áp lực thay người lãnh đạo trong các
tỉnh thành và các cơ quan tình báo, uy hiếp các chính quyền bằng cách tổ chức
biểu tình tự thiêu, lên đường xuống đường đưa đến hết đảo chánh rồi thanh lý rồi
chỉnh lý cả chục lần trong vòng hai năm sau ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết
chết. Một ví dụ đơn giản nhất là sau khi Dương Văn Minh nắm quyền một tháng đã
có 2 vụ tự thiêu, mặc dù Dương Văn Minh là Phật tử và ông ta đã thỏa mãn tất cả
các yêu cầu của cái mạo danh là phong
trào Phật Giáo tranh đấu, . Ông ta đã thả tất cả các tội phạm mà Mật Vụ Nhu
Diệm bắt bớ “vì đấu tranh cho Phật Giáo” ra, nhưng thực chất chúng là điệp viên cộng sản nằm vùng giả dạng tăng
ni giả dạng huynh trưởng gia đình Phật Tử, “ni sư” Huỳnh Liên là một ví dụ điển
hình rất nổi tiếng. Bốn tháng sau khi TT Ngô Đình Diệm bị bọn phản tướng giết hại,
số tự thiêu lớn gấp bốn lần con số tự thiêu dưới thời TT Ngô Đình Diệm và tự
thiêu cứ vậy triền miên trên hai năm ròng. Chẳng lẽ các ông như Dương Văn Minh,
Nguyễn Khánh, Nguyễn Ngọc Thơ, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát v.v
cũng đàn áp Phật Giáo như chính quyền Nhu Diệm?
Tình hình chính trị
xã hội Miền Nam đã bị nhóm cộng sản mạo danh “Phật Giáo tranh đấu” làm cho trở
thành hốn quân hỗn quan bát nháo tận cùng. Và cuối cùng kết thúc một cách nhục
nhã bằng việc Hoa Kỳ toàn quyền làm chủ Miền Nam, tự ý đổ hai sư đoàn Thủy Quân
Lục Chiến vào biển Nam Ô lúc 4 giờ sáng ngày 8 tháng 3 năm 1965, trong lúc Thủ
Tướng Phan Huy Quát còn ngủ chẳng hay biết
gì! Thì thưa quý vị, còn mong gì đến Hiệp
Ước Quân Sự Song Phương như các nước đồng minh khác của Hoa Kỳ như Đài Loan,
Nam Hàn Nhật Bản?. Phan Huy Quát, môt trong 18 chính trị gia Caravell cuối cùng
đã chứng tỏ tài năng chính trị của mình bằng cách tự ý từ chức, nhượng quyền điều
hành quốc gia lại cho quân đội, lãnh đạo bởi tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn
Thiệu
Điểm thứ nhất
: Vụ án cấm treo cờ Phật Giáo. Nhận thấy cờ của Vatican
và cờ của Phật Giáo được treo rực rỡ khắp
nơi công cộng, trong lúc cờ quốc gia bị bỏ mặc, có khi bạc màu rách nát, Tổng
Thống liền ban sắc lệnh yêu cầu cờ tôn giáo chỉ treo trong khu vực tôn giáo mà
thôi. Lịnh này tổng thống yêu cầu thực hiện trước ngày Phật Đản rất lâu, nhưng
không hiểu vì lý do gì lại ra đời đúng vào ngày Phật Đản? Nghi vấn lịch sử này
đến hôm nay vẫn chưa có lời giải đáp. Chỉ chờ có thế, ngay lập tức, tại Huế,
Thích Trí Quang họp báo kích động trước đám đông cả hai chục ngàn người cho rằng
chính phủ TT Ngô Đình Diệm là công giáo nên kỳ thị Phật Giáo, không cho Phật
Giáo treo cờ, từ đó nổ ra các vụ tuyên truyền kích động bài bác giữa Phật Giáo
và Công Giáo và nhất là tấn công trực tiếp vào TT Ngô Đình Diệm đàn áp Phật
Giáo
Điểm thứ hai:
Vụ nổ ở Đài Phát Thanh Huế ngày 8 tháng 5 năm 1963, khi một đám đông có cả trẻ
em đến tụ tập biểu tình, trong đó có cảnh sát đến quan sát và giữ an ninh thì bổng
có việc ném chất nổ gây thiệt mạng cho 8 trẻ em. Cho đến mãi đến thời điểm
1975, các nhân viên điều tra của cả hai nền cộng hòa vẫn chưa tìm được thủ phạm
của vụ nổ này, nhưng vào ngày 8 tháng 5 1963 đó, “ công an” Thích Trí Quang đã
nhanh nhẩu họp báo với nhóm báo chí phản chiến ngoại quốc, kết luận ngay chính
quyền TT Ngô Đình Diệm đặt chất nổ để bách hại Phật Giáo!. Trong khi đó, chất nổ
là một hợp chất rất lạ, không hề được sử dụng bởi Quân Đội và Cảnh Sát VNCH. Phải
chăng âm mưu gắp lửa bỏ tay người là do chính Thích Trí Quang và cộng sản phối
hợp dàn dựng?
Điểm thứ ba:
Về việc tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức, điểm then chốt cuối cùng đưa đến
vụ đảo chánh và giết hại tổng thống Ngô Đình Diệm. Chúng ta đã thấy quá rõ trên
các video, đây là một việc làm có tính toán chủ mưu và sắp đặt kỹ lưỡng và đưa
ra ngã tư Phan Đình Phùng nơi công cộng đông đúc trình diễn và có báo chí ngoại
quốc đứng chực sẳn chẳng hạn như David Halberstam, và Neil Sheenhan, hai tay
báo phản chiến số một của tờ New York Time và AP, hai kẻ đã có cộng rất lớn
trong việc dọn đường cho cộng sản chiếm Miền Nam, đã đứng chực sẳn ỏ đó khá lâu
để chụp hình quay phim. Hòa thượng Thích Quảng Đức đã nghĩ rằng TT Ngô Đình Diệm
đàn áp PG và ông ta chấp nhận tham gia vào kế hoạch này, nhưng chúng tôi xin hỏi
quý vị, ai được hưởng lợi qua cái chết của ông Thích Quảng Đức? Phật tử Miền
Nam? toàn thể dân Miền Nam, đất nước Việt Nam hay cộng sản mà nay cộng sản đã
cho xây dựng một công viên tượng đài vĩ đại để ghi nhớ công ơn của ông ta? Câu
trả lời đã quá rõ ràng cho bất cứ những ai có lương tâm công bằng
Trên hai ngàn ngôi
chùa đã được xây thêm dưới thời TT Ngô Đình Diệm. Chùa Xá Lơi và Từ Đàm được
xây dựng và trùng tu bởi ngân sách chính phủ, chùa Vĩnh Nghiêm được chính phủ cấp
đất miễn phí và đang có kế hoạch tài trợ để xây dựng. Các chùa không phải “đăng
ký” là thành viên của “ Mặt Trận Tổ Quốc” chưa có ai bị cấm hành đạo, hành lễ,
nhưng những người lãnh đạo của phong trào làm loạn chính trị này vẫn tìm đủ mọi
cách kích động rằng chính quyền đàn áp Phật Giáo nên phải tự thiêu. Tự thiêu đã
trở thành phong trào được chỉ đạo đến nỗi hầu như tất cả mọi nơi đã tổ chức bốc
thăm để buộc tự thiêu. Khi phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến điều tra tội đàn áp Phật
Giáo của chính phủ VNCH yêu cầu ngưng tự thiêu để phái đoàn mở cuộc điều tra
thì tự thiêu càng được mùa nở rộ hơn nữa như là một bằng cớ của sự đàn áp. Màn ăn vạ để buộc tội cho người ngay này
không thể che dấu mãi!
Miền Nam đã rơi
vào khủng hoảng chínhh trị triền miên kéo cộng thêm phong trào phản chiến chống
chính quyền VNCH tại Hoa Kỳ lên cao, điển hình là các khuôn mặt Jane Fonda và
Tom Hayden, cuối cùng thì Hoa Kỳ bỏ cuộc, chấm dứt viện trợ cho Miền Nam.
Nguyên nhân vì đâu nếu
không phải vì người lãnh đạo giỏi là tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị kết tội là
đàn áp Phật Giáo và bị giết sau những vụ biểu tình tự thiêu, trong lúc cuộc điều
tra độc lập của Liên Hiệp Quốc cho thấy không tìm thấy bằng chứng đàn áp Phật
Giáo!
Kẻ hưởng lợi từ việc
tự thiêu của HT Thích Quảng Đức không ai khác hơn là cộng sản Hà Nội chứ không
phải đồng bào Phật Tử Miền Nam.
Dẫn chứng, ngày
18/09/2010, cái gọi là công viên tượng
đài HT Thích Quảng Đức tại số 70-72 đường Lê Văn Duyệt do cộng sản xây dựng
đã được khánh thành rầm rộ như sau: công viên rộng gần 2.000m2 với hồ
sen, đường đi dạo, cây xanh, thảm cỏ. Trong công viên là tượng đài Thích Quảng
Đức cao 4m, đường kính 4,5m. Trước mặt bức tượng đồ sộ này là sân hành lễ rộng
120m2, sau lưng tượng là tấm phù điêu dài 16m, cao 5m, mô tả cuộc đấu tranh bảo
vệ Phật pháp và dân tộc trong đó khắc lại hình ảnh những người lính và CSVNCH
tay móc súng lục, tay dùng dùi cui đánh đập đàn bà đánh đập sư sãi, hai đầu của
phù điêu đúc đồng này là cờ Phật Giáo và cờ Máu Cộng Sản bay phất phới trong
gió.
Phải nói rằng cộng
sản đã khai thác và thành công hoàn hảo vụ cấm treo cờ tôn giáo nơi công cộng,
vụ nổ Đài Phát Thanh Huế và vụ tự thiêu của ông Thích Quảng Đức
Với sự thành công
vang dội của vụ tự thiêu này làm cho khắp thế giới trong đó có cả chính quyền
Kennedy đã thừa gió bẻ măng lên án chính quyền VNCH đàn áp tôn giáo, thì ngay
sau đó Việt Cộng và các nhà sư khác đã thừa thắng xông tới tổ chức hàng loạt
các vụ tự thiêu lên đường xuống đường. Các chính quyền sau TT Ngô Đình Diệm vì
quá sợ hãi phong trào biểu tình tự thiêu gây rối loạn an ninh chính trị nên đã
thỏa mãn mọi yêu sách của các ông sư mạo danh Phật Giáo, kể cả phóng thích tất
cả các ông bà cộng sản giả dạng tăng ni phật tử bị chính quyền TT Ngô Đình Diệm
bắt, kể cả cộng sản gộc như Lê Câu, Mười Hương ra, thả cửa báo chí tự do tha hồ
chỉ trích vu khống chính quyền thì con số biểu tình và tự thiêu không những không thuyên giảm mà ngày
càng được mùa tăng lên gấp bội và ngày càng tăng chứ không giảm. Con số tăng ni
tự thiêu gấp 4 lần số tự thiêu dưới thời TT Ngô Đình Diệm, vậy thì ai đàn áp ai
đây? Chính phủ đệ nhất và đệ nhị cộng hòa đàn áp Phật Giáo hay phong trào mạo
danh Phật Giáo đàn áp chính phủ VNCH?
Cờ đã tới tay, nhóm
mạo danh Phật Giáo đã làm hàng loạt các cáo trạng về các vụ tự thiêu vì bị đàn
áp tôn giáo gởi khắp nơi trên thế giới và kiện lên tới Liên Hiệp Quốc. Kết quả
vào tháng 10 năm 1963, phái đoàn Liên Hiệp Quốc do ông Pazhwak, được cấp 33.600
đô la để chi tiêu, đã đến Việt Nam mở cuộc điều tra độc lập thể theo lời yêu cầu
của chính phủ VNCH về vấn đề gọi là chính phủ đàn áp Phật Giáơ này. Để giữ được
tính cách khách quan, trưởng phái đoàn, ông Pazhwak, không hề chấp nhận một sự
tiếp đãi nào từ phía chính phủ VNCH và kết
quả cuộc điều tra là không tìm thấy bằng chứng đàn áp Phật Giáo. Sau cái chết
bi thảm của Tổng Thống và bào đệ, chính quyền Mỹ đã áp lực Liên Hiệp Quốc giữ
im lặng về bản báo cáo này. Tuy vậy, những người mạo danh PG đấu tranh đã lên
tiếng trước cho rằng phái đoàn LHQ đã được đút lót tiền và gái từ chính phủ
VNCH!. Có điều họ chỉ cáo buộc khơi khơi như những kẻ du thủ du thực chứ không
đưa ra bằng chứng nàò về tiền và gái cả!
Câu trả lời cho “tội
trạng” đàn áp Phật Giáo của TT Ngô Đình Diệm xin được vắn tắt bằng một số các nhân
vật như sau: tổng thống Nixon, trong tác phẩm No More Viet Nam, ông viết nguyên
văn:“vấn đề đàn áp tôn giáo là hoàn toàn
bịa đặt, đàng sau cuộc khủng hoảng là chính trị chứ không phải tôn giáo”. Cựu
hoàng Bảo Đại trong tác phẩm Con Rồng Việt Nam nhận xét về phong trào PG đấu tranh như sau: “ Tất cả đang tiến tới thì chính phủ bị các
nhà sư chống đối. Ông Diệm và Nhu là người công giáo, các nhà sư bị cộng sản giật
dây và mật vụ Mỹ tiếp tay, liền bắt đầu hành động. Chính quyền phải đối phó lại,
vô hình chung đem đến cảm giác kỳ thị tôn giáo. Ai đã xúi giục họ gây loạn, ai?
Họ ở đâu tới? Làm sao biết được họ từ Hà Nội vào hay từ Bắc
kinh tới?
Gần
đây, một số sử gia Hoa Kỳ như Mark Moyar, đã đánh giá lại vấn đề cuộc chiến VN
và họ cũng đã kết luận cộng sản đã làm ra phong trào mạo danh Phật Giáo để đấu
tranh chính trị lật đổ chính phủ, và người dân thì không biết được đâu là sự thật
Rõ ràng có kẻ đã mạo danh PG để kêu gọi đấu
tranh chính trị lật đổ chính phủ
Hình ảnh công viên tượng đài Hòa Thượng
Thích Quảng Đức đồ sộ tại ngã tư Phan Đình Phùng- Lê Văn Duyệt hiện nay, và rất
nhiều các bài viết của cộng sản bạch hóa các thành tích của mạng lưới gián điệp
cộng sản tại Miền Nam dưới chiêu bài tôn giáo, là những bằng chứng khó có thể
chối cãi về sự bịa đặt Tổng Thống Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo
Bao lâu người ta còn mạo danh Phật Giáo để
hoạt động chính trị, bao lâu chúng ta còn để một số kẻ tự do lợi dụng tôn giáo
để đấu tranh, thì cộng sản vẫn còn hơn người quốc gia ở măt trận tuyên truyền
xa lắm. Bởi vì còn nhiểu người quốc gia nhẹ dạ coi quyền lợi tôn giáo hơn cả
quyền lợi quốc gia
2. Tội độc tài gia đình trị:
Nguyên tắc lãnh
đạo quan trọng hàng đầu của một xứ sở dân chủ tự do là người được bầu vào chức vụ tổng thống là người có đứng đầu
về quân đội và chính quyền, có toàn quyền chọn lựa người có cùng quan điểm và
đường lối chính trị cũng như chiến thuật và chiến lược để đưa vào các chức vụ
trọng yếu để thành lập nội các.
Luật pháp của bất cứ
quốc gia nào cũng không loại trừ việc tổng thống có quyền chọn anh em của mình,
chẳng hạn trường hợp của anh em tổng thống Kennedy. Thế thì các đảng phái chính
trị lấy điều khoản nào trong hiến pháp và luật pháp của nước VNCH rằng chính
quyền TT Ngô Đình Diệm độc tài gia đình trị? Người ta đã đòi hỏi rằng vì đã từng
ủng hộ TT Ngô Đình Diệm trong bước đầu cho nên họ phải có vị trí trong chính
quyền. Và khi không được ông sử dụng, họ gán cho TT Ngô Đình Diệm là độc tài
gia đình trị. Theo chúng tôi, lý luận đó dựa trên nguyên tắc đòi công, bất chấp
quyền lợi quốc gia. Hãy nghe TT Ngô Đình Diệm trả lời linh mục Cao Văn Luận khi
Linh Mục hỏi rằng tại sao Tổng Thống không sử dụng người tài: tổng thống trả lời“Có
bao nhiêu người tài thì tôi đã dùng hết rồi!”
Hãy xét lại những
trường hợp cho rằng TT Ngô Đình Diệm độc tài
Đa số những người
kết tội TT Ngô Đình Diệm độc tài họ là những người đã từng hổ trợ rất nhiều cho
TT Ngô Đình Diệm trong việc hạ bệ cựu hoàng Bảo Đại, chống lại Bình Xuyên Bảy
Viễn Nguyễn Văn Hinh, sau đó vì không được nắm giữ các chức vụ lớn, họ chống lại
ông. Điển hình là nhóm 18 nhân sĩ
Caravelle làm bản cáo trạng chống lại chính phủ, đòi hỏi chính phủ thực thi dân
chủ điểm này điểm nọ rất cao cả, như thể họ là những người rất khôn ngoan hiểu
biết rất nhiều về nghệ thuật trị quốc và ái quốc. Thế nhưng hai năm sau ngày TT
bị giết, các ông nhóm Caravell này đã có cơ
hội nắm chính quyền và các vĩ nhân này đã làm gì cho đất nước? Nếu không
nói là đã đẩy đất nước đến bờ vực thẳm do đã để cho phong trào Phật Giáo tranh
đấu của Thích Trí Quang xỏ mũi. Chẳng hạn các ông Phan Huy Quát, Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu.
Các ‘Nhân Sĩ” Caravell này trong vai trò tối cao lãnh đạo đất nước thì họ đã
đưa đất nước về đâu? trong lúc cộng sản thâm nhập ngày càng nặng nề qua sự nhượng
bộ liên tục của các chính trị gia Caravell với phong trào Phật Giáo Tranh Đấu.
Câu hỏi của lịch sử
dành cho các vĩ nhân Caravell này: Những người cho rằng TT Ngô Đình Diệm là độc
tài, không sử dụng họ hay chính họ là những kẻ bất tài tham quyền cố vị nên Tổng
Thống không thể sử dụng? Câu trả lời đã có bằng chứng cụ thể
Đất nước cần người
tài có cùng quan điểm điều hành quốc gia với người lãnh đạo tối cao, thấy xa
trông rộng về hiểm họa cộng sản, chứ quan hệ lãnh đạo không phải là món quà quyền
lực để phe này trả ơn cho phe nhóm kia, mà kết quả chắn chắn sẽ dẫn đến tình trạng
nhà không nóc, rắn nhiều đầu.
Người ta thường nói, nhiệt tình cộng với bất tài sẽ thành
phá hoại. Đúng như vậy, hãy xét lại tài năng những người đã từng tố cáo chống đối
chính phủ TT Ngô Đình Diệm, sau khi TT bị thảm sát, họ đã điều hành đất nước ra
sao? Nếu không phải rằng trong hai năm, họ đã đẩy đất nước vào vòng loạn lạc vô
luật pháp vô trật tự? Tất cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan Khắc Sửu,
Nguyễn Ngọc Thơ, Phan Huy Quát đã làm được
gì cho đất nước? Hay là đã để cho cộng sản
vào Miền Nam tràn đìa, cộng sản chiếm các cơ quan an ninh tình báo? Chẳng hạn vụ
ông Hà Thúc Ký lập chiến khu Ba Lòng chống chính quyền trung ương đệ nhất VNCH,
sau khi Tổng Thống bị giết, từ nhà giam, ông trở thành anh hùng được đưa lên
làm bộ trưởng Nội Vụ. Được làm quan to, bộ trưởng Hà Thúc Ký dưới áp lực của
phong trào Phật Giáo tranh đấu, đã thả một số cán bộ cộng sản cao cấp bị đàn áp
tôn giáo ra khỏi tù, như Mười Hương và Lê Câu. Điều này ông Hà Thúc Ký làm sao
chối tội với lịch sử?
Các ông đổ tội cho
chính quyền đệ nhất VNCH độc tài đàn áp đối lập không sử dụng các ông, hay là
các ông là những kẻ ham mê quyền lực, nghĩ mình có tài nhưng thực chất là chẳng
có tài gì cả để rồi đẩy đất nước đến bờ vực thẳm, đến nỗi người Mỹ phải ồ ạt đổ
quân vào Miền Nam để cứu vãn tình thế mà chẳng cần phải có một hiệp ước song
phương nào cả, vì sao? Vì lúc ấy chính quyền Hoa Kỳ như một cái phao cấp cứu mà
các “nhân sĩ Caravell” phải bám vào, thì làm sao các vị nhân sĩ dám đòi điều kiện
nọ điều kiện kia với Hoa Kỳ?
Trách nhiệm để cho Hoa Kỳ tự tiện đổ quân vào Miền Nam mà
không cần phải có hiệp ước quân sự song phương lỗi này là ở chính quyền BS Phan
Huy Quát và hàng loạt các chính quyền trước đó của Dương Văn Minh, Nguyễn
Khánh, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương v.v mà các ông nói trên không thể chối cãi
được
3.Hệ lụy kéo dài của những vu khống đối
với chính quyền TT Ngô Đình Diệm:
Cái chết của TT
Ngô Đình Diệm và các bào đệ từ lâu đã là một bóng ma ghê gớm của lịch sử.
Phong trào mạo danh tôn giáo để hoạt động cộng sản là một
giai đoạn của đất nước trong đó sức mạnh của thần quyền đã khống chế thế quyền.
Bên cạnh đó, đa số người hiểu biết và có lòng công bằng đều cầu an không dám
nói ra sự thật, do đó, sự sai đã khống chế sự thật, cái ác khống chế cái thiện,
kéo theo rất nhiều hệ lụy độc hại.
Một trong những độc
hai đó là vẫn còn một số người cho rằng cuộc đấu tranh năm 1963 là chính đáng
vì lý do Phật Giáo bị đàn áp, và rằng TT Ngô Đình Diệm là kẻ độc tài đàn áp đối
lập đàn áp tôn giáo. Chính vì hệ lụy này mà cái sai trái của lịch sử đã không đựoc
thấy và dĩ nhiên đã không được học. Hệ lụy là nạn thần quyền khống chế thế quyền
sẽ có cơ may trổi dậy trong lịch sử dân tộc lần nữa. Hệ lụy là hệ thống sách
giáo khoa Hoa Kỳ vẫn còn viết về TT Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa như
những gì rất tệ hại đàn áp Phật Giáo và độc tài gia đình trị. Và như thế, lịch
sử vẫn còn bị bẻ cong, thế hệ trẻ vẫn bị đầu độc hiểu sai về một chính phủ tốt
đẹp có công với đất nước. Tất nhiên điều này
làm lợi cho cộng sản và làm lợi cho thần quyền chứ không phải làm lợi
cho quốc gia dân tộc. Nếu cứ tiếp tục hư vậy thì chừng nào thì bài học lịch sử
chúng ta mới học được? Giải quyết vấn đề này đòi hỏi tấm lòng của nhiều người sẳn
sàng nói ra sự thật và chấp nhận đương đầu với sự thật
Không ai có thể phủ nhận là chính phủ TT
Ngô Đình Diệm đã thành công quá mức mong đợi, nhưng tiếc thay, một số người đã
không hiểu rằng quyền lợi quốc gia là tối thượng chứ không phải quyền lợi tôn
giáo là tối thượng, và lãnh đạo có nghĩa là toàn quyền chọn người cùng quan điểm
để có thể lái con thuyền quốc gia theo một hướng, đặc biệt là trong thời chiến
tranh, chứ không phải là hể ai có công hoặc ai muốn thì phải sử dụng, khi không được sử dụng thì kết án chính quyền độc
tài.
Đất nước sẽ đi về đâu nếu chúng ta có một chính phủ hội đồng năm cha bảy
mẹ như thế?
Trách nhiệm cái chết
và dư luận sai trái về TT Ngô Đình Diệm thuộc về ai?
1/Thủ phạm chính
thức chính là cộng sản. Ở điểm này, phải công nhận là cộng sản rất giỏi vì đã
quá thành công trong chiến thuật và chiến lược sử dụng người quốc gia để phá
nát chính quyền quốc gia
2/Thủ phạm thứ hai: Tất cả những ai đã tham
gia “Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu” đặc biệt là Thích Trí Quang đều phải chịu
trách nhiệm trước lịch sử
3/Thủ phạm thứ ba: Tất
cả các tướng lãnh và các thuộc hạ liên quan đã giết một tổng thống dân cử đầu
tiên của nền Cộng Hòa. Tất cả họ đã phạm tội đại hình, cho dù đã thoát khỏi tòa
án trần gian, nhưng chắc chắn phiên tòa lịch sử đã có tên họ
4 /Thủ phạm thứ tư: Nhóm chính trị gia và các
nhân viên CIA bất lương Hoa Kỳ chẳng hạn Aravell Harriman, Cabot Lodge, chính
phủ Kennedy
5/ Thủ phạm thứ
năm: Nhóm báo chí và giáo sư đại học phản chiến Hoa Kỳ như Paul Vann, David
Halberstam, Neil Sheehan
6/Thủ phạm thứ
sáu: Chính phủ đệ nhị cộng hòa: Chính phủ đệ nhị cộng hòa đã im lặng và đồng
lõa với những dư luận này: Vì sợ hãi bóng ma của nhóm mạo danh Phật Giáo hoạt động
cộng sản, và để che lấp trách nhiệm trong việc ít nhiều đã góp phần trong cái
chết của anh em TT Ngô Đình Diệm
7/.Thủ phạm thứ bảy:
Trách nhiệm của những người tuy tự cho mình là người quốc gia nhưng họ chỉ thấy
tôn giáo mà không thấy quốc gia, thấy cái nhỏ mà không thấy cái lớn. Họ không
thấy rằng phải chiến đấu chống cộng sản là điều sống còn chứ không phải trang
hoàng cho tôn giáo của mình là điều tiên quyết. Họ đã quá sức đặt quyền lợi vị
kỹ của tôn giáo mình lên trên hiểm họa cộng sản, gây chia rẽ với các tôn giáo
khác và cuối cùng đã làm lợi cho cộng sản
8/ Cuối cùng đó là
trách nhiệm của những người tốt. Có lẽ thế hệ cha mẹ ông bà chúng tôi, đã vì sợ
hãi, vì thờ ơ, vì cầu an không thấy trách nhiệm của mỗi công dân trong xã hội,
nhất là trong lúc quốc biến, đã im lặng trước những biến động chính trị của đất
nước trong hoàn cảnh quốc gia đang đối phó với kẻ thù tàn bạo và mạnh nhất
trong lịch sử nhân loại đó là cộng sản
9/ Hậu quả: Ngày 2
tháng 11 năm 1963, một người ái quốc đức độ đã bị giết. Quan hệ lãnh đạo mạnh
và tài giỏi của VNCH bị tiêu diệt bởi
chính bàn tay của những người quốc gia, bộ não của quốc gia bị hủy diệt, cái đầu
của quốc gia đã bị chặt trong tình thế đang đối đầu với hiểm họa cộng sản tấn
công bởi Mao Trạch Đông, mà Hồ Chí Minh và Lê Duẩn chỉ là những tên bù nhìn, và
điều phải xảy ra đã xảy ra, đó là ngày 30 tháng tư 1975, chúng ta mất nước chứ
không phải chúng ta chỉ có mất Miền Nam
Chúng ta mất nước bởi
nhiều nguyên nhân nguyên, trong đó nguyên nhân rất đáng trách đó là do sự im lặng
cầu an của những người tốt trước những biến động chính trị của quốc gia
VI Nhận Định Tổng
Quát:
Với mục tiêu chiếm
trọn Việt Nam, Trung Cộng đã theo dõi chặt chẽ những chuyển biến chính trị và
xã hội MN, phối hợp với Liên Xô, Bắc Kinh dốc toàn lực cho Bắc Việt để chiếm
cho được Miền Nam. Sự thành công và vững mạnh của Miền Nam dưới tài lãnh đạo của
TT Ngô Đình Diệm đã khiến khối cộng sản
và đặc biệt là Trung Cộng nhận định rằng muốn thanh toán Miền Nam thì điều đầu
tiên phải thực hiện cho bằng được là triệt hạ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và các
bào đệ.
Chúng đã cùng nhau
nghiên cứu những điểm thuộc về cá nhân gia đình TT Ngô Đình Diệm để khai thác.
Cụ thể là Hồ Chí Minh đã đến Nam Ninh vào tháng 7 năm 1954 cùng soạn thảo với
Chu Ân Lai và Bắc Kinh kế hoạch khuynh đảo Miền Nam. Từ đó chúng đã có sự trao
đổi là Bắc Việt phải nhượng đất nhượng biển và hải đảo cho Trung Cộng để đổi lấy
viện trợ kinh tế và quân sự. Hai dẫn chứng cụ thể về việc trao đổi này: Một là Ngày 14/9/1958 , Công Hàm của Thủ tướng Phạm
văn Đồng “nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên bố của Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa trong vấn đề lãnh hải”.
Hai là vào ngày 19 tháng 1 năm 1974, CS Hà Nội đã hoàn toàn im lặng đồng tình
trong việc Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa. Ngoài ra, Báo SGGP và báo QĐND vào
năm 1975 và 1987 đã trích lời của một đảng viên cao cấp rằng “Ta cho Trung Quốc
mượn, khi nào muốn lấy lại thì Trung Quốc sẽ trả lại..”
Nhìn lại thời kỳ từ năm 1960 đến 1963 chúng ta
thấy rõ bọn cộng sản đã tiến hành ba chiến thuật song song là: tấn công quân sự,
tấn công khủng bố, và tấn công chính trị, trong đó các tấn công quân sự và tấn
công khủng bố chỉ là diện, mà tấn công chính trị để triệt hạ chính quyền tài ba
Ngô Đình Diệm mới là điểm. Và mũi nhọn để tấn công tổng thống Ngô Đình Diệm đó
là làm sao tạo ra cho ông 3 tội: Độc tài gia đình trị, tay sai Đế Quốc Mỹ và
đàn áp Phật Giáo. Tội đàn áp Phật Giáo là tội đã đưa đến thành công lớn nhất kết
thúc bằng cái chết oan khiên của ông.
Trước những thành
tựu như một phép lạ của chính quyền TT Ngô Đình Diệm, Bắc Kinh và Hà Nội không
thể dựa vào cuộc tổng tuyển cử vào năm
1956 ký kết giữa Pháp và Bắc Việt trước đây, mà phải đổi chiến lược và chiến
thuật loại trừ cho được TT Ngô Đình Diệm, bằng cách cùng với CS Hà Nội tạo ra
các biến động chính trị lấy Phật Giáo làm ngọn cờ. Điều này những ai quan tâm đến
lịch sủ đều biết. Hãy nghe cựu hoàng Bảo Đại nói về các nhà sư và những kẻ kích
động phong trào mạo danh PG tranh đấu như sau: Làm sao chúng ta biết họ từ đâu
đến? Họ từ Hà Nội hay từ Bắc Kinh đến?
Về những lý luận
không thừa nhận sự tiến bộ của Miền Nam và cũng không thừa nhận công lao của TT
Ngô Đình Diệm dựa trên lý luận rằng sự thành công của Miền Nam là nhờ viện trợ
Mỹ.
Những người thuộc trường
phái này họ đã phớt lờ điểm quan trọng khác biệt giữa viện trợ của Hoa Kỳ và viện
trợ cộng sản. Viện trợ của khối cộng sản là quyết định độc tài và độc quyền giữa
các chính phủ cộng sản với nhau, không cần phải thông qua người dân của các nước
cấp viện trợ và nhận viện trợ. Dân chúng
và viện trợ của các nước cộng sản là công cụ để phục vụ chiến tranh phục vụ ý
thức hệ cộng sản, tiến đến thế giới đại đồng, xóa bỏ khái niệm quốc gia dân tộc.
Trong khi đó Miền Nam sử dụng viện trợ Hoa Kỳ phải được sự
phân tích và chấp thuận của quốc hội Hoa Kỳ cũng như chịu sự khống chế kiểm duyệt
của chính quyền cấp viện trợ, bên cạnh đó Miền Nam còn phải có trách nhiệm phát
triễn quốc gia về mọi mặt như giáo dục, kinh tế, y tế, hạ tầng chơ sở thượng tầng
cơ sở. Và cuối cùng, VNCH phải đối đầu với
một điểu khó khăn muôn vàn đó là một quốc gia với nền dân chủ chỉ mới có vài
năm, dân chúng chưa hiểu biết thế nào là tự do dân chủ và sự hạn chế của tự do
dân chủ, trong lúc phải chiến đấu chống lại độc tài đảng trị cộng sản với quá
nhiều kinh nghiệm về các thủ đoạn chính trị tàn ác và bẩn thỉu.
Một số “chính trị
gia sa lông” Miền Nam chưa hiểu được thế nào là tự do, nên đã xóa biên giới giữa tự do và làm loạn
và cho rằng đó mới là tự do thực sự kiểu phương tây, và đối
phương cộng sản đã khai thác điểm thiếu
hiểu biết này để phá hoại chính quyền dân chủ VNCH, và cộng sản đã rất
thành công. Cụ thể, nếu có sự bắt bớ cán bộ cộng sản trong bất cứ cơ quan dân sự
chính quyền báo chí hay tôn giáo nào, thì lập tức chúng kích động rằng chính phủ
đàn áp đối lập, đàn áp báo chí, đàn áp tăng ni phật tử gây khó khăn cho chính quyền VNCH trong việc
truy bắt cộng sản bảo vệ an ninh quốc
gia. Hãy so sánh Hoa Kỳ, một xứ sở hàng đầu thế giới về quyền tự do dân
chủ, và tự do thành lập đảng,
trong thời kỳ chiến tranh với Nhật, Tổng Thống Franlin Roosevelt đã ký sắc lệnh
đưa tất cả các người Mỹ gốc Nhật vào một trại tập trung tại California. Tiếp
theo đó thời kỳ chiến tranh với ý thức hệ cộng sản, TT Harry Truman đã ký một đạo
luật đặt đảng cộng sản ngoài vòng pháp luật. Đây là hành động phòng vệ từ xa chứ không thể nước đến chân mới nhảy của chính quyền văn minh nhất thế giới. Nếu
so sánh với hai nền cộng hòa, đặc biệt
là dưới thời TT Ngô Đình Diệm thì rõ ràng ông đã để cho dân chúng quá tự do, thậm
chí có thể gọi là lõng lẽo nữa là đằng khác
Rủi thay cho vận
mệnh quốc gia Việt Nam ,
tất cả những giới hạn cần thiết về các quyền tự do dân chủ của một quốc gia
trong thời chiến đã bị phong trào mạo danh Phật Giáo tuyên truyền vu khống là
đàn áp Phật Giáo.
Còn sự chọn lựa người
có cùng quan điểm và đường lối để điều hành chính quyền quốc gia thì bị đối lập
và cộng sản gán cho là độc tài!
Những người đã từng chống và phê phán nặng nề TT Ngô Đình Diệm
độc tài gia đình trị đã bị sự thật chứng minh rằng họ là những kẻ bất tài. Cơ hội
nắm quyền lãnh đạo quốc gia trong hai năm sau cái chết của TT Ngô Đình Diệm đã
chứng minh rằng những kẻ như
Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Phan Huy
Quát, Nguyễn Khánh, và một nhóm nhân sĩ chính trị Caravelle v.v là những kẻ bất
tài nhưng đầy tham vọng. Họ không hiểu biết gì về sự khác biệt giữa Chính Phủ Hội
Đồng và Hội Đồng Chính Phủ. Họ và một số lớn chống đối chính quyền VNCH đã nhầm
lẫn nguyên tắc tối hàng đầu trong
việc lãnh đạo đó là phải chọn
lựa người vừa có tài, vừa phải có cùng quan điểm điều hành. Chứ không phải
kiểu “tôi” muốn được sử dụng trong nội các phải cho tôi làm, nếu không qúy vị
là bọn độc tài!
Tóm lại, vận mạng của
quốc gia có cơ may trở thành một cường quốc Châu Á đã bị khai tử vì quan hệ
lãnh đạo quốc gia đã bị phá
nát bởi những người xem quyền lợi quốc gia thấp hơn quyền lợi tôn giáo ,những người đặt quyền lợi cá nhân
đảng phái lên trên quyền lợi quốc gia, và cuối cùng là bởi những kẻ nghĩ rằng mình là cái rốn của vũ trụ như trường
hợp các “Nhân sĩ Caravell”
VII Cái chết của Tổng
Thống để lại thông điệp gì?
Cái chết của TT Ngô Đình Diệm đã gỏi cho
chúng ta nhiều bài học:
1 Bài học về giứ vững chủ quyền và thể diện quốc gia
2. Bài học về sự quan trọng tối thượng của người lãnh đạo đối
với vận mệnh quốc gia
3. Bài học về quan hệ với đồng minh Hoa Kỳ:
Mối quan hệ với
Hoa Kỳ và Miền Nam là một quan hệ bắt buộc mà chúng ta không thể từ khước.
Nhưng để thành công và sử dụng được mối quan hệ này, chúng ta phải có một biện
pháp đối đầu thích ứng theo đời sống
chính trị và báo chí Hoa Kỳ, gọi nôm na đó là mùa bầu cử quốc hội và Tổng Thống.
Những thông tin chính xác từ chính quyền, bộ ngoại giao, cơ quan CIA Hoa Kỳ và
ngay cả từng mưu đồ cá nhân của các nhân viên của họ là những mục tiêu mà bộ
ngoại giao quốc gia VNCH cần phải có được để tiên liệu những khó khăn có thể xảy
ra, và đặc biệt phải có biện pháp đối phó với báo giới Hoa Kỳ.
Chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ thay đổi theo sự khôn ngoan
của chính Tổng Thống Hoa Kỳ, chính trường Hoa Kỳ, và báo giới Hoa Kỳ là quyền lực thứ 4 có thể thay đổi tất cả.
Bên cạnh đó, những nhân viên tình báo ngoại giao thừa hành người Mỹ có thể có
những dụng tâm riêng theo tình cảm và quyền lợi cá nhân của họ, mà đôi khi đưa
đến những tai hại quá lớn cho đất nước chúng ta. Nếu như tổng thống
Eisenhower không bị ngăn trở bởi tu chính
án 22 hiến pháp Hoa Kỳ không cho phép ông ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa, thì
có lẽ chúng ta không có chính quyền Kennedy, điểm mấu chốt của việc mưu sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và kéo
theo là chúng ta không có ngày hôm nay phải xa lìa quê hương vì họa cộng sản.
Trong lúc khối cộng sản sau lưng Bắc Việt là một nhóm cầm
quyền độc tài thủ đoạn và cương quyết, thì người bạn đồng minh của chúng ta, tổng
thống Kennedy là một người không có viễn kiến chính trị và thật vô trách nhiệm,
dưới quyền ông là những nhân viên ngoại giao bất lương và ngu dốt đã nhúng tay
vào máu của một người yêu nước vô tội, và ngay cả chính ông Kennedy.
4.Điều quan trọng nhất
đó là trách nhiệm của người dân: Sự xáo trộn chính trị xã hội không phải
chỉ thuôc trách nhiệm riêng của chính quyền quốc gia mà cũng phải là trách nhiệm
của từng công dân trong xã hội. Đó là thấy sai phải lên tiếng. Phong trào Phật
Giáo Tranh Đấu đã mượn danh Phật Giáo để trấn áp dư luận. Không ai dám lên tiếng
mặc cho phong trào PGTĐ hoành hành vì sợ các nhà tu và sợ những tín đồ cuồng
tín. Sau cái chết và sự sụp đổ của chính quyền TT Ngô Đình Diệm, đã có biết bao
nhiêu oan khiên xảy ra. Rất nhiều người đã bị quyền lực của phong trào PGTĐ cầm
đầu bởi Thích Trí Quang loại bỏ, bị tù chung thân và có cả bị tử hình. Tình
hình Miền Nam hai năm sau ngày tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chằng khác nào
những cuộc thanh trừng dưới các chế độ cộng sản.
Nếu ngày ấy, những người
có tấm lòng công chính biết mạnh dạn đứng lên chống lại phong trào mạo danh Phật
Giáo tranh đấu thì có thể vận nước đã không như hôm nay. Đổ lỗi cho ngoại bang
không thì không thể nào gọi là công bằng, mà chính chúng ta phải tự trách chúng
ta trước. Nếu như chúng ta không để cộng sản giựt dây, không để cho những người
như Thích Trí Quang tung hoành và phỉnh gạt bằng chiếc áo tôn giáo, và nếu
chúng ta không khoanh tay cầu an đứng nhìn thế sự sai trái, thì ngày giờ này
đây chúng ta đâu phải đối đầu với thảm họa cộng sản và họa diệt vong? Phong
Trào Phật Giáo Tranh Đấu thực sự không phải là phong trào tôn giáo thuần túy,
đây là một phong trào chính trị do cộng sản chủ mưu lôi cuốn một số người quốc
gia chỉ biết đặt niềm tin vào các tu sĩ trên cả vận mệnh quốc gia. Có thể nói một
cách không sai là, giai đoạn hơn hai năm sau cái chết và sự tan nát của tổ chức
chính quyền cộng hòa, là giai đoạn thần quyền khống chế thế quyền, đã đưa đến
di hại khủng khiếp cho quốc gia: đất nước rơi vào tay cộng sản
Mặc dù đã mất cách
đây 47 năm, nhưng hình ảnh của tổng thống Ngô Đình Diệm và các bào đệ vẫn là một
niềm đau đớn khôn nguôi cho vận nước và là một biểu tượng quốc gia chân chính
gây nhiều đáng sợ đối với bọn cộng sản. Do đó chúng phải luôn cố gắng bẻ cong lịch
sử. Dẫn chứng, trong 47 qua chúng vẫn không ngừng viết và cho tay sai những điều
man trá thóa mạ tổng thống và chính quyền VNCH nói chung và đặc biệt là chính
quyền của TT Ngô Đình Diệm. Chúng ta chùn bước trước chiến lược tuyên truyền chống
chính quyền VNCH hay không? Xin thưa, không, chúng ta không bao giờ lùi bước
Bổn Phận chúng ta ?
Có những người sinh
ra để nhận hết những khổ nạn cho quốc gia dân tộc, một trong người như vậy này
chính là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì vậy ông đã đi vào lịch sử
Chúng ta đến đây
hôm nay không phải chỉ là để tiếc thương ông, mà bổn phận đầu tiên của chúng ta
là phải trả lại sự thật cho lịch sử. Đơn giản là chúng ta phải có bổn phận nói
lên những gì chúng ta suy nghĩ về ông. Những
bóng ma hung tợn của quá khứ về một phong trào mạo danh tôn giáo cần phải trả lại
giá trị thật của nó, trong đó, danh dự của một vị tổng thống yêu nước, tài ba
khả kính đã hy sinh tất cả đời mình cho đất nước và dân tộc Việt Nam thoát khỏi
ách nô lệ và hiểm họa cộng sản phải được đặt vào đúng vị trí trang trọng trong
lịch sử dân tộc Việt Nam
Xin mượn câu nói của Dân Biểu Sablocki của Đảng Dân Chủ thuộc
Tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ,ngày 13 tháng 11 năm 1963 tại Hoa Thịnh Đốn để kết
luận về cái gọi là “Đàn áp Phật Giáo Mật Vụ Nhu Diệm”
“Vụ đảo chánh đã đem lại một đổi thay cho hiện trạng Việt Nam, nhưng bản trường trình của Phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc vẫn có giá trị lịch sử trong việc giải minh vấn đề Phật giáo.”
Bốn mươi bảy năm
trôi qua, linh hồn trong sạch của ông đã về với chúa, thân xác ông để lại quê
hương, nấm mộ không được ghi tên của ông và ông Cố Vấn nằm trên mãnh đất quốc
gia để chứng kiến biết bao nhiêu tội ác của bọn cộng sản Việt Nam trên quê
hương này, và đau đớn nhất là hiểm họa diệt vong bởi Trung Cộng phương Bắc đã
đi vào quỹ đạo. Để ghi nhớ công ơn ông, chúng ta không thể chỉ là tiếc thương
kính trọng, mà chúng ta phải tiếp nối con đường chính trị dang dỡ của ông đó là
cương quyết chống lại chủ nghĩa CS và
chính quyền cộng sản VN đến cùng. Và chúng ta cần có những hành động mạnh mẽ
cụ thể
Những cuộc cách mạng
đòi hỏi dân chủ tự do đang bùng lên mãnh liệt tại các nước, Tunisie, Ai Cập,
Lybia, Syria, là một lời cảnh cáo mạnh mẽ cho những tên cộng sản VN bán nước cầu
vinh, nếu người Việt trong và ngoài nước biết đồng tâm hiệp ý trong một số những
vấn đề cụ thể.
Để góp sức thúc đẩy
trận chiến này, hành động thiết thực mà người Việt Quốc Gia hải ngoại có thể thực
hiện được đó là đòi lại tất cả những món
nợ tội ác mà bọn cộng sản đã làm cho dân tộc Việt Nam, và công việc đầu
tiên với nhiều hy vọng thành công nhất đó là đòi lại món nợ Thảm Sát Mậu Thân
mà bọn chúng đã gây ra cho đồng bào Miền Nam và đặc biệt là đồng bào Huế 1968
Lời cựu hoàng Bảo Đại
nói với TT Ngô Đình Diệm
“ Đây chúa của ông đây, ông hãy thề trước mặt
chúa là hãy gìn giữ đất nước Việt Nam, ông phải bảo vệ nó để chống lại cộng sản,
nếu cần phải chống cả người Pháp”
Vì quyền lợi đất
nước, Tổng Thống Ngô Đình Diệm không muốn chính quyền và quân đội VNCH lâm vào
cảnh chia rẽ nồi da xáo thịt, quốc thể bị xâm phạm ông quyết định trao lại quyền
điều hành đất nước cho nhóm tướng lãnh phản loạn, ông hành động như một chính
nhân quân tử, ông đã cố sức giữ vững Miền Nam, nhưng bọn tàn ác đã giết ông
Cầu xin linh hồn tổng thống Ngô Đình Diệm và
các bào đệ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Giám Đốc Sở Tình Báo Chiến Lược Phan
Quang Đông, và những anh linh tử sĩ khác đã bỏ mình vì đất nước giúp toàn dân
Việt Nam được can đảm và sáng suốt tiếp bước con đường chống cộng lại cộng sản
đến cùng của Tổng Thống
Houston
ngày 17 tháng 10 năm 2011
Bài viết cho ngày
giổ thứ 47 của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu tại thành phố
Atlanta ngày 24 tháng 10 năm 2011, nay xin phổ biến nhân 50 năm tưởng nhớ công
ơn của ông!
Tài liệu tham khảo:
TT Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc Minh Võ:
Triumph for Shaken Mark Moyar:
Con Rồng Việt Nam: Cựu hoàng Bảo Đại
Tài liệu của nhà báo Vĩnh Phúc, phóng viên BBC
New York Times
Report of the United Nations Fact-finding mission to
South Vietnam Published by The Committee of Judiciary United States,
88th Congress, 2nd Sessions. US Government Printing Office, 1964.
United States-Vietnam Relations 1945-1967 (Vietnam Task
Force Office of the Secretary of Defense)
Một số tài liệu khác về giáo dục y tế quân sự của Miền Nam
VN giai đoạn 1954-1963
0 comments:
Post a Comment