ĐỜI NHAU
(Tự Truyện)
đêm đông sầu sao rơi xuống mau
như linh hồn ai than khóc lâu
vất va nhung nhớ người dương thế
thiên thu còn thương tội đời nhau
(Trần Thị Bông Giấy)
Khi lật xong các lá bài đang bày trên bàn, bà thầy bói nhìn thẳng vào tôi, nói ngay:
"Cô có một người âm theo đuổi từ khi còn rất trẻ. Vì vậy, cuộc đời cô long đong không dứt."
Bà cúi xuống, ngẫm suy theo những con chuồn, con bích... xong, miệng mồm lưu loát:
"Người
âm này rất thương yêu cô, vừa theo phù trợ và cũng theo mà phá. Cô cứ
ngẫm lại trong đời, xem có phải rằng, khi lâm vào cảnh đau khổ thì tự
dưng bạc tiền, danh vọng ào ào đưa đến? Còn khi gặp một tình yêu nào đó
và nhất là yêu đáp trả đối tượng, không bao giờ cô hưởng thụ được trọn
vẹn hạnh phúc của cô?"
Tôi
ngồi im. Xưa nay tôi vốn rất tin tử vi, nhưng lại xem môn bói bài là
cái trò dị đoan vớ vẩn. Bữa nay, tâm tư tuyệt vọng quá theo sự ra đi của
TNH, tôi như kẻ chết đuối vớ được mảnh ván tàu, tìm đến nhà bà thầy bói
dưới sự hướng dẫn của một người bạn.
Bà
thầy bói vẫn cúi xuống mặt bàn, ngón trỏ của bàn tay phải có chiếc móng
nhọn màu đỏ, chỉ chỉ đếm đếm trên từng lá sắp thành hàng thẳng. Một lát
bà hỏi:
"Cô thử nhớ lại trong thời tuổi trẻ có từng làm khổ ai để người ta phải chết?"
Tôi
không đáp, trí óc đảo nhanh ý nghĩ: "Người âm nào đây? Anh Chàng, anh
Thùy, hai người đàn ông chết trẻ, đã từng yêu tôi khi tôi vừa lớn?" Tôi
không biết được.
Tiếng nói bà thầy bói ra tuồng khẳng quyết:
"Cái số rất đào hoa. Chẳng những người sống theo đếm không hết, mà cả người chết cũng cứ mãi còn theo ám ảnh."
Bà cúi xuống, rồi ngẩng lên nhìn thẳng tôi:
"Đôi
mắt rất đẹp, hắc bạch phân minh. Vì vậy, dẫu đào hoa mà vẫn giữ được
tâm hồn đoan chính. Nhờ có người âm theo nên từ trước, gặp nhiều tai
nạn, cô vẫn được bất ngờ cứu sống, trong khi với kẻ khác sẽ không thoát
nổi cái chết đâu."
Những
lời bà thầy bói không hẳn rằng sai. Xưa nay trong đời tôi, quả có thế
thật. Ba lần bể đầu vì ba nguyên nhân khác nhau, phải đưa vào bệnh viện
cấp cứu. Ba lần tự sát. Năm bảy lần bị những vết thương không gọi rằng
nặng nhưng cũng phải thời gian dài cơn đau mới dứt. Lại còn những mối
tình của đàn ông dành cho thì nhiều vô số! Ôi! Chuyện tình yêu đối với
ai là hoa là mộng, còn với tôi chỉ là sự ghép liền những mảng tâm hồn
tan nát, trở nên một ấn tượng đậm nét, đến nỗi tôi đâm sợ mỗi lần nghe
ai đó ngỏ với tôi lời nói yêu đương!
Bà không nhìn tôi, đặt câu hỏi tiếp:
"Người
âm này tướng tá rất đẹp, uy nghi lẫm liệt. Đây này, cái con Coeur Vua
nói lên điều ấy. Cô nhớ lại đi, có ai từng yêu cô và đã chết?"
Tôi
vẫn không đáp. Bỗng dưng như không còn nghe và hiểu gì nữa những lời
người đàn bà trước mặt cứ huyên thiên lưu loát; trong ký ức tôi, thật
bất ngờ như một bóng ma, hình ảnh người đàn ông gần ba mươi năm xưa sừng
sững hiện ra.
I.
Anh
gốc người Chàm, là bạn thân của cậu út tôi, trọ học trong nhà mẹ tôi
một thời gian dài, khi tôi còn bé. Dáng anh cao lớn, da màu đen sẫm, vẻ
đường đường quắc thước. Thuở nhỏ, tính nết tôi vốn trầm buồn khép kín,
vì vậy, khác với ba cô em gái, tôi gần như không bao giờ muốn nhờ anh
giúp cho bài làm hay trò chuyện thân mật cùng anh.
Sau khi xong Đại Học, anh rời nhà tôi.
Bẵng
vài năm, một buổi chiều, thời gian tôi 18 tuổi, đi học về, nhìn thấy
anh đang ngồi trong phòng khách. Nhận ra tôi, anh đứng lên, mừng rỡ:
"A Thu Vân đây sao? Lớn quá!"
Và
anh giơ cả hai tay đặt lên vai tôi, lắc nhẹ. Thốt nhiên tôi nghe toàn
thân tê dại. Lần đầu tiên trong đời có bàn tay đàn ông lạ chạm vào thân
thể, hệt như luồng điện giật. Tôi ngước nhìn anh. Dáng anh đã cao lớn,
bấy giờ lại càng cao lớn hơn trong bộ quân phục Nhảy Dù với lon Đại úy
trên vai, màu vàng đục ẩm. Anh rút tay về, vòng trước ngực, lùi lại một
bước ngắm tôi, mỉm nụ cười ấm áp:
"Xinh quá! Nhưng cô bé có hay khó chịu như ngày nhỏ?"
Mẹ tôi xen vào lời đáp:
"Bây giờ giỏi lắm, nấu ăn ngon và đàn cũng rất hay!"
Tôi xấu hổ bước nhanh vào nhà trong, trái tim đập mạnh. Một tình cảm bất ngờ rung lên như điệu nhạc cuồng trong cơn lốc.
Suốt
buổi chiều hôm ấy, tôi không dám nhìn anh, cũng không nói gì, dù rằng
tôi được xếp ngồi cạnh anh nơi bàn ăn có trải khăn màu trắng. Những câu
chuyện vang lên vui vẻ giữa anh và người anh lớn. Tất cả gia đình tôi
đều tỏ ra hân hoan đón chào anh, như thể với một đứa con vừa trở về từ
chiến trận xa xôi.
Đêm
đến. Những ngọn đèn trong phòng khách được bật lên hết. Màu ánh sáng
tỏa ra nỗi niềm ấm áp. Mấy chị em tôi vây quanh, nghe anh kể chuyện.
Thuở xưa khi còn bé, chúng tôi vẫn thường được anh làm cho điều ấy. Cả
bọn như uống từng câu nói về các cuộc hành quân, các lần vào sanh ra tử
của anh trên nhiều chiến trường Miền Trung sôi động. Các cô em đua nhau
đặt ra nhiều câu hỏi. Còn tôi chỉ im lặng nhìn anh.
Có một lúc, anh bỗng ngưng tiếng, bật lên câu ngợi khen, pha phần sửng sốt:
"Thu Vân có đôi mắt buồn và thu hút quá!"
Tôi cảm nghe một luồng khí nóng bao trùm nhanh thân thể. Anh cười, tiếp:
"Mấy thằng bạn anh đứa nào cũng độc thân vui tính. Có thằng con nhà rất giầu mà vẫn ‘mồ côi’. Hôm nào anh đem cuốn album Khóa 20 Võ Bị đến, Thu Vân nhìn mặt, xem vừa ý đứa nào, anh sẽ làm ông mai, tha hồ anh em mình chia nhau quà đút lót."
Và cười to, anh tiếp:
"Mấy thằng đó mà mết em gái anh, mết luôn tiếng đàn thì chỉ có nước cúc cung trà nước cho anh!"
Tôi xấu hổ, cúi đầu cười mỉm.
Khuya
hôm ấy, trọn căn nhà lắng im trong giấc ngủ, chỉ mình tôi thức nơi bàn
học. Ngoài hiên, hai người bạn cũ đang ngồi với nhau. Chen lẫn giữa
tiếng guitare trên tay cậu Tân khẩy nhẹ từng âm thanh mỏng là
giọng nói Phan Rang ấm áp của anh và cái giọng Huế pha Sàigòn của cậu
tôi, khề khà vui vẻ. Câu chuyện hai người bạn vô tình lọt vào tai khi
tôi đang cúi mình nơi bàn học.
Cậu tôi hỏi:
"Tại sao mày bỏ học ngang để vào lính?"
Anh đáp nhỏ:
"Thứ
nhất, nhà tao nghèo quá. Thứ hai, có một lẽ quan trọng như một mối tâm
huyết từ bé tao đã cưu mang: 'Khôi phục lại đất Chàm!'"
(Tôi chợt nghe lòng bâng khuâng vô cớ.)
"Mày có nghĩ đó là một điều khó thể thực hiện?"
Giọng anh trầm hẳn:
"Tao
biết! Nhưng đã thế trong tao, quyết không thay đổi. Giờ đây, chỉ gia
nhập binh chủng Nhảy Dù mới mong mau lên Tướng. Nếu không có quân trong
tay, làm sao thi hành được ước vọng riêng?"
Tiếng guitare
lại vang lên, làm át đi tiếng thì thầm trò chuyện. Các dòng chữ trên
quyển sách trước mặt tôi đâm thành rối beng, thừa thãi. Tôi nhìn ra
ngoài trời. Bầu trời tối như đêm 30 Tết. Tôi hơi nghiêng người về hướng
hành lang, chăm chú lắng tai.
Giọng anh cố làm cho nhỏ:
"Đúng!
Tao vẫn biết, dành lại đất Chàm không phải là điều dễ dàng thực hiện.
Nhưng, từ hàng trăm năm qua, dân tộc tao chìm đắm quá sâu trong khốn
khổ. Người dân xứ tao phải chịu sống kiếp tha hương ngay trên chính cái
nơi đã từng chôn nhau cắt rốn. Tao may mắn được ăn học tới nơi tới chốn,
kiếm ra đồng tiền bằng sự hiểu biết của mình. Nhưng còn vô số những
người mù chữ, bao người lớn, con nít hằng ngày không biết lấy gì mà ăn,
hằng đêm không đủ tấm chăn đắp cho ấm bụng?"
Trong
giọng nói anh, tôi nghe ra một nỗi u trầm đặc biệt. Cái u trầm trong
các điệu hát của những người Hời, tuy chưa một lần trực tiếp thưởng
thức, nhưng tôi có thể tưởng tượng được qua những dòng sử sách viết về
dân tộc Chàm. Trong tiếng hát có pha điều thống hận. Phải gọi là tiếng
khóc nhiều hơn, phát sinh từ đôi môi của những con người đúng như anh
nói: “Đi tìm vùng đất quê hương ngay trên chính cái nơi mình đã được sinh ra.”
Anh tiếp:
"Mày
là bạn chí cốt của tao, hẳn cũng hiểu tao. Sở dĩ tao đạt được thành quả
dẫn đầu suốt trong nhiều năm còn đi học là bởi tao có con đường riêng,
không dám chút nào xao lãng. Bây giờ, việc lao vào Nhảy Dù cũng không ra
ngoài cái chí hướng ấy."
Tôi
hình dung khuôn mặt chữ điền với cái cằm bạnh, đôi mắt rực sáng khi
thốt lên câu trên bằng lối nói pha chút chua cay nhưng cũng đầy hùng
tính.
"Tao
là một thằng tuổi trẻ sống trong đất nước Việt Nam đạn bom liên tục.
Tao cũng có những suy nghĩ như mày, như mọi thằng tuổi trẻ về tất cả
những gì chung quanh đang nhìn thấy, rồi đây sẽ trở thành lịch sử. Nhưng
khác mày, khác mọi thằng, trong tao còn có niềm ray rức riêng cho chính
những điều dân tộc tao đang hằng ngày chìm đắm. Làm sao tao có thể sống
yên với những gì đạt được trong niềm toại ý tầm thường vị kỷ? Cách nào
tao tự thỏa thuận với ý nghĩ đem dâng hiến tài năng cho một dân tộc kẻ
thù đã từng tiêu diệt dòng giống tao từ hàng trăm năm qua?"
Nghe
câu cuối cùng, toàn thân tôi đột nhiên rúng động. Mười tám tuổi mà tôi
đã nhận thức được rằng, hoài bão anh rõ ràng vô vọng. Trong óc hiện
nhanh hình ảnh tưởng tượng theo cái máy chém bổ xuống trên cổ 13 vị anh
hùng Việt Nam Quốc Dân Đảng thời thực dân cai trị. Thời buổi này không
còn máy chém. Nhưng, cái pháp trường xử bắn ở gần trường đua Phú Thọ, và
cái án khổ sai chung thân nơi Côn Đảo liệu có buông tha nếu một ngày
anh thực hiện không thành ước vọng vô cùng của anh?
Đồng thời, một tình cảm rất lạ bất ngờ len lỏi vào trên từng sớ da lớp thịt tôi buổi khuya hôm ấy. Tôi tưởng như vừa bắt gặp được cái gì rất thân yêu từ tiền kiếp nào quá khứ.
Từ
lâu, khi nhìn thấy những người Chàm ngồi bán buôn rải rác nơi đầu phố
chợ khu Hòa Bình, Dalat, trên khuôn mặt tỏa nét buồn chịu đựng, luôn
luôn tôi vẫn không rời thoát nỗi niềm xót xa thương cảm. Nỗi xót xa
giống như khi đứng trước điều bất hạnh của một người thân mà mình không
cách chi xẻ chia cụ thể. Tôi không nghe sợ theo tiếng đồn về những con
ma Hời mẹ tôi thường kể. Trái lại, tôi nghĩ, giữa tôi và những con người mất nước ấy, có nhiều điểm tương đồng chưa được dịp tìm ra.
Buổi
khuya vô tình nghe lọt tâm sự anh, cái điểm tương đồng này đột nhiên ló
mặt, như thể, nếu đưa tay ra, tôi dễ dàng nắm bắt. Chỉ thoáng chốc, tôi
thấy mình tự dưng biến đổi. Trái tim co thắt theo một cơn đau bất ngờ
phủ chụp. Mối hờn vong quốc của dân tộc Chàm, tôi từng thấm cảm qua các
dòng thi ca Chế Lan Viên, bấy giờ càng nồng đượm hơn trong tiếng nói anh
chứa đầy u uất. Một thoáng, tâm hồn tôi chợt như rủ xuống. Sự cảm phục
về anh nẩy sinh nhanh chóng trong tôi.
Từ
đó, tôi âm thầm nghĩ đến anh. Hoài bão của anh được tôi đem hòa nhập
vào trong từng giấc mơ mỗi tối. Tôi tìm đọc trong các cuốn Sử để nhận
biết xót xa ngày càng nhiều hơn số phận đau thương của dân tộc Chiêm
Thành. Những chiều tan học, lang thang trên phố Lê Lợi, tìm mua được
quyển sách nào có liên quan đến vùng đất một thời lừng lẫy nay đã vĩnh
viễn trở thành dĩ vãng, tôi vui mừng như vừa tìm ra của quí. Ôi! Những
con ma Hời theo anh, len lỏi vào trí não tôi những đêm trằn trọc. Tiếng
gươm tiếng giáo trong các cuộc binh đao xưa lắc quay cuồng giấc điệp.
Tiếng gào thét kêu la từ cổ đại, mơ hồ văng vẳng, nhiều đêm khiến tôi
khó ngủ. Những khi ấy, đầu óc tôi chỉ tưởng nghĩ đến hình ảnh cái pháp
trường Phú Thọ, một ngày nào anh sẽ phải bị bịt mắt trói mình trước
những họng súng đang cất cao chĩa thẳng vào anh.
*
* *
Buổi chiều Chủ nhật 21/4/1967,
từ Mã Lai trở về sau ba tháng tu nghiệp khóa tình báo đặc biệt, anh tìm
đến nhà mẹ tôi. Vẫn nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt chữ điền với làn da
đen xạm, anh đưa ra chiếc hộp có bọc giấy hoa đẹp đẽ, nghiêng mình trước
tôi theo dáng cách một nhà quý tộc:
"Tặng em, để dùng trong dịp trình diễn sắp tới!"
Tôi
mở nắp hộp. Một chiếc áo dạ hội bằng lụa màu xanh nước biển bung ra dịu
dàng dưới bốn đầu ngón tay tôi đang chụm lại. Mùi vải thơm quyện nhanh
nơi mũi. Bỗng dưng tôi thốt rùng mình vì búp hoa hồng màu đen rộng bản
có hai giải băng dài, đính ngay ngực áo. Cái màu ghê rợn nói lên điềm gở
nào không biết. Tôi cứ vậy mà ngẩn ra, đôi mắt không rời thoát được cái
màu đáng sợ kia.
Tiếng nói anh trầm ấm:
"Chính tay anh chọn nó bởi anh biết em rất yêu màu xanh."
Rồi hát nhẹ:
"Anh mong chờ mùa thu,
Màu áo xanh hiện về với giấc mơ..."
Xong lại mỉm cười:
"Trong cái tên em, có mùa thu. Màu xanh lại là màu em yêu mến. Sao? Chiếc áo có làm em thích?"
"Dạ, áo đẹp lắm, nhưng em nói thật, cánh hoa hồng làm em sờ sợ."
Anh bật tiếng cười:
"Cô bán hàng đưa cho anh chiếc áo trắng có hoa màu đỏ, nhưng anh thấy màu đen nổi bật làm chiếc này trội hẳn."
Giọng anh vỗ về:
"Em không nhớ câu chuyện Bông Cúc Đen ngày nhỏ? Bây giờ không phải bông cúc, mà bông hồng đen mới là đặc biệt."
Tôi
cố nở nụ cười theo điều anh vừa nói mà thật thì tâm tư lửng lơ nghĩ
ngợi. Rồi không dám nhìn lâu chiếc áo, tôi đem treo nhanh nó vào trong
tủ, lòng tự nhủ "sẽ không bao giờ dùng đến", cho dù trong ngày trình diễn như ý muốn của anh.
Chiều thứ Hai 22/4/1967, anh trở lại nhà chúng tôi.
Sau
bữa cơm chiều, anh ngồi trò chuyện với riêng tôi. Từ lâu nay, đôi lần
về phép, anh vẫn ghé nhà mẹ tôi. Dấu nét tình cảm nào đó ẩn hiện trên
anh --và cả trên tôi-- là bằng chứng cho những người thân lịch sự rút
lui nơi khác, dành lại cái không gian ấm áp của căn phòng khách cho hai
chúng tôi phô bày nhiều câu chuyện, những câu chuyện của thuở ngày xưa
lẫn cả ngày nay.
Có lần anh nhắc:
"Ngày
nhỏ khi anh còn trọ học trong nhà mẹ thì em là cô bé khó chiều nhất. Em
hay hờn dỗi, lầm lì ít nói để bất cứ lần nào cô bé nhờ anh giảng giải
bài vở, anh đều vui như bắt được của."
Mỉm cười, anh tiếp:
"Vậy mà bao năm xa cách, trở lại Sàigòn, anh không ngờ cô bé lớn và xinh đẹp quá!"
Sau một hồi, đột nhiên anh hỏi:
"Có 'hoàng tử' nào đã được em chấm? Cho anh biết với!"
Tôi giật mình ngước nhìn lên thì chỉ thấy cái cười vui rạng lên trên khuôn mặt có làn da đen xạm.
Anh tiếp:
"Hay lại có cả một hàng rào danh dự đứng đợi em ngoài cổng mỗi lúc tan trường?"
Tôi lắc nhẹ đầu. Đôi mắt anh phát ra tia sáng:
"Vậy có thể cho anh xin thời khóa biểu các buổi học?"
Rồi thêm:
"Mỗi lần nhìn thấy anh chàng cao cao da đen thui thì biết đó chính là anh!"
Trong
các câu chuyện, tôi vẫn thường im lặng nghe anh nói (dạo ấy còn ngây
thơ quá nên cứ sợ trong nhà "theo dõi"), nói nhiều lắm những tâm tình
riêng rồi tựu chung lại là cái ý muốn "có tôi trong trọn cuộc đời anh."
Ánh mắt anh rạng rỡ:
"Bao giờ em ra trường?"
"Ngày 12/6", tôi đáp.
Và thêm:
"Sau đó, sẽ phải làm một buổi độc tấu nếu như em đoạt thủ khoa trong kỳ tốt nghiệp."
Anh gật:
"Anh tin em đoạt được. Anh sẽ cố lấy cái phép về Sàigòn trước ngày em trình diễn."
Vẻ thật tươi, anh tiếp:
"Nhưng anh chẳng có áo quần nào lịch sự ngoài vài bộ áo hoa rừng, không biết có làm em xấu hổ?"
Tôi nhìn anh, im lặng. Anh bật cười to, điệu hào sảng:
"Đó!
Cô bé lại khó chịu y như ngày nhỏ. Anh sẽ về mà! Về để nghe em đàn!
Trên sân khấu, em hãy nhớ rằng, có một người lính Dù đang đứng trong góc
tối, lắng nghe tiếng đàn em một cách thật trang trọng..."
Ngừng một nháy, anh tiếp:
"... Trang trọng hơn bất cứ vị khách lịch sự nào trong các bộ complet!"
Khi được hỏi "Sau này em định làm gì?" thì tôi thành thật đáp:
"Trên
đời, chỉ có hai cuộc sống được em ưa thích hơn cả. Một là cuộc sống
lãng du của những con người yêu thiên nhiên, đặt vật chất lợi danh xuống
hàng dưới những chuyến giang hồ vô định. Hai là cuộc sống của những
người nghệ sĩ, biểu diễn tài năng mình trên những sân khấu đầy màu sắc,
hơi rượu và khói thuốc."
Tôi cúi đầu tiếp:
"Thật vậy anh à! Ngay từ khi còn nhỏ, em đã nghĩ thế và tin rằng cuộc đời mình sau này chỉ là hành động y như cái nghĩ mà thôi."
Ngẩng
nhìn lên, tôi bắt gặp sự ngạc nhiên lộ rõ trong đôi mắt sáng quắc.
Nhưng thật nhanh, anh cười ha hả, đưa ra những cái răng thật đẹp:
"Như
vậy, đêm đêm anh sẽ đưa em đi đàn, mặc đồ Dù ngồi uống rượu chờ em. Đứa
nào mà làng chàng thì chỉ cần nhìn bộ đồ Dù ba gai của anh, sẽ de hết."
[Một điều lạ kỳ ngày nay nhớ lại, tôi phải ghi vào đây để phơi tỏ rõ rệt hơn tính Định Mệnh của cuộc đời mình. Ngay buổi chiều thứ Hai 22/4/1967
đó, anh Nguyễn Ngọc Thùy, một người bạn khác của Cậu út tôi, cũng là
bạn anh Chàng, từ Nha Trang vào Sàigòn trình diện để theo học Khóa 25
Trừ Bị Thủ Đức. Cả ba đều là bạn thân của nhau suốt nhiều năm ở trường
Nam Trung học Võ Tánh Nha Trang.
Trong
câu chuyện, cũng có anh Thùy hiện diện. Khi nghe tôi tâm sự về cái ước
mơ sống đời nghệ sĩ, anh Thùy đã nói:"Anh cũng vậy. Đi dạy học, đến tỉnh
nào, anh cũng đều xin một chân đánh trống hay thổi clarinette trong một phòng trà địa phương." (Hai môn nghệ thuật này, anh rất xuất sắc.)
Trong
nhà ai cũng biết tình cảm đặc biệt --nhưng âm thầm--- của anh dành cho
bà chị thứ hai của tôi. Vì vậy tức thì ngay sau câu nói vừa kề, trong óc
tôi chớm liền ý nghĩ: "Con người như anh sao lại có thể yêu được chị Kiều, một cô gái chỉ ham chuộng bề ngoài và không có chút gì sâu sắc nội tâm?"]
Kể về cuộc sống liên miên các trận hành quân dữ dội, anh Chàng tâm sự:
"Anh
rất ghét chương trình Dạ Lan, truyền thanh mỗi tối trên đài phát thanh
Quân Đội. Với anh, đó chỉ là một kiểu tâm lý chiến làm lũng đoạn tinh
thần người lính, hoàn toàn không đem lợi ích gì cho họ. Trong trung đội
anh, tên nào bị bắt gặp đang nghe chương trình Dạ Lan là anh buộc đi ứng
chiến ngay."
Rồi giải thích:
"Ứng
chiến có nghĩa là không được động đậy, chỉ nằm mai phục một xó giao
thông hào, bọn Việt Cộng chẳng thể tìm ra địa điểm. Vì vậy, làm sao còn
nghe radio cho được?"
Anh
vẫn tự nhiên cười nói --các câu chuyện của anh thường rất sống động--
và tôi vẫn tính nết nhu mì khép kín. Giữa hai chúng tôi chưa hề tỏ cho
nhau thấy chút gì quá đà trên giới hạn giao thiệp. Tôi chẳng một lần
nghe anh buông lời suồng sã. Cũng chưa hề bao giờ anh dám nắm lấy tay
tôi. Luôn luôn, trong mọi lời nói, cử chỉ, anh đều tỏ nên một sự tôn
trọng vô cùng đặc biệt. Nhưng, tự âm thầm đâu đó trong tiếng đập của
trái tim, cả anh và tôi đều biết rằng có một tình yêu vừa độ lên ngôi.
Những câu chuyện buổi tối thứ Hai 22/4/1967
hôm ấy làm loãng tan dần trong đầu tôi nỗi ám ảnh theo cánh hoa hồng
màu đen ghê rợn. Đêm đang độ mùa trăng. Ánh trăng rằm vằng vặc trải kín
trong sân những luồng sáng màu bạc, nhẹ nhàng hư ảo. Tôi kể cho anh nghe
những điều vẩn vơ trong cuộc sống học đường đầy tính lãng mạn. Đổi lại,
anh không giấu tôi các sinh hoạt bạn hữu và cuộc sống chiến chinh.
Tuy
nhiên, có nhiều khi, một giây thật ngắn, anh chợt ngừng lại, nhìn mông
lung ra ngoài cửa sổ. Những khi ấy, khuôn mặt anh đột nhiên biến đổi,
đôi mắt lắng trầm trong cái hố cùng suy tưởng. Trông anh thật xa, xa đến
chừng như không thể nào vói tới. Trong ý thức mờ tối của một đứa con
gái ngây thơ, tôi thốt nhiên sợ hãi. Con người yêu dấu trước mặt không
phải sinh ra để dành cho tôi. Anh thuộc về đại đồng của một dân tộc giờ
đây đã vĩnh viễn bị xóa tên trên bảng đồ thế giới. Cái tâm sự riêng, anh
không ngờ tôi đã tỏ. Và đó chính là điều vừa như thắt chặt tấm tình
tôi, lại cũng vừa tạo nên trong tôi cái ấn tượng mạnh mẽ rằng "cho đến cuối đời, tôi và anh vẫn chẳng thể đi trên cùng một con đường với nhau."
Trông anh cơ hồ phấn khởi:
"Anh
còn bà mẹ già và một người chị, lớn hơn hai tuổi. Nhà anh nghèo lắm,
cái nghèo lồ lộ như nàng con gái không có gì che thân cho ấm."
Tôi nghe chừng giữa trái tim có luồng suối ngọt chảy qua trong ấy. Nét mặt anh tươi cười:
"Ngày
mai anh trở ra Quảng Trị. Ba tháng tu nghiệp qua đi nhanh quá. Nhưng
anh hy vọng sau chuyến hành quân sắp đến, anh sẽ có được cái phép dài
hơn, về đây thăm em."
Đột nhiên anh như chớm phần ngần ngại:
"Trong
dịp này, anh sẽ xin phép mẹ đưa em đi chơi Phan Rang một chuyến. Anh sẽ
hướng dẫn em từng nơi chốn trong vùng đất khốn khổ để em thấy rõ thế
nào là cái nghèo của quê hương anh, như anh nói vừa ban nãy."
Ánh nhìn anh bao trùm khuôn mặt tôi, thật sâu và tha thiết:
"Em có muốn làm điều ấy không?"
Tôi cúi đầu đáp nhỏ:
"Em mong được như thế. Mong có ngày tìm đến tận nhà thăm mẹ và người chị của anh."
Khi
từ giã tôi dưới giàn bông giấy, trông anh rõ ràng luyến lưu như có điều
muốn nói. Tôi đứng im chờ đợi. Tần ngần một lát, anh cỡi lên chiếc honda, hai chân bỏ thõng trong thế ngồi chuẩn bị. Quay nhìn tôi, anh nói thật nhanh:
"Anh sẽ trở về. Em hãy chờ anh!"
Xong, chiếc xe được rồ máy, phóng vào đêm tối.
*
* *
Buổi tối thứ Tư 15/5/1967,
mưa rơi tầm tã. Vào mùa hè, trời Sàigòn vẫn thường có những trận mưa
dầm như thế. Từ trường Nhạc về, ngồi nơi bàn học nhìn từng chuỗi mưa
liên tiếp đổ màu trắng xóa, tôi nghĩ nhanh đến bãi chiến trường có anh
đang đồn trú, lòng chợt như thắt lại thật xiết. Một cách máy móc, tôi
bật lên chiếc radio, lạ lùng sao lại rơi đúng vào giờ phát
thanh của chương trình Dạ Lan. Tôi giơ tay định vặn nút tắt, nào dè,
giọng nói nũng nịu của người nữ xướng ngôn viên rõ ràng từng chữ làm tôi
khựng hẳn:
"Cố
Thiếu Tá Lê Văn Huệ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 Nhảy Dù vừa tử trận
trong cuộc hành quân, đêm... tại chiến trường Khe Sanh, Quảng Trị. Chúng
tôi, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính trong Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù xin
chia buồn cùng gia đình Thiếu Tá và cầu nguyện cho vong linh Thiếu Tá
chóng phiêu diêu nơi miền cực lạc."
Nỗi
thảng thốt vô cùng ập nhanh khiến như làm nghẹn trái tim tôi đang rung
lên từng cơn sợ hãi. Tiểu đoàn 9 là tiểu đoàn có anh tham dự và Thiếu Tá
Lê Văn Huệ là tiểu đoàn trưởng của anh.
Tôi chụp giấy bút, viết cho anh vài dòng vội vã:
"Sàigòn thứ Tư 15/5/1967
Anh,
Em
vừa nghe đài Quân Đội để biết rằng Thiếu Tá Lê Văn Huệ đã tử trận. Còn
anh thế nào? Sao em lo sợ quá. Anh hãy cố giữ gìn thân thể, trở về với
em như lời đã hứa. Em chờ đợi để được một lần theo anh về thăm vùng quê
hương nghèo khổ của anh!"
II.
Trước
một hàng quan tài độ chục cái trong nhà nghĩa tử đường nghĩa trang quân
đội, hai bàn tay tôi và cô bạn gái đan vào nhau thật xiết. Tôi nhìn tấm
ảnh anh đặt trên cái nắp hòm thứ ba tính từ bên trái. Khuôn mặt chữ
điền, đôi mắt sáng quắc, nụ cười rất tươi đưa ra những chiếc răng đều
đặn; trên đầu, chiếc mũ Nhảy Dù đội lệch sang một phía. Trong óc tôi
vang vang lời nói anh một ngày không xa trước đó: "Anh sẽ cố lấy cái phép về Sàigòn trước ngày trình diễn của em."
Âm
giọng dịu dàng cũ chưa kịp hội tụ thành hình ảnh kỷ niệm trong một đêm
trăng có những luồng sáng lung linh chiếu qua cửa sổ căn phòng khách
đẹp, đã bị lấn át và loãng tan theo sự gợi nhớ cuộc hiện hữu bất ngờ của
người Trung sĩ Nhảy Dù mới vừa ban trưa trước ngưỡng cửa nhà mẹ tôi.
Giọng ông la lớn:
"Cho tôi gặp cô Thu Vân!"
Tôi và người cậu út từ trong nhà bước vội ra. Trái tim tôi đập mạnh. Một nỗi bất an lan tràn cơ thể.
Tiếng nói chắc nịch bằng giọng Quảng Trị, hệt như tiếng tuyên án của Tử Thần, vang lên tàn nhẫn:
"Trung úy Thuận Văn Chàng đã tử trận trên chiến trường Khe Sanh Quảng Trị đêm 27/5."
Cậu tôi hỏi nhanh: "Sao?"
"Một viên đạn bay đến, ghim suốt qua trán Trung Úy."
Hai tai tôi lùng bùng, cả thân hình cơ hồ sắp ngã. Viên trung sĩ thản nhiên nói tiếp: "Chúng
tôi liên lạc mãi, chẳng thấy người nhà nào của Trung Úy đến nhận xác.
Quan tài đang quàn ở nghĩa tử đường Nghĩa trang Quân đội. Nhờ lá thư này
trong túi áo Trung Úy nên theo địa chỉ mà đến báo tin. Đây, xin trả lại
nó cho cô!"
Và ông chìa lá thư ra.
Đó
là lá đầu tiên, cũng là lá cuối cùng tôi viết cho anh một đêm tháng 5
từ trường Nhạc trở về, vừa cách đây đúng ba tuần lễ. Tôi cầm tờ thư trên
tay, ngẩn ngơ tâm trạng. Viên trung sĩ nói thêm nhiều điều với anh tôi,
nhưng tôi không còn hiểu gì nữa. Tôi bước vội vào phòng riêng. Hai cánh
cửa tủ áo mở ra, chiếc soirée có búp hoa hồng màu đen đập
nhanh vào mắt, giống hệt cái cười của Tử Thần vẫn thường nhìn thấy trên
các bức tranh trong chuyện cổ tích. Tôi rùng mình sợ hãi; rời căn nhà
như ma đuổi, tìm đến cô bạn gái, chạy xe lên Nghĩa trang Quân đội Biên
Hòa ngay.
Buổi xế trưa (thứ Hai ngày 3/6/1967)
chuyển dần sang màu trời chiều ảm đạm. Nghĩa trang âm u, cỏ mọc cao
chung quanh các hàng mộ chạy dài thành những đường thẳng tắp. Tôi đứng
lặng trước dãy quan tài trong nhà nghĩa tử đường sáng choang ánh bạch
lạp, cố tập trung tất cả những gì gọi là kỷ niệm về anh, gom thành một
khối... Tuy nhiên, rõ ràng một điều là trí óc tôi lạc trôi đâu mất. Các
hình ảnh cũ như rời ra thành từng mảnh nhỏ... Nhìn lên tấm ảnh anh, cái
cười rất tươi trên khuôn mặt chữ điền có đôi mắt sáng quắc vẫn không làm
nhẹ đi trong tôi điệp khúc "Anh chết thật rồi! Chết thật rồi!" khiến trái tim từng hồi quặn thắt.
Phải!
Anh chết rồi, chết thật rồi. Không bao giờ nữa anh còn trở về thăm tôi
trong bộ đồ Dù kiêu dũng. Không bao giờ chúng tôi còn nhìn thấy lại
nhau. Bao nhiêu mộng ước đồng loạt tan biến. Mộng của một ngày được ôm
trong đôi tay rắn chắc về thăm quê hương Chàm xa lắc. Mộng của một kiếp
đời nghệ sĩ có anh ngồi đợi đêm đêm... Ôi! Sao mà thật thảng thốt đau
lòng với những ý nghĩ đó...
Thật lâu, người bạn gái lắc nhẹ tay tôi:
"Thôi mình về! Trời sắp tối rồi. Ở muộn đây, nguy hiểm lắm!"
Tôi
nhìn ảnh anh, rồi lại nhìn tờ thư trên tay, âm thầm ngỏ lời vĩnh biệt.
Lá thư được gửi theo địa chỉ KBC 4804, sau cùng đến kịp tay anh trước
khi tử trận. Anh đã đọc nó. Đã hiểu lòng tôi. Tấm lòng của một đứa con
gái ngây thơ lần đầu biết yêu và cũng lần thứ nhất nếm mùi tuyệt vọng
đưa lại từ tình yêu.
[]
Sàigòn thứ Tư ngày 5/6/1967.
Buổi
sáng cùng một người bạn lên Nghĩa Tử đường Nghĩa trang Quân Đội Biên
Hòa thì thấy suốt dãy hòm dài đã không còn quan tài anh (và của Chuẩn úy
Ngô Vinh Thăng). Tâm hồn tôi cũng trở nên vô cùng hoang lạnh vì điều
trống vắng đó. Từ đây anh trở về vùng đất nơi anh chào đời và sẽ còn ôm
ấp thân hình anh mãi mãi. (Lẽ ra, chuyến đi này phải có tôi hiện diện
bên cạnh...) Trái tim sao chỉ tràn đầy sự tuyệt vọng suốt trong buổi
sáng...
Chúng
tôi lại đi đến hậu cứ Nhảy Dù, trại Hoàng Hoa Thám vùng Ngã tư Bảy
Hiền, hỏi thăm thêm nữa về anh. Đứng lại trên cái nơi mà hai năm qua anh
từng hiện diện, trong tôi rõ ràng như bị dày vò bởi sự nuối tiếc. Hai
năm trời, nếu gặp lại anh từ trước, tôi hẳn sẽ không phí hoài thời giờ
cho những chuyện viễn vông nào "không phải là anh"!
Trên
đường về, trời mưa thật lớn, ngồi sau lưng Mạnh mà nước mắt cứ tuôn
không ngớt theo những ý tưởng miên man cuồn cuộn. Ôi! Nếu không nằm
xuống trong trận này, anh hẳn sẽ lấy được cái phép về thăm tôi, dự cuộc
thi tốt nghiệp của tôi, và đem cho tôi cuốn album Võ Bị. (Tưởng
tượng với cái lối nói đùa rất có duyên mà ngồi kê khai từng người bạn
đồng Khóa, chị em tôi sẽ không nhịn được cười...) Vậy mà đến ngay điều
nhỏ bé này, từ nay với tôi cũng sẽ trở thành nỗi đời đời tiếc nhớ.
Lúc
2 giờ chiều trong trường Nhạc, đứng từ trên sân khấu nhìn xuống thính
đường im vắng, trái tim đau như thể có ai đang cầm lấy nó mà xiết mạnh.
Lời hứa trở về dự cuộc thi tốt nghiệp ngày 12/6/ tới đây như còn văng
vẳng bên tai...
Vậy mà...
Khuôn mặt Định Mệnh hé lộ trong cuộc đời tôi rất sớm. Mười tám tuổi, tâm tư còn hoàn toàn trong sáng; không ngờ một lúc thật nhanh, tôi thấm cảm được hai chữ "Vô Thường" theo mọi thứ chungquanh một cách thật rõ rệt đắng cay.
III.
Gần
10 năm trôi đi, cuộc đời tôi trải qua rất nhiều thống khổ. Bấy giờ hình
ảnh anh không còn là mối buốt nhức dữ dội trong trái tim mỗi lần nghĩ
đến, mà nó trở nên dìu dịu mang mang, nhưng cũng không kém phần thương
cảm xót xa.
Một
lần theo đoàn cải lương Sàigòn III lưu diễn Phan Rang, ban ngày không
hát, tôi tìm vào tận ấp Mường Khai xa tít, vùng quê hương anh nghèo nàn
khốn khổ. Hai bên con đường trồng hai hàng cây sao, cành lá tỏa ra rậm
rạp. Những người Chàm bên trong các dãy nhà san sát lụp xụp, ngó tôi đi
qua bằng ánh nhìn chịu đựng. Tôi phải hỏi thăm mãi mới tìm thấy căn nhà
lợp bằng mái lá, vách đất, có bà mẹ già anh cư trú, nằm đầu bìa một cái
xóm nhỏ, sát ngay biển. Trước sân, một đám con nít áo quần bẩn thỉu,
chơi đùa ầm ĩ. Tôi tự giới thiệu mình là ai. Bà cụ khoảng 70 tuổi, dáng
hom hem còm cõi, và cả người chị gái giống anh như đúc, đều không biết
tiếng Việt, nên không hiểu tôi muốn nói gì.
Tôi đứng ngẩn ngơ. Bỗng dưng, một người đàn ông từ trong bước ra, tự nhận là anh rể anh. Ông mời tôi vào nhà.
Khoảng
không gian rất hẹp theo chiều ngang, chia thành hai gian, chạy dài ra
khoảng đất trống phía sau. Gian ngoài --được ngăn cách với gian trong
bằng một bức vách ván-- có kê chiếc bàn và bốn chiếc ghế lắc lư chân
cẳng. Cái kệ thờ anh đặt trên mặt tủ nhỏ, kề sâu trong góc.
Tôi
ngồi nhìn quanh nơi chốn anh từng chào đời và lớn lên trong thời niên
thiếu. Rõ ràng “cái nghèo lồ lộ” hiện hình ra trên từng góc cạnh. Nhớ
lại câu chuyện nghe thầm đêm nào tại căn nhà màu gạch đỏ trên đường Yên
Đổ, trái tim tôi bất chợt chùng xuống trong một nỗi ngậm ngùi khôn tả.
Bấy giờ là năm 1977, cuộc đổi đời vừa tròn hai tuổi! Hai năm ròng, tôi
theo một đoàn cải lương lưu diễn khắp các chân trời góc bể của Việt Nam.
Một thoáng rùng mình, tôi bỗng nhìn ra rất rõ cái điều "Vì đâu tôi rung động tức thì theo những lời anh nói buổi khuya hôm ấy?" Mối sầu cố xứ, không chỉ riêng anh và dân tộc Chàm, mà ngay cả tôi cũng đang thụ cảm vô cùng sâu sắc. Tôi đi tìm đất nước tôi trên chính những vùng trời quê hươnggiờ đây đã thay tên đổi chủ.
Lịch sử đã sang trang! Một trang sử không chút oai hùng, nhưng cũng
không chối rằng đã ghi dấu quá nhiều đau thương thống khổ. Và lịch sử
lại tái diễn. Bấy giờ, không chỉ những người Chàm ngồi bán buôn rải rác
nơi đầu phố chợ khu Hòa Bình, Dalat, mà còn biết bao chục triệu người
Miền Nam phải mang bộ mặt u trầm chịu đựng trong căn nhà quê hương đã
không còn là của mình sở hữu. Mối hờn vong quốc thuở nào từng xảy ra cho
dân tộc Chàm, ngay chính lúc này đây, dân tộc tôi cũng phải gánh chịu,
nhưng dưới nhiều khía cạnh khác càng bất hạnh thảm thiết hơn.
Tôi
nhìn tấm ảnh anh. Mới đó mà đã gần 10 năm! Cái tuổi ngây thơ của tôi,
theo thời gian, trôi nhanh đi mất. Thảng hoặc nhìn thấy các người Chàm,
tôi cũng se lòng nghĩ đến anh, nhưng tình cảm chóng biến tan như cơn gió
thoảng. Mọi thứ trên đời, dẫu kiên cố đến đâu, đều bị xói mòn theo năm
tháng. Tôi biết vậy. Tấm tình tôi cho anh cũng không ra ngoài quy luật
đó. Nhưng còn anh, tôi không tin rằng anh siêu thoát theo cái chết tức
tưởi khi mái đầu còn xanh màu tóc. Và, dưới lòng mộ sâu, tôi chẳng thể
nghĩ được điều linh hồn anh đã hết vấn vương hoài bão ngày xưa.
Tôi
cứ vậy ngồi yên thật lâu, cúi đầu nhìn xuống sàn đất. Người anh rể ngồi
đối diện. Sự tĩnh lặng của một buổi trưa nắng cháy bao trùm mọi thứ,
bao luôn cả tiếng lòng tôi đang hồi đảo điên xúc động. Tiếng xạc xào từ
những cành lá nơi bụi cây dương xỉ quanh sân, vang lên những âm thanh
buồn buồn, rười rượi. Lúc bấy giờ, tôi tin rằng mình hiểu được chiều sâu nỗi niềm anh cưu mang thời tuổi trẻ.
Lúc bấy giờ, tôi chợt thấy mừng cho anh khi so sánh cái cảnh "hai hàng lính nghiêm trang bồng súng, chào chiếc quan tài có phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ đang từ từ tiến về huyệt mộ", với "một
hàng súng giơ cao, nhắm thẳng vào con người đang bị bịt mắt trói chân
nơi cột, trên cái pháp trường Phú Thọ, một buổi sớm tinh mơ."
Nơi
kệ thờ đặt chiếc ảnh anh có nụ cười rạng rỡ; tấm ảnh tôi từng nhìn thấy
trên nắp quan tài nhiều năm trước đó. Tôi thoáng rùng mình vô cớ. Trời
đang trưa nóng bức mà tưởng như vừa có luồng khí lạnh lan tràn mọi chỗ.
Kỷ niệm đêm cuối cùng ngồi với anh trong căn phòng khách nhà mẹ tôi quay
cuồng trí nhớ... Điệu cười sang sảng, ánh mắt tươi vui, những lời hứa
hẹn, và nhất là cái ý nghĩ "trọn đời muốn được chia xẻ hoài bão cùng anh"... Tất cả... Tất cả...
Trong một giây thật ngắn, tôi tự kiểm với lòng câu hỏi: "Nếu
như ngày đó anh không lìa đời sớm, liệu tôi có cảm nghe hạnh phúc khi
theo anh về chung sống với những con người xa lạ trong căn nhà bé như
cái ổ?"
Câu
hỏi cứ trở đi trở lại hoài làm tôi đột nhiên nghẹn thở. Tôi bước nhanh
ra cửa, hít làn khí trời vào trong buồng phổi. Quay mặt lại, hướng về
phía bàn thờ, thấy cái cười anh biến thành như giễu cợt, đôi mắt chiếu
thẳng vào tôi ánh nhìn dò xét. Tôi chợt thấy mình buồn lả. Không phải
tôi đang tự hỏi, mà chính là "anh đang muốn hỏi tôi."
Tôi
bỗng mỉm cười nhìn lại anh, bước tới cầm nén nhang người anh rể vừa đốt
đưa cho, cúi đầu lạy anh, thì thầm trong miệng những lời chân thật:
"Anh
đừng nhìn em cách cợt đùa như thế! Bây giờ anh đã là người thiên cổ,
hẳn linh hồn có thể xuyên thấu trái tim em để hiểu rõ điều gì em từng
nghĩ. Nếu anh không bỏ em mà đi sớm quá, giờ phút này, biết đâu chúng ta
cũng đã có một đứa con cùng đang chạy nhảy trong cái lũ con nít ngoài
sân kia?"
(San Jose, Cali. Thứ Sáu, 22/3/1996,
đúng vào buổi khuya sau khi “ra khỏi” đời TNH!)
[]
ĐOẠN KẾT CÂU CHUYỆN VỀ MỘT LỜI HỨA
(Tâm Bút)
Tháng 9/2004,
có một câu chuyện bất ngờ đưa đến với tôi. Cái nhìn bi quan về nhân thế
và sự sợ hãi lòng người vốn đã đầy trong tôi, nay lại càng thêm tràn ứ.
Một câu chuyện lạ kỳ kéo dài từ khi tôi 18 tuổi cho mãi đến tận bây giờ
vẫn chưa kết thúc. Và chợt nhận rõ một điều từ lâu lắm rồi tôi thường
chiêm nghiệm. Đó là cái dấu ấn cô đơn oan khuất khắc ghi trên trán tôi
đã được phơi bày không cách này thì cũng là cách khác thôi.
*
* *
Mùa hè 2004
trở về VN, tôi được một người bạn tặng cho cuốn Lưu Niệm Võ Bị Khóa 20
Dalat tình cờ anh có được. Lần đầu cầm trên tay cuốn sách khổ lớn dày
520 trang, tôi thốt nghe lòng rung động mãnh liệt. Nhớ lại đêm nào trong
căn phòng khách ngôi nhà màu gạch trên đường Yên Đổ Sàigòn cũ, anh
Thuận Văn Chàng đã nói với tôi: “Hôm nào anh sẽ đem về cuốn Lưu Niệm Võ Bị 20 để em xem có thằng bạn cùng khóa nào được em vừa ý, anh sẽ làm ông mai cho.”
Người
xưa đã chết từ lâu lắm vậy mà bây giờ lời hứa của ba mươi tám năm xưa
mới được thực hiện. Trước mắt tôi như phô bày rõ hình ảnh một con người
cao lớn với cái cười ngạo nghễ, chiếc mũ Nhảy Dù đội lệch sang một phía,
đôi mắt u trầm những hoài bão lớn. Trái tim từng hồi quặn thắt, tôi
không ngờ trong cuộc đời, mình lại từng gặp một câu chuyện lạ kỳ như câu
chuyện buổi nay.
Đem
cuốn Lưu Niệm về Mỹ, trong mấy ngày liên tục, tôi ngồi đọc từng giòng
lưu bút của hơn 400 sinh viên sĩ quan Khóa 20 Võ Bị Dalat, lòng nghe
rưng rưng xúc cảm. Đây là biểu tượng cho một quê hương lớn lao đã mất,
một trang sử đầy dấu tích đau thương của đất nước thời kỳ 1965-1967. Đây
cũng là biểu tượng cho tuổi trẻ của tôi và rất nhiều con người cùng
chung thế hệ. Thứ tuổi trẻ không phải để sống trong vui đùa hay mơ ước,
mà chính là đối diện và cưu mang trên vai những trách nhiệm và nỗi đau
theo một dân tộc bị dập vùi khốn khổ không ngớt bởi chiến tranh.
Vào
cái thuở hào hùng của tuổi hai mươi, tâm hồn các con người trẻ này còn
cao quý quá với lòng ái quốc, với tư tưởng muốn dâng trọn đời mình cho
Tổ Quốc. Hơn bốn trăm khuôn mặt tinh anh là hơn bốn trăm hoài bão mong
làm được một cái gì cho đất nước tang thương.
Đẹp
quá đến dường muốn ngợp! Tôi tự thấy mình không có quyền giữ riêng mà
không chia xẻ với những cựu sinh viên Khóa 20 Võ Bị đang còn sống rải
rác khắp nơi trên thế giới những gì ngày xưa họ từng có. Nên, gửi đăng
một cái nhắn tin nhỏ trên diễn đàn VN Nhật Báo ở San Jose, cho hay rằng
tôi hiện đang giữ trong tay cuốn Lưu Niệm Võ Bị Khóa 20, những anh em
nào muốn xem, cứ liên lạc e-mail với tôi.
Lời nhắn vừa đưa ra, lập tức có nhiều lời đáp ứng. Với bất cứ ai, tôi cũng đều rất vui lòng làm cái hành động photocopy
một trang nào đó có ảnh và lưu bút của họ gửi đi cho họ. Trong số, đặc
biệt có một cựu SVSQ Khóa 19 Võ Bị, (tên Trần Văn Long) hiện đang ở
Montréal, Canada, là tỏ ra nồng nhiệt hơn cả theo câu chuyện cuốn Lưu
Niệm 20 ly kỳ này.
Có
những tấm ảnh đã ố vàng gắn ở những trang sau cùng cuốn Lưu Niệm, chụp
vào buổi lễ mãn khóa, trong có ảnh cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thời
1967 còn là một Trung Tướng, gắn lon thiếu úy cho vị tân thủ khoa. Đó
là những tấm ảnh lịch sử. Và nhờ vị cựu sinh viên Khóa 19 ở Canada mà
tôi biết được rằng cuốn sách tôi đang có trong tay chính hoặc là cuốn
lưu của Trường, hoặc thuộc về viên cựu thủ khoa.
Thư qua thư lại “nhận bà con”,
tôi đọc được rất nhiều mời mọc từ mọi phía, nhưng luôn luôn từ chối
tham dự những lần họp mặt. Từ lâu, sự cô đơn và cô độc đã gắn chặt vào
tim, nên tôi không còn muốn tìm đến bất cứ cuộc vui nào đông đúc con
người. Tuy nhiên, cũng vì cuốn Lưu Niệm mà sau những từ chối, tôi thấy
cần phải mời ngược lại những đồng bạn cũ của “người xưa” như một hình thức đáp lễ. Họ nhận lời sốt sắng.
Vậy
là vào một buổi chiều chủ nhật đầu tháng 9/2004, cặp vợ chồng vị thủ
khoa (tên Quách Tinh Cần) cùng ba cặp vợ chồng cựu sinh viên sĩ quan Võ
Bị 20 khác tìm đến nhà tôi.
Cái nhìn đầu tiên của tôi về tám con người này là sự ngạc nhiên. Ngạc nhiên trước cái vẻ rất an bình toại ý của họ theo đời sống vật chất ở Mỹ. Ngạc nhiên khi không thể nào hình dung nhữnggiòng những chữ hào hùng tôi từng đọc trong cuốn Lưu Niệm 20 lại có thể được viết ra từ chính những con người đang hiện diện trước mắt tôi.
Có
cái gì u uất cứ lan tràn tâm thức, tôi nhớ lại anh Thuận Văn Chàng, anh
Nguyễn Ngọc Thùy, những người tình năm cũ đã phải giã từ cuộc đời trong
cái tuổi còn rất nhiều mơ mộng; nhớ lại hình ảnh tang thương của những
người lính Nhảy Dù gục chết hai bên con đường Võ Di Nguy Sàigòn trong
những ngày hấp hối của đất nước điêu linh; nhớ cái dáng gầy và khuôn mặt
đầy nét ưu tư của vị Thiếu Tá Dù tôi từng gặp năm 1973 trong chuyến lưu
diễn ở Cổ Thành Quảng Trị; nhớ tất cả những người bạn, người thân trong
binh chủng oai hùng này đã nằm xuống vì một thứ tàn ác phi lý của cuộc
chiến Bắc Nam...
Tôi
nhớ và nhớ thật nhiều những gì thuộc về dĩ vãng, lòng nghe quặn thắt.
Có lẽ tôi đã quá ngưỡng mộ những hình ảnh đó mà quên mất điều rằng Thời
Gian đã tàn phá tất cả. 38 năm dâu bể đủ khiến ngay cả đến núi sông còn
bị bào nhẵn nữa là Con Người nhỏ bé. Nhưng thật, tôi vẫn mãi là như thế
khi luôn luôn ngậm ngùi theo những gì đã mất. Và cái nhìn ngạc nhiên tôi
viết ở trên đã phát sinh từ cái ý tưởng “như thế” trong tôi.
Trong
buổi tiệc chiều Chủ nhật, khi được các chị vợ Khóa 20 hỏi về lai lịch
sự liên hệ tình cảm giữa tôi và anh Thuận Văn Chàng, tôi bèn kể đúng y
như những lời đã viết trong tác phẩm Thương Tội Đời Nhau chào
đời năm 1996. Có một bà vừa mới qua Mỹ theo diện HO của chồng, kể rằng
dạo 1967 ấy, bà có đến Nghĩa Tử đường Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa,
thấy cái quan tài anh Chàng nằm chơ vơ không ai thăm viếng. Bà đưa ra
câu hỏi:
“Khi anh Chàng chết, chị có đưa xác anh ấy về Phan Rang?”
Tôi ngớ người, thành thật:
“Không. Khi ấy còn nhỏ quá, làm sao dám tự ý qua mặt gia đình để làm như vậy.”
Tức thì thấy cả đám “à” lên một tiếng kinh ngạc.
Một ông từng là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, điệu còn rất võ biền, ồn ào đưa ra câu hỏi:
“Thế khi quen anh Chàng, chị có hay đến trại Hoàng Hoa Thám thăm anh ấy?”
Tôi lắc đầu. Bà vợ ông này nói liền nhận định:
“Như vậy là chị với anh Chàng chỉ mới quen nhau chứ đã có gì sâu đậm đâu!”
Trong câu nói, tôi cảm nhận ra sự “khinh thường” khi biết tôi chẳng phải liên hệ sâu đậm gì với một người Võ Bị Khóa 20, nghĩa là không đáng cho họ kết vào hàng “chị em dâu”.
Bỗng
dưng tôi tự thấy thật ngậm ngùi cho chính mình không ít. Ba mươi tám
năm, cảnh đời biến đổi, tang thương dâu bể không biết đàng nào mà nói,
vậy mà tôi vẫn giữ cho đến ngày nay những tập nhật ký viết về anh Chàng
một cách trân quý hệt như thuở nào còn nhỏ. Thêm nữa, nhìn lại chính
mình và các bà vợ Khóa 20, nhất là bà vợ ông thủ khoa, thấy quá khác
biệt. Họ trông ra dáng các bà, bệ vệ từ bề trong ra đến bề ngoài, còn tôi thì cứ mãi là một thứ nghệ sĩ nhìn cuộc đời bằng cặp mắt lãng đãng mây trôi...
Suốt cuộc tiệc buổi chiều, trên môi vẫn nở ra những nụ cười rất tươi mà thật lòng tôi cứ mang mang câu hỏi: “Lời hứa của 38 năm xưa, phải chăng ngay chính lúc này đây, anh Chàng đang thực hiện?”
Anh chẳng những đã “đem về” một cuốn lưu niệm, lại còn xui khiến cho tôi có dịp “chọn lựa”
một người trong đám bạn đồng khóa của anh. Có cái gì rất linh thiêng và
lạ kỳ trong những nhận thức đó. Phải chăng anh đã phải nán lại cõi âm
mấy chục năm để kiếm cho được người xứng đáng có thể thay mình giải lời
đã hứa? Phải chăng vong linh anh vẫn còn chưa siêu thoát nếu không làm
cho được lời hứa với tôi 38 năm xưa?
Thật.
Mấy chục năm, cuộc đời tình ái của tôi long đong ghê gớm có lẽ là do sự
ám ảnh của người đã khuất. Từ gần hai tuần qua loay hoay theo các lá
thư nhận của các cựu sĩ quan Võ Bị 20, suy nghĩ về một kỷ niệm được vùi
chôn từ 38 năm trước, tôi nghiệm ra điều rằng: Trong cái định mệnh rất đào hoa, anh Thuận Văn Chàng chỉ là một người “đi qua” đời tôi nhưng đã để lại một dấu ấn thật mạnh mẽ. Đó là sự nhận định ra rất sớm tính chất Vô Thường của mọi thứ.
Cái chết quá trẻ của anh đã cho tôi thấy rằng trên đời chẳng có gì là
vĩnh cữu. Tất cả đều Vô Thường, sống đó rồi chết đó, khi chết rồi chẳng
còn được ai nhớ đến, ngay cả những người rất thân yêu, theo thời gian
cũng lãng quên thôi!
Với anh cũng vậy, một cách thành thật, tôi phải nói rằng đã quên anh từ lâu lắm, như quên một người vắng mặt. Nhưng cảm nghĩ Vô Thường tạo ra từ cái chết anh vẫn mãi đeo đuổi theo tôi trong suốt mấy chục năm.
Một điều đáng buồn là dù bằng e-mail hay diện kiến sơ khởi buổi hôm nay, tôi chẳng “lựa”
được người nào vừa ý để anh có thể phủi tay mà đi đầu thai kiếp khác.
Tại sao? Những tư tưởng cao quý yêu nước thương nòi của cái tuổi hai
mươi tôi đọc được qua từng lời viết trong cuốn Lưu Niệm ngày xưa, nay
không còn nữa. Thế vào đó chỉ là cái vẻ bằng lòng và tự mãn theo một đời
sống mà trong đó những gì thuộc về tinh thần đều dễ dàng bị làm cho
thui chột đi.
Không
trách được vì con người vốn là như thế. Chẳng mấy ai trên đời muốn làm
cái hành động lội ngược dòng sông. Chỉ trách là trách chính tôi theo một
cái nhìn rất xa rời thực tế. “Khi chưa đến Lạc Dương cứ ngỡ rằng Lạc Dương vui lắm. Đến Lạc Dương rồi thì Lạc Dương vẫn là Lạc Dương, mà ta vẫn là ta”.
*
* *
Trong
buổi tiệc, lúc cuốn Lưu Niệm 20 chưa được đem ra, tôi thành thật nói
lên nghi ngờ rằng cuốn ấy là của vị thủ khoa đang hiện diện.
[Điều
này tôi đã từng viết kể với vị niên trưởng Võ Bị 19 ở Canada theo mặc
cảm “có tội” nếu giữ trong tay một kỷ vật của kẻ khác. Câu trả lời của
vị này đã giải tỏa giùm tôi cái mặc cảm ấy: “BG phải biết mọi sự trong
đời chỉ nằm trong cái vòng Duyên-Nghiệp. Vị thủ khoa Khóa 20 đã có cái
duyên gặp cuốn Lưu Niệm. Nhưng chính BG mới là người có duyên giữ nó 38
năm sau. Tôi cũng nghĩ đến sự chí tình của người bạn ở Dalat, cảm thông
được nỗi lòng tác giả Thương Tội Đời Nhau mà không nề hiểm nguy đến tính
mạng, đến gia đình; che giấu và giữ gìn cuốn Lưu Niệm mà trao tận tay
BG. Nếu là tôi trong trường hợp đó, tôi chỉ đủ can đảm xé trang lưu niệm
của Thuận Văn Chàng giữ lại cho BG thôi.”]
Thì vị thủ khoa Võ Bị 20 này, một người thân hình cao lớn, cường tráng, đã đáp lời tôi:
“Tôi là người tứ đại giai không (!?), nếu có đúng là cuốn của tôi chăng nữa, cũng xin tặng lại cho chị.”
(Câu này được nói ít nhất là hai lần.)
Khi
cuốn Lưu Niệm 20 được đưa ra giữa bàn tiệc, tám cái đầu cùng chụm lại
xem, vẻ háo hức ham muốn. Lời thứ nhất được nói lên từ bốn vị cựu sĩ
quan là “Cuốn này được Cộng Sản in lại chứ không phải cuốn thật!” Nhưng sau một hồi chuyền tay nhau xem xét rất kỹ từng trang sách, vị thủ khoa kết luận: “Đây chính là cuốn gốc ngày xưa!”
Khuôn
mặt ông bỗng như xạm lại, vẻ xúc động rõ rệt khi nói lên lời xác nhận.
Ông cứ cầm cuốn sách trong tay, chung quanh là ba người đồng khóa. Bà vợ
ông lên tiếng trước tiên, nằn nì nhiều lần, xin tôi “cho” lại chồng bà ta cuốn Lưu Niệm.
Tôi ngồi im trước các lời nằn nì ấy.
Thế rồi lần lượt người này qua người kia, đặc biệt là vị sĩ quan Biệt Động Quân ồn ào, luôn cả chính vị thủ khoa, đều ngỏ ý “xin” tôi trao lại cuốn Lưu Niệm cho Khóa 20.
Vị sĩ quan Biệt Động bày tỏ:
“Vì
tình cảm giữa chị và anh Chàng thì hiện tại chị giữ cuốn này là đúng.
Nhưng thử nghĩ, sau này khi chị không còn nữa, cuốn Lưu Niệm nếu lọt vào
tay con cái chị sẽ không được quý cho bằng vào tay con cái chúng tôi.
Nhờ đó chúng sẽ biết được về cha ông chúng, những người đã từng là lính.
Vậy, tôi đề nghị chị nên trao lại cho chúng tôi giữ thì hơn.”
Tôi
thấy gần như xiêu lòng trước những lời nằn nì có phần hữu lý. Tự dưng
cảm nghe hối tiếc rằng sao lại tạo nên buổi gặp gỡ chiều nay. Lòng người
là điều khó lường hơn tất cả. Trong thoáng chốc nhớ lại thật nhanh
những lời thư của vị niên trưởng Võ Bị 19 ở Canada:
“Tôi
lo lắng giùm cho BG. Không biết BG sẽ xử trí ra sao trước sự đòi hỏi,
yêu cầu của những người –nhất là mấy bà vợ Khóa 20- chỉ nghĩ đến cái lợi
cho mình, cho chồng, mà không mảy may hình dung đến sự hiểm nguy, khó
khăn của bản thân và gia đình những người đã lưu giữ, che giấu và qua
mặt cơ quan an ninh phi cảng để mang cuốn Lưu Niệm 20 về Mỹ.”
......
Trí óc lan man nhớ lại thuở nào khi tôi còn rất trẻ...
Ba
mươi tám năm xưa, sau khi anh từ giã gia đình tôi trở ra Quảng Trị (để
rồi tử trận luôn tại đó), mẹ tôi đã nói với cậu út của tôi: “Chị có bốn
đứa con gái. Nếu chú Chàng chọn đứa nào, chị cũng mừng mà cho không nó!”
Câu nói này xuất phát từ một người mẹ Huế rất cổ điển như bà, phải kể
là một điều kỳ lạ. Vậy mà cái số anh không may nên không được nhận chẳng
những tấm lòng tôi mà còn của cả đại gia đình tôi.
... ....
Tôi ngậm ngùi cho anh và cả cho tôi...
Thế
rồi trước những lời nằn nì càng lúc càng trở nên thúc giục, hướng riêng
về viên cựu thủ khoa Võ Bị 20, tôi nói chậm rãi từng chữ:
“Theo
cái huông xấu, thường các ông thủ khoa hay bị tử trận sớm, vậy mà như
anh kể lúc nãy, anh rất may mắn, đi trận nào cũng bình an quay về lành
lặn; lại còn có chị là vợ suốt 38 năm trời, hai người chạy qua được tới
Mỹ ngay từ những ngày đầu mất nước, yêu thương đằm thắm cho tới ngày
nay... thì so với anh Chàng, thấy anh Chàng bất hạnh hơn rất nhiều. Ba
mươi tám năm xưa, anh ấy tử trận sớm, không được hưởng hạnh phúc tình
yêu từ một người con gái trẻ. Bây giờ cuốn Lưu Niệm lọt vào tay tôi cũng ví như anh đang trở về với tôi, nếu tôi từ chối không nhận gìn giữ, hóa ra là quá bạc bẽo cùng người xưa.”
Nhờ câu nói này mà tất cả mới không nằn nì xin xỏ thêm gì nữa.
Sau
khi bốn cặp Võ Bị 20 đã ra về, trong tôi bỗng dậy lên một mối buồn kinh
khủng. Trong chuyện này, tôi thấy có cái gì kỳ kỳ sao đó. Một “âm mưu toan tính” thì phải?
Ngày hôm sau, kể cho vị niên trưởng Võ Bị 19 ở Canada nghe từng chi tiết, người này đã nói:
“Qua
lời BG về buổi họp mặt, tôi chê mấy bạn Khóa 20 là thiếu tế nhị và
không thành thật. Có thể nói hầu hết cựu SVSQ/20 đều biết sự liên hệ
tình cảm thắm thiết giữa BG và Thuận Văn Chàng qua bài viết Người Anh Hùng Mũ Đỏ của
Võ Bị 20 Trương Dưỡng. Buổi họp mặt cốt để mừng cho BG tìm được một kỷ
vật người xưa đã hứa, đâu có phải là dịp tìm hiểu xem tập Lưu Niệm này
thật hay giả? Mà dù có giả đi chăng nữa, chỉ riêng mình BG khổ tâm, chứ
những người khác đâu có gì liên quan?”
Vị niên trưởng này cũng nói:
“Với
anh chàng thủ khoa kia thì tôi chê! Tôi không thích những người đàn ông
tiền hậu bất nhất, nói mà không giữ lời đã nói. Anh ta bảo xin trao
cuốn Lưu Niệm lại cho Khoá 20? Mà trao cho ai đây? Có phải cho chính anh
ta?”
*
* *
Kể từ buổi chiều gặp gỡ tại nhà tôi, tôi không còn nhận được bất cứ lá thư e-mail nào của các người Võ Bị, kể luôn vị niên trưởng Khóa 19. Sự bặt tin quả có phần kỳ lạ nếu đem so với sự quá sốt sắng muốn “nhận người nhà” của thuở đầu tiên.
Bẵng
đi bốn tháng sau, nhân sự chào đời của một tác phẩm mới, tôi có gửi một
bản sang Canada tặng cho vị niên trưởng Võ Bị 19. Một cú điện thoại cám
ơn được gọi sang Cali kéo dài gần hai tiếng đồng hồ đàm thoại. Trong
cuộc trò chuyện, đôi lần tôi nghe anh nói:
“Tôi rất xấu hổ với BG!”
Tôi hỏi tại sao? Anh không giải thích.
Cho đến một hồi, chính anh thú nhận:
“Sau khi không lấy lại được cuốn Lưu Niệm 20, trong các net Võ Bị bỗng thấy ra một thông cáo cho biết rằng TTBG là một thứ Cộng Sản tối nguy hiểm, phải triệt để trừ loại.”
Tôi
thốt ngẩn người. Nỗi hàm oan loại này, tôi từng quá quen trong cuộc đời
từ trước, nhưng thật phải nói, đây là cú hoàn toàn không tưởng được.
Vị niên trưởng 19 nói tiếp:
“Tôi xấu hổ chẳng những với BG, mà còn xấu hổ cho cả truyền thống tinh thần Võ Bị của chúng tôi.”
Tôi cười buồn:
“Cám
ơn anh theo những lời vừa nói. Nhưng thôi, đây chỉ là lại thêm một lần
cho BG được dịp thử thách xem tấm lòng mình có còn trong sáng nữa không
trước miệng đời ác độc. Vàng thật không sợ chi lửa. Ít ra trong dư luận
Võ Bị còn có một người như anh thì sự việc BG trải tấm lòng mình với bạn
hữu của người xưa trong câu chuyện về cuốn Lưu Niệm 20, cũng là không
uổng!
(CÒN TIẾP)
Trần Thị Bi6ng Giấy
0 comments:
Post a Comment