00120 TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ
a.Thời Pasquier (1928) :
- Long Xuyên Phật Học cũng do HT Khánh Hòa cùng một số cư sĩ thành lập năm 1934 ở chùa Long Phước, Trà Vinh, thu nhận cả tăng lẫn nị
- Hội Bắc Kỳ Phật Giáo thành lập tại Hà Nội năm 1934 do các HT Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo và một số cư sĩ danh tiếng như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Ngô Văn Tố, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Năng Quốc, Dương Bá Trạc, v.v... Cư sĩ Nguyễn Năng Tố được bầu làm Chủ Ti.ch.
- Phật Học Kiêm Tế Hội do HT Thích Thiện Chiếu thành lập năm 1936 ở chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Hội này tuyên bố cổ võ cho bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm cho chúng sanh khổ được vui và kêu gọi hướng dẫn PG đi theo đường lối của Đảng CS Đông Dương.
- Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục do BS Lê Đình Thám thành lập tại Huế năm 1940. Cụ Đinh Văn Chấp, Tiến sĩ Hán học, thân phụ HT Minh Châu, phụ trách giảng dạy về Nho học và Lão học, còn Lê Đình Thám hướng dẫn về Phật học cho thanh niên Phật tử. TT Trí Quang sau này cũng xuất thân từ chỗ nàỵ
- Gia Đình Phật Hóa Phổ cũng do BS Lê Đình Thám lập năm 1944 để giáo dục các thiếu nhi Phật tử. Tổ chức này có một ban hướng dẫn gồm các cư sĩ sau đây : Văn Đình Hy, Đặng Tống, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Cao Chánh Hựu, Phan Xuân Sanh, v.v... Đây là những thành phần hoạt động tích cực khi phong trào PG miền Trung nổi lên. Võ Đình Cường là người chủ chốt trong vụ nàỵ Năm 1951, một hội nghị Gia Đình Phật Giáo Phổ được tổ chức tại Huế đã quyết định đổi tên thành Gia Đình Phật Tử.
- Hội Chỉnh Lý Tăng Già Bắc Việt do HT Thích Tố Liên thành lập năm 1949, đến tháng 9/1950 đổi thành Hội Tăng Già Bắc Việt.
- Hội Phật Tử Việt Nam do một số cư sĩ thành lập năm 1949 tại chùa Chân Tiên Hà Nộị
- Hội Phật Học Nam Việt do hai cư sĩ Mai Thọ Truyền và Lê Ngọc Diệp lập tại Saigon năm 1950.
- Phật Học Đường Bao Quốc do Thích Trí Thủ thành lập năm 1950 ở Huế. Phật Học Đường này thu nhận các học tăng khắp Trung, Nam, Bắc, cung cấp giảng sư cho các Tỉnh Hội Phật Giáo Miền Trung. HT Tịnh Khiết trụ trì ở chùa Tường Vân được tôn làm Hội Chủ.
- Giáo Hội Tăng Già Nam Việt do TT Thích Thiện Hòa và TT Thích Thiện Hoa thành lập năm 1952 tại cùa Ấn Quang, Saigon.
- Hội Tịnh Độ Cư Sĩ Việt Nam do các cư sĩ Huỳnh Văn Đơn, Lữ Huỳnh Anh và Nguyễn Văn Vân thành lập tại Saigon năm 1953.
- Hội Lục Hòa Phật Tử Việt Nam do các cư sĩ Lê Văn Điền, Phạm Văn Tân và Lê Văn Kiều thành lập tại Gia Định năm 1954.
- Chùa Ấn Quang được HT Thích Thiện Hòa cho xây cất năm 1949. Đầu tiên đây chỉ là một cái am có tên là Trí Tuệ Am, ở đường Lorgeril (tức Sư Vạn Hạnh), Chợ Lớn, sau gọi là chùa Ứng Quang. Tại đây Phật Học Đường Ứng Quang được thành lập, sau đổi thành Phật Học Đường Nam Việt và chùa Ứng Quang thành chùa Ấn Quang.
Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo tại Thừa Thiên bị giảm bớt sau cuộc "Cách Mạng Tháng 8" năm 1945, vì một số tăng sĩ quan trọng đã đi theo Mặt Trận Việt Minh. Mãi đến năm 1951, khi Pháp đã chiếm lại phần lớn Đông Dương và VC đã rút lui vào các chiến khu, việc phát triển PG mới bắt đầu mạnh trở lạị
Nhìn Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo nở rộ dướì thời Pháp thuộc, chúng ta có thể tin rằng kế hoạch phục hưng Phật Giáo của Pasquier là có thật.
b. Sự phát triển Phật Giáo dưới thời Đệ I Cộng Hòa :
Từ 1955-1963, sự phát triển của PG rất đáng kể, không thua gì thời Pháp thuộc. Ngoài các đoàn thể và cơ sở PG được thành lập dưới thời Pháp thuộc vẫn iếp tục hoạt động và phát triển, chính phủ Diệm đã cho phép thành lập rất nhiều tổ chức mới như :
- Hội Linh Sơn Phật Học được thành lập năm 1955 tại chùa Linh Sơn, Cô Giang, Saigon
- Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam do TT Thích Độ Lượng và Thích Huyền Minh thành lập năm 1955 tại Phan Thanh Giản, Saigon.
- Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam thành lập năm 1955 tại Đề Thám Saigon.
- Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam thành lập tại Đà Nẵng năm 1955.
- Hội Việt Nam Phật Giáo thành lập năm 1957 tại đường Phan Đình Phùng saigon.
- Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Long Vân, Gia Đi.nh.
- Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Kỳ Viên, Phan Đình Phùng Saigon.
- Hội Bồ Đề Đạo Tràng thành lập năm 1957 tại Âm Bồ Đề, Châu Đốc.
- Hội Phật Giáo tại Trung Phần thành lập năm 1957 tại chùa Từ Đàm, Huế.
- Hội Phật Tử Việt Nam thành lập năm 1958 tại chùa Đại Giác, Saigon.
- Giáo Hội Khất Sĩ Ni Giới Việt Nam thành lập năm 1958 tại Gia Đi.nh.
- Hội Phật Giáo Quan Âm Phổ Tế thành lập năm 1959 tại Phan Thanh Giản Saigon.
- Hội Việt Nam Phật Giáo Liên Hữu thành lập năm 1959 tại Saigon.
- Hội Từ Thiện PGVN thành lập năm 1959 tại chùa Huệ Lâm, Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Vĩnh Bình thành lập năm 1960 tại chùa Ông Mẹt, Vĩnh Bình.
- Hội Tứ Giáo Phật Học VN thành lập năm tại chùa Tam Bửu Biên Hòa năm 1961.
- Hội Phật Học Nguyên Thủy Ba Xuyên thành lập năm 1962 tại Ba Xuyên.
- Giáo Hội Cư Sĩ Phật Đường Nam Tông thành lập năm 1962 tại Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn thành lập năm 1963 tại Saigon.
Những thành quả mà PG đã đạt được dưới thời Đệ I Cộng Hòa đã dược Nguyễn Lang liệt kê trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (tập III), trang 304-307 như sau :
- Chỉnh đốn lại Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đem về đặt trụ sở tại chùa Ấn Quang.
- Nhiều tu viện, chùa và Phật Hoc. Đường đã được xây dựng như tu viện Nguyễn Thiều ở Bình Định, tu viện Quảng Hương Già Lam, Chùa Xá Lợi, Phật Học Đường Phước Hòa ở Trà Vinh, Nhi Học Viện Từ Nghiêm ở Saigon, v.v...
- Mở nhiều khoá huấn luyện tăng ni ở chùa Ấn Quang như khoá Tu Nghiệp Trụ Trì và Như Lai Sứ Giả năm 1957, lớp Phật Học Phổ Thông năm 1958. Giáo Hội Tăng Già VN cũng đã thành lập ban giảng sư lưu động năm 1959 để đi huấn luyện tăng ni trên khắp miền Nam VN.
- Các đại hội của Phật Giáo được mở liên tục như Đại Hội Tổng Giáo Hội VN kỳ 2 năm 1956, kỳ 3 năm 1957, Đại Hội Ni Bộ Miền Nam ở chùa Huê Lâm năm 1956, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Trung Việt kỳ 3 năm 1958, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc kỳ 3 năm 1959, Đại Hội Hoằng Pháp Toàn Quốc năm 1960, v.v...
- Các tạp chí Phật Giáo đua nhau ra đời như Phật Giáo Việt Nam, Liên Hoa, Văn Hoá, Từ Quang, v.v...
Trong cuốn "Phật Giáo tại Việt Nam", ông Mai Thọ Truyền cho biết lúc ông Diệm lên cầm quyền, số chùa tại miền nam là 2206 cáị Dướt thời ông Diệm số chùa lên đến 4776 cái, tức là tăng 2570 cái; trải ra cho 43 tỉnh miền Nam, thì mỗi tỉnh tối thiểu có 59 ngôi chùa mới; chùa cũ và mới cộng lại sẽ cho thấy mỗi tỉnh có trung bình 111 ngôi chùạ Trong cuốn "Our Vietnam Nightmare", Marguerite Higgins ghi nhận rằng chính phủ Diệm đã đóng góp 9 triệu đồng để trùng tu và xây cất chùa chiền. Có tất cả 1295 ngôi chùa đã được trùng tụ Riêng chùa Xá Lợi, ông Diệm đã góp vào 2 triệu đồng và sau đó còn cho xử dụng 7 lần tiền đua ngựa để xây cất.
Sự kiện mà một tỉnh có tối thiểu 59 ngôi chùa mới và tối đa 111 ngôi chùa chen chúc nhau từ thôn xã này đến làng kia, đó là một biểu tượng của sự tự do tôn giáo phát triển cực mạnh và sung mãn vô song. Việc bảo trợ và yểm trợ xây cất chùa chiền là dấu hiệu của một lòng sùng mộ thành tín đối với tôn giáo của nhà cầm quyền biết tôn trọng tôn giáo của các tôn giáo bạn.
Có một điều ít ai để ý là chính TT Diệm là người đầu tiên và duy nhất đã đem lại cho Phật Giáo một màu sắc dặc biệt mà trước đây tôn giáo này không hề có. Ngay từ những năm đầu của chế độ, ông đã lo việc thôi thúc các cơ quan liên hệ phải tìm cách để yểm trợ và tiếp tay với công việc tổ chức Đại Lễ Phật Đản và Rước Ngọc Xá Lợi năm 1956 (17/5/1956) qua các đường phố thật hết sức trọng thể. Số người tham dự đại lễ tại Saigon có tới vài vạn ngườị Rồi mỗi năm cứ thế tiếp đến 1960, Lễ Phật Đản có tổ chức rước đuốc, xe hoa trên nhiều đường phố. Năm 1961 Đại Lễ Phật Đản được tổ chức ngay tại vận động trường Quân Độị Năm 1962, LPD được tổ chức tại chùa Xá Lợị Tiếp đến là ngày 8/5/1963 tại Saigon, Đại Lễ Phật Đản được tổ chức một cách hết sức trọng thể, đông người tham dự, tuy bầu không khí hơi căng thẳng.
c. Sự phát triển của Phật Giáo thời Đệ II Cộng Hòa :
Sau 1/11/1963, sau khi hạ TT Diệm xong, "làm chủ" đất nước, nhóm PG cực đoan thừa thắng xông lên, làm áp lực buộc chính quyền mới phải tuân theo ý muốn của ho..
Mặc dầu quy chế chung cho tất cả các tôn giáo chưa được soạn thảo và ban hành, không coi thể thống quốc gia ra gì, GHPGVNTN mới thành lập đã làm áp lực bắt buộc chính quyền phải công nhận bằng một đạo luật Hiến Chương mà Giáo Hội này đã đệ trình, gây nên những rối loạn pháp lý mà chỉ vài năm sau đó, Giáo Hội Ấn Quang đã là nạn nhân của những đòi hỏi phi lý đó. Sau đây là những tổ chức PG được thành lập dưới thời "độc tài quân phiệt" Đệ II Cộng Hòa :
- Viện Cao Đẳng Phật Học được thành lập ngày 13/3/1964, có quyền cấp Cử nhân Phật học, Cao học Phật giáo và Tiến sĩ Phật học.
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) do 11 tông phái và hội Phật Giáo thành lập ngày 4/1/1964, được duyệt y bằng Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14/5/1964.
- Giáo Hội Thiền Tông Việt Nam được thành lập tháng 11/1964 tại Gia Đi.nh.
- Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do liên phái Phật Bửu Tự, Bửu Lâm Tự, Bình Hòa Tự, Long Quang Tự, Chơn Đức Tự và Giác Lâm Tự thành lập tháng 12/1964, tách khỏi GHPGVNTN.
- Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam do cư sĩ Nguyễn Trọng Tố thành lập tại Nha Trang năm 1965.
- Phật Hội Lục Phương Tông do 2 cư sĩ Võ Văn Trọng và Nguyễn Văn Toàn thành lập tại Saigon năm 1965.
- Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ do TT Thích Tọa Giác Nhiên thành lập tại Gia Định năm 1966.
- Hội Phật Giáo Phụng Sự Xã Hội do TT Thích Tâm Châu thành lập tại Saigon năm 1967.
- Việt Hàn Phật Giáo Tương Trợ Hội do 2 TT Thích Tâm Châu và Suk Kyung San thành lập tại Saigon năm 1967.
- Giáo Hội Đạo Tràng Thiên Học do tu sĩ Trần Rinh thành lập năm 1968 tại Hóc Môn, Gia Đi.nh.
Phật Giáo bắt đầu xây dựng những cơ sở to lớn : khởi đầu là Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản Saigon, sau đó là chùa Vĩnh Nghiêm, Viện Đại Học Vạn Hạnh và các cơ sở khác khắp miền Nam VN.
Ngày 24/4/1964, khởi công xây dựng Việt Nam Quốc Tự trên cơ sở đất rộng 45,000 m2. Sở đất này tọa lạc tại một địa điểm khá quan trọng trong thành phố, được chính phủ cho thuê với giá tượng trưng. Tuy gọi là cho thuê nhưng trong thực tế là biếu luôn.
Trong cuốn Bạch Thư 31/12/1993, HT Tâm Châu cho biết, để xây cất Việt Nam Quốc Tự, Tướng Nguyễn Khánh đã cúng 10 triệu, Tướng Nguyễn Cao Kỳ cho vay 50 triệụ Số tiền này được giao cho các TT Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thủ và Thích Từ Nhơn, nhưng các TT này giữ tiền luôn, không chịu xây cất chùạ Chi phí xây cất VNQT lúc đó được ước lượng khoảng từ 60-70 triệu đồng VN.
Nhưng vì sự lộng hành của TT Trí Quang trên chính trường miền Nam từ 1964-1966, khối PGAQ bị tan vỡ ra làm hai, các tông phái miền Bắc và miền Nam tách rời khỏi GHPGAQ. Những hậu quả này không phải do chính quyền mà do TT Trí Quang và nhóm PG miền Trung gây rạ
9. Nghĩ sao về 5 điều đòi hỏi của Phật giáo ?
Như thế trong 5 điều đòi hỏi của PG :
ạ Yêu cầu Chính phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ PG.
b. Yêu cầu PG phải được hưởng một chế độ đặc biêt như các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo đã được ghi trong Dụ Số 10.
c. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG.
d. Yêu cầu cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạọ
ẹ Yêu cầu chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng.
Thì yêu cầu "cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạo" không đúng với thực tế. Sử gia PG Lý Khôi Việt lại đi viết :"Chính trị VN suốt 100 năm nay, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con VN ưu tú (ý nói PG) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đưá con phản bội xấu xa (ý nói Công giáo)".
Như thế các tăng sĩ chùa Từ Đàm có lẽ đã thưà biết rõ là các điều (1), (2), (4) và cả (5) là không đúng như họ đã tố cáo, nhưng họ vẫn cứ làm to chuyện để có lý do là lật đổ TT Diệm, một chế độ được họ mệnh danh là "chế độ Thiên Chúa Giáo". Và qua các câu chuyện vừa kể trên người ta thấy động lực đấu tranh chính trị chính là sự tỵ hiềm về tôn giáo mà ra chứ không phải là sự kỳ thị (tôn giáo) ở trong luật pháp hay trong thực tế. Đây là điều mà ta cần nhớ rõ để quay lại khúc phim lịch sử này ("Theo Đỗ Mậu" trong VNMLQHT thì TT Trí Quang muốn lật độ TT Diệm vì chế độ này nếu tồn tại chỉ mang chính nghĩa cho CS, còn ông chống độc tài quân phiệt vì chế độ này làm tay sai cho ngoại bang). Mặt khác người ta không ngạc nhiên khi thấy Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đưa ra 5 yêu sách của PG thì Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ đã chấp nhận một cách nhanh chóng, vì những đòi hỏi đó phù hợp với tình trạng thực tế lúc đó của thời cuộc.
10. Câu chuyện giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ :
TT Thích Tâm Châu đã lập một Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ngày 15/5/1963. Ngày 25/5/1963, Ủy Ban này họp tại chùa Xá Lợi ở Saigon, ra tuyên ngôn tuyên bố tranh đấu cho 5 nguyện vọng của PG kể trên. Sau đó là những cuộc biểu tình và tuyệt thực xảy ra liên tiếp. Chính phủ đã xử dụng Cảnh sát Dã chiến để ngăn chặn các cuộc biểu tình và kiểm soát hoạt động đấu tranh của các chùa chiền.
Khi cuộc tranh đấu của PG ngày càng gia tăng, ngày 4/6/1963, một Ủy ban Liên Bộ được chính phủ thành lập để giải quyết các đòi hỏi của PG. Ủy Ban này gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương và Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần. Ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ họp với Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lần đầu tiên. Phái đoàn PG gồm có các TT Thiện Minh, Tâm Châu, Thiện Hoa, Huyền Quang (Thư ký) và Đức Nghiệp (Phó thư ký). TT Thiện Minh làm Trưởng đoàn.
Trong khi thương thuyết với Ủy Ban Liên Bộ, Võ Đình Cường cho áp dụng chiến thuật "vừa đánh vừa đàm" để đạt thắng lợi tối đạ Các chiến dịch biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu được phát động khắp nơị Vụ HT Thích Quảng Đức tự thiêu cũng nằm trong chiến thuật nàỵ Có thể nói trong giai đoạn gây xáo trộn này, PG đã thường dùng các phương thức sau đây : biểu tình bạo động quá khích, nổi lửa tự thiêụ
Sau khi tin HT Quảng Đức tự thiêu và ngày 11/6/1963 được loan đi khắp thế giới, ngày 12/6/1963 HT Thích Tịnh Khiết từ Huế vào saigon. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ liền mời HT Tịnh Khiết họp với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ, nhưng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo thấy rằng đưa HT Tịnh Khiết đi thương thuyết không có lợi vì HT quá hiền lành và ngay thật, nên TT Tâm Châu nói rằng sau 5 ngày tuyệt thực, HT Tịnh Khiết đang mệt, không họp được. Ngày 13/6/63, Phật tử treo cờ khắp nơị Ngày 14/6/63, 2 Ủy Ban họp lần thứ hai tại Hội Trường Diên Hồng. Vì TT Diệm ra lệnh phải đi đến một thỏa hiệp nhanh chóng, nên 2 Ủy Ban đã họp ngày họp đêm trong suốt 3 ngày liên tục, đến ngày 16/6/63, cả 2 Ủy Ban đã ký kết một thông cá chung gồm những diểm sau đây :
- Quy định lại thể thức treo cờ quốc gia và cờ PG Quốc Tế : Cờ PG Quốc Tế khi treo chung được làm nhỏ hơn 1/3 quốc kỳ.
- Tách các hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ Số 10.
- Chính phủ cam kết không trả thù những người tham gia cuộc vận động thực hiện 5 nguyện vọng của PG.
- Bảo đảm quyền tự do truyền đạo của Phật tử.
- Trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ thảm sát ở Huế và bồi thường cho các gia đình nạn nhân.
Thông cáo chung vừa được ký xong thì Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo vội đưa về cho HT Tịnh Khiết viết vào một chữ KHÁN rồi ký tên vào chỗ dành cho Tổng Thống. Khi Thông Cáo Chung được chuyển qua Phủ Tổng Thống, mọi người nhìn thấy chữ ký của HT Tịnh Khiết ở chỗ dành cho Tổng Thống, đều lắc đầụ Tuy nhiên TT Diệm vẫn cầm viết và phê vào :"Những điều được ghi trong Thông Cáo Chung này đã được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu".
Các sử gia PG cho đây là một thắng lợi của PG. Tất cả nguyện vọng của PG đều được chấp thuận.
Một buổi lễ tang dự trù cho HT Quảng Đức ngày Chủ Nhật 16/6/63 tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn người; rồi khoảng hàng trăm ngàn Phật tử tham dự bỗng trở thành đám biểu tình và bị cảnh sát dàn chàọ Xô xát kéo dài 45' trước chùa Xá Lợị Vụ tự thiêu của HT Quảng Đức chỉ là một chiến thuật của TT Trí Quang, nhưng quần chúng Phật tử quay lòng căm thù vào ông Diệm; TT Trí Quang muốn dùng quần chúng gây bạo động và khi bạo động càng nhiều thì ông Diệm càng bị mắc bẫỵ Ngay buổi tối hôm đó, Thiết Giáp phải đến tăng cường. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương vì trúng đạn ở đầụ 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ. 3 ngày sau, 19/6, nhờ cảnh sát, công an nỗ lực kiểm soát nên lễ an táng của HT Quảng Đức diễn tiến không gây thêm đổ máụ
11. Trò ảo thuật của TT Trí Quang :
Sau khi thông cáo chung được ban hành ít ngày thì nhóm PG cực đoan miền Trung cho phổ biến một "mật điện" nói là mới bắt được. "Mật điện" đó mang số 1342/VP/TT ngày 19/6/63 được nói là do ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống đánh đị Mật điện được công bố có nội dung như sau :
"Để tạm thời làm êm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, TT và ông Cố Vấn ra lịnh tạm thời nhún nhường ho.. Các nơi nhận hãy theo đúng chủ trương trên và đợi li.nh. Ngay từ bây giờ hãy chuẩn bị cho giai đoạn tấn công mớị Hãy theo dõi điều tra, thanh trừng những phần tử PG bất mãn và trình thượng cấp, kể cả các sĩ quan và công chức cao cấp".
Đọc lối hành văn và các từ ngữ xử dụng các công chức chính phủ nhận ra ngay đó là môt mật điện giả. Đây phải là mật điện do VC nằm vùng sáng chế rạ Phủ TT đã ra một thông cáo phủ nhận hoàn toàn bức mật điện nàỵ
Sau khi bức điện giả nói trên được tung ra, ông Ngô Đình Nhu hiểu rằng nhóm PG cực đoan miền Trung đang cố tạo lý do mới để tiếp tục xách động đấu tranh nhằm lật đỗ chính phủ. Lý do mới đó là "chính phủ không thi hành nghiêm chỉnh thông cáo chung", do đó cuộc đấu tranh mới cũng gồm đủ cả biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu như trước.
Rất bực mình trước thủ đoạn này ông Nhu tìm cách lật lại thế cờ. Ngày 20/6/1963, ông yểm trợ cho HT Huệ Tâm lập Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn, rồi giúp HT Thích Nhật Minh lập Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy để ủng hộ chính quyền. Ông cho thương phế binh biểu tình trước chùa Xá Lợi vào ngày 23/7/1963 tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo gây rối loạn chính tri.. Ông thuyết phục ông Đoàn Trung Còn, Hội Trưởng Trung Ương Phật Giáo Tịnh Độ Tông, lên án những kẻ lợi dụng danh nghĩa PG phá rối trật tự công cô.ng. Các tỉnh trưởng miền Trung giúp ông bằng cách thuyết phục một vài tông phái PG khác như Phật Giáo Lục Hòa Tăng Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần, gởi kiên nghị ủng hộ đường lối của TT Diệm và tố cáo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang phá hoại an ninh trật tự trong nước. Đến giai doạn quyết liệt, ông ra lệnh lục soát các chùa và bắt những lãnh tụ PG chống đốị Nhưng ông không đề phòng nổi mạng lưới mà cơ quan tình báo Hoa Kỳ đang tung ra đàng sau biến cố đó.
12. Sự can thiệp của Hoa KỳHoa Kỳ đã quyết định lật đổ TT Diệm kể từ năm 1960, khi TT Diệm từ chối lời yêu cầu của Phó TT Johnson cho Hoa Kỳ đem quân đổ bộ vào miền Nam và thiết lập các căn cứ quân sư..
ạ Âm mưu của Hà Nội : Trong bài diễn văn đọc khai mạc Đại hội đảng lần thứ 3 vào tháng 9/1960, HCM tyên bố công cuộc cải tạo XHCN tại miền Bắc coi như đã hoàn thành trên căn bản. Giai đoạn tới là giai đoạn "giải phóng miền Nam". Sau đó, Đại hộ 3 ra Nghị Quyết tuyên bố
"Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam".
Thi hành quyêt nghị này, Hà Nội cho lập tại miền nam một tổ chức bù nhìn được mệnh danh là MTGPMN do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ ti.ch. Trong lễ ra mắt ngày 20/12/1960, MTGPMN đưa ra bản tuyên ngôn rập y khuôn của Nghị Quyết trên, có đoạn như sau :"Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài NĐ, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ".
Một chiến dịch được gọi là Đồng Khởi được phát xuất từ Bến Tre và lan rộng ra cả miền Nam VN. Trước tình thế này, TT Diệm yêu cầu T Kennedy viện trợ quân sự và kinh tế cho miền Nam N để chống lại sự xâm lăng của CS.
b. Đòi thiết lập các căn cứ quân sự :Ngày 5/5/1960, trong một cuộc họp báo, TT Kennedy tuyên bố rằng tình hình NVN đang nguy ngập và nếu cần, ông "sẽ cứu xét đưa quân đội Hoa Kỳ đến VN để chống lại các cuộc tấn công của CS". TT đưa ra lời tuyên bố này khi chưa có lời yêu cầu của TT Diệm.
Ngày 9/5/60, một phái đoàn của PTT Johnson đến miền Nam trong 4 ngày để quan sát và hội đàm với TT Diệm. Trong cuộc hội đàm ngày 12/5/60, có sự hiện của Đại sứ Nolting, Johnson đề nghị để quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam, nhưng TT Diệm tỏ ra do dư.. Ông nêu ra điều 19 của Hiệp định Geneva 1954 để có lý do hòa hoãn. Điều này quy định :"Kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, cấm không được lập một căn cứ quân sự ngoại quốc nào trong vùng tập hợp nào của đôi bên; 2 bên cam doan rằng vùng thuộc về họ không tham gia một liên minh quân sự nào và không bị xử dụng để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược".
Phó TT Johnson tỏ ra không bằng lòng về sự từ chối nàỵ
Ngay sau đó, trong ngày 12/5/60, Đại sứ Nolting đã gởi cho Ngoại trưởng Dean Rusk một báo cáo mật như sau :"Tướng Mc Garr và tôi có mặt tại cuộc thảo luận giữa ông Diệm và PTT Johnson về việc đưa lực lượng Mỹ vào VN. Ông Diệm đã nói với PTT rằng ông ta không muốn quân chiến đấu Hoa Kỳ dến VN, trừ trường hợp miền Bắc công khai đưa quân xâm lược".
PTT Johnson vừa rời VN vào ngày 13/5/60 thì 2 ngày sau TT Diệm đã gởi ngay cho TT Kennedy một văn thư sau :"Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu vãn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất của quý quốc, một sự yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng". ("Hồ sơ mật Dinh Độc lập", Nguyễn Tiến Hưng).
Qua văn thư này, rõ ràng TT Diệm đã gián tiếp bác bỏ việc đưa quân đội Mỹ vào VN. Washing ton không hài lòng về sự từ chối này nên chỉ viện trợ nhỏ giọt khiến Quân đội VNCH không đủ sức đẩy lui toàn bộ cuộc xâm lăng của CS. Tình hình quân sự ngày càng xấu đị
Các nhà phân tích nói rằng Hoa Kỳ muốn cho tình hình quân sự trở nên xấu hơn để chính phủ Diệm phải yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân và cho thiết lập các căn cứ quân sự
c. Cái bẫy sập được đưa ra ;Biến cố PG là một cơ hội tốt để Hoa Kỳ thực hiện ý định lật đổ chính phủ Diệm. Ông Lê Văn Dư, Trưởng ty Công an Thừa Thiên cho biết có những sự liên hệ chặt chẽ của các nhân viên Tòa Lãnh sự Mỹ ở Huế với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm. Những lần đầu, các cuộc gặp gỡ đều có sự có mặt của ông Dự Các lần sau, các viên chức Lãnh sự tự liên lạc lấỵ Ông có cho công an theo dõị Chính nhờ sự khuyến khích của các nhân viên tình báo Hoa Kỳ, TT Trí Quang mới càng ngày càng làm mạnh hơn.
Để có lý do hành động, TT Kennedy đã gởi 2 đặc sứ qua VN cùng lúc để điều tra vụ PG. 2 đặc sứ nay là Trung tướng Krulak và Tham vụ Ngaọi giao Mendenhall. 2 người làm bản phúc trình khác biệt nhau khiến TT Kennedy lúng túng. Tháng 10/1963, Kennedy gởi Tướng Ẹ Landsdale, cố vấn chính phủ Diệm trước đây, để điều tra thêm. Landsdale làm báo cáo là nên thương lượng với chính phủ Diệm là tốt hơn cả. Nếu lật đổ TT Diệm tình hình sẽ trở nên khó khăn hơn. Báo cáo này làm Kennedy giận dữ. Ông cần một báo cáo nói phải thay TT Diệm để dễ giải thích với dư luận Mỹ hơn. Từ đó, TT kennedy không muốn nói chuyện với Tướng Lansdale nữạ
d. Âm mưu chống đảo chánh và đảo chánh :Để thực hiện cuộc đảo chánh này, Washington nghĩ ngay đến Cabot Lodgẹ Ông sinh năm 1902 tại Nahant, Massachussetts và chết năm 1985, tốt nghiệp Harvard năm 1924, từng là nghị sĩ và ứng cử viên Phó TT năm 1960. Ông đang ở Honolulu thì được lệnh sang Saigon vào ngày 22/8/1963 thay thế Đại sứ Nolting. Ngày 22/8/63, Lodge trình ủy nhiệm thư lên ông Diệm.
Khi Lodge đến thì TT Diệm đã biết là Hoa Kỳ quyết định tổ chức đảo chánh, nên ông Nhu đã vạch kế hoạch đối phó, trong đó có cả kế hoạch tổ chức cuộc đảo chánh giả gọi là Bravo I để lừa các tướng dịnh đảo chánh và bắt giữ. Kế hoạch này giao cho Tướng Đính, Tư lệnh Quân đoàn 3. Nhưng Đính theo phe đảo chánh nên kế hoạch bị hỏng.
Sau khi trìh ủy nhiệm thư xong, Lodge liên lạc ngay với Trung tá Lucien Conein, Trưởng cơ quan CAS (CIA) của Mỹ tại VN thời đó. Conein sinh ở Pháp, đã từng nhảy dù xuống VN năm 1944 trong tổ chức tình báo của Mỹ nên quen biết nhiều với các tướng lãnh VN. Tướng Trần Văn Đôn là bạn của Conein trong 18 năm quạ Đôn lúc đó là Quyền Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, thay thế Đại tướng Lê Văn Tỵ đang được chữa bịnh ung thư tại Mỹ. Conein đã móc nối với các tướng Đôn, Khiêm, Minh, Kim để thuê làm đảo chánh.
Trong cuốn "Our Endless War Inside VN", Đôn kể lại rằng hôm 2/10/63 khi lên đường đi Nha Trang ông thấy Conein theo ông ra tận máy baỵ 2 người hẹn gặp nhau ở Nha Trang và chiều hôm đó gặp nhau bàn về chuyện đảo chánh. Ngày 5/10/63, Conein gặp Tướng Dương Văn Minh để bàn về việc nàỵ Minh muốn có bảo đảm về sự ủng hộ của Mỹ trong việc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 10/10/63, Conein gặp Minh để hỏi về chi tiết cuộc đảo chánh. Trong cuộc gặp này, Minh yêu cầu mọi liên lạc giữa Mỹ và VN liên hệ tới đảo chánh phải qua Minh.
Trong khi Conein và các tướng lãnh VN hoạch định kế hoạch thì Lodge giả làm áp lực đòi ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và bà vơ.. Ông cho biết nếu không làm thế thì Mỹ sẽ ngưng viện trơ.. Lodge cũng chỉ thị khuyến khích PG gia tăng bạo đô.ng.
Này 10/9/63, bà Nhu dẫn một phái đoàn đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư và nhân tiện qua Âu Châu "giải độc".Ngày 25/10/63, Lodge gởi cho George Bundy, Phụ tá đặc biệt của TT Kennedy đặc trách về an ninh một bản báo cáo rằng CSA "vẫn thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôị Tôi đã đích thân chấp thuận mỗi cuộc họp giữa Đôn và Conein, người đã thi hành mệnh lệnh của tôi xuất sắc trong mọi trường hợp..."
ẹ Một trò chơi nguy hiểm ?
Trước tình thế này, ông Ngô Đình Nhu đã tìm cách thương lượng với Bắc Việt để loại ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đã mời Manelli, Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến để nhờ liên lạc với Hà Nội qua Đại sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề nghị mở cuộc tiếp xúc giữ 2 bên. Bắc Việt chấp nhận ngaỵ Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đã xác nhận điều nàỵ Trong cuộc gặp gỡ, 2 bên đồng ý tái lập trước tiên về liên lạc bưu điện và sau đó về giao thương để tiến tới thống nhất đất nước trong hòa
bình. Sau cuộc tiếp xúc đó, ông Nhu cố ý tiết lộ nội dung cuộc tiếp xúc cho báo chí biết để ngầm thông báo cho
Washington.
Song song với sự tiết lộ của ông Nhu, TT De Gaulle lên tiếng kêu gọi lại bỏ "ảnh hưởng ngoại quốc" ra khỏi VN, còn HCM lên tiếng nói rằng một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa thuận.
Thật ra, trong năm 1963, Lodge đã đưa ra một kế hoạch 3 giai đoạn để Hà Nội và Saigon có thể nói chuyện với nhaụ Manelli là người làm trung gian giữa Saigon - Tòa Đại sứ Pháp - Hà Nộị Ông Nhu đã hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại phòng đọc sách của ông ("War of the Vanquished", Mieczyslaw Maneli). Chuyện này Mỹ biết rõ.. Nhưng hành động độc lập của ông Nhu kỳ này đã làm Washington tức giận hơn. TT kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến hành cuộc đảo chánh nhanh chóng hơn.
Theo "Việt Nam 30 năm máu lửa" của Cao Thế Dung, nxb Alpha 1991, tr. 597, thì tới nay chưa có một văn kiện hay tài liệu khả tin nào về vụ ông Ngô Đình Nhu toan tính thỏa hiệp với HCM ngoại trừ cuốn "War of the Vainquished" của Mieczlaw Maneli đã kể trên, và một số bài báo chỉ căn cứ trên một số nhân vật và thiếu chứng cớ.
f. Từ chủ động tới công cụ :
Qua các sự kiện của lịch sử trong giai đoạn này, ta thấy mục tiêu tranh đấu của nhóm PG cực đoan miền Trung đưa ra chỉ là mục tiêu giả. Những điều mà họ phản kháng không có căn bản vững chắc. Mục tiêu thật sự chính là lật đổ ông Diệm, còn vụ Pháp nạn 63 chỉ là một chiêu bàị Chính Hoa Kỳ đã khởi xướng và chỉ huy cuộc đảo chánh. Mỹ muốn thay thế ông Diệm từ 1960 vì ông Diệm không đồng ý cho Mỹ đổ quân vào VN và thiết lập các căn cứ quân sư.. Vụ PG là cơ hội tốt để Hoa Kỳ khai thác để thực hiện chính sách xâm nhập Đông Nam Á. Người ta không ngạc nhiên khi thấy cả báo chí lẫn chính phủ Mỹ đã cố tình thổi phồng vụ PG như một cái cớ để biện minh cho chủ trương lật đổ ông Diệm. Cuộc đảo chánh tuy do các tướng VN thực hiện, nhưng Lodge đã ra lịnh cho Conein đứng ra tổ chức và chỉ huy từ đầụ Chính Lodge là người đưa lịnh cho Minh hạ sát TT Diệm và ông Nhụ Sau khi đảo chánh xong, các tướng lãnh VN đều được lãnh tiền thù laọ
Về phía VC, Khu Ủy Trị - Thiên - Huế nhìn nhận rằng trong cuộc đấu tranh chống ông Diệm này, vì phong trào bị đẩy lên quá nhanh họ không đi theo kịp nên đã bị dẫn đi trật hướng. Sự đẩy nhanh này là do bàn tay của Mỹ mà VC không đoán trước được. Bản kiểm điểm đã viết như sau :
"Cuộc đấu tranh với quy mô lớn nhất nổ ra quyết liệt từ ngày 5/8/63 lôi cuốn hàng vạn quần chúng, có một số tầng lớp trên và binh sĩ ngụy tham gia, đã tiến hành mít-tinh làm cho địch phải dùng súng đạn, kể cả đạn dại bác để đàn áp. Phong trào đấu tranh nhanh chóng bùng lên, thu hút hàng chục vạn người từ thành thị đến nông thôn khắp cả tỉnh đấu tranh quyết liệt với địch trong 3 tháng liền. Nhưng do "lãnh đạo của ta không đi kịp quần chúng, tổ chức không đi kịp phong trào" nên bọn cơ hội đầu hàng trong giới cầm đầu PG lái di lệch hướng.
Cuộc đấu tranh này tuy mang màu sắc tôn giáo, nhưng thực chất là cuộc đấu tranh cách mạng của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động ở thành thị, nông thôn chống lại chính sách chiến tranh tàn bạo của MỹĐiệm.
Phong trào đấu tranh quần chúng dưới danh nghĩa "phong trào PG" ở Huế đã mở đầu cho phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các thành thị miền Nam và đã đẩy chế độ MỹĐiệm từ trạng thái không ổn định đi đến tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kể cả những nơi mà chúng coi là dinh lũy cuối cùng" ("Chiến trường Trị -Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng", Thuận Hoá, 1985, t. 80-81).
Về phía PG, TT Trí Quang và các lãnh tụ PG khác thuộc chùa Từ Đàm ở Huế đã đi từ thế chủ động qua thế bị động, trở thành công cụ của Hoa Kỳ lẫn VC. Sau này khi Mỹ hết xử dụng lá bài PG, họ đã bật đèn xanh cho Tướng Kỳ dẹp bỏ. TT Trí Quang trong khi đó vẫn nghĩ rằng báo chí và chính phủ Mỹ tiếp tục ủng hộ PG như trước, nên đã đánh điện kêu cứụ
Sau khi chính phủ Diệm bị lật đổ, các lãnh tụ PG chùa Từ Đàm tin rằng sự "nổi dậy của PG" đã làm cho chính phủ Diệm bị sụp đổ, nên say men chiến thắng, gây nhiều biến loạn tiếp theo gây đau thương cho chúng tăng và cho cả đất nước miền Nam tự dọ
Đòi nợ máu, diệt Công giáo, ngụy hòa và cướp chính quyền
3 năm sau khi chế độ NĐ sụp đổ, từ 1964-1966, được gọi là "3 năm xáo trộn", 3 năm kinh hoàng của miền Nam VN. Đây là thời kỳ có lúc gần như không còn chính quyền nữa, nhóm PG cực đoan miền Trung phát xuất từ chùa Từ Đàm Huế, hành động dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, rồi Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nắm quyền sinh sát trong tay, muốn bắt ai thì bắt, muốn phá chỗ nào thì phá, muốn đốt nơi nào thì đốt, muốn giết ai thì cứ ám sát, tự tung tự tác trong cơ quan công quyền, nơi trường học, trên đường phố... Tổ chức này đã bắt cả Tỉnh trưởng Quảng Nam và Quận trưởng Hoà Vang đem đi giam vì không chịu theo phe của ho..
Nhóm này tin tưởng rằng, khi họ "lật đổ" được NĐ, một chế độ chống Cộng vững mạnh tại miền Nam, thì họ có thể làm bất cứ cái gì họ muốn mà không một chính quyền nào dám cưỡng lạị Say men chiến thắng, họ đã đưa ra nhiều yêu sách buộc chính quyền phải thực hiện ngaỵ Trước hết đòi một "quy chế đặc biệt" cho PG, rồi đòi "diệt dư đảng Cần Lao TCG", đòi đưa các nhân vật PG lên nắm chính quyền, đòi cả những điều mà Bắc Việt và MTGPMN vẫn lải nhải trên đài phát thanh hàng ngày : Quân đội miền Nam và Hoa Kỳ phải đơn phương ngưng chiến, Mỹ rút, thành lập chánh phủ liên hiệp, trung lập và không liên kết, v.v... Khi những đòi hỏi phiêu lưu này không được thỏa mãn, họ phát động những chiến dịch lôi PG vào vừa bằng chiến tranh chính trị, vừa bằng bạo động và quân sự để cướp chính quyền. Các vụ bạo động này càng dữ dội gấp 10 lần dưới thời ông Diệm, đưa tới những bi thảm cho cả PG đồ lẫn đất nước đến nổi các sử gia PG ít ai dám mô tả lại đầy đủ.
1. Một biến cố bất ngờ :
Sau khi tiếng reo hò ngày 1/11/63 chưa dứt thì một biến cố khác xảy rạ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lịnh Phó Quân đoàn I cho biết rằng sau khi nghiên cứu kỹ, ngày 29/1/64, ông và Tướng Nguyễn Khánh, Tư lịnh Quân đoàn I và Bộ tham mưu Quân đoàn I vào Saigon hợp với Tướng Dương Văn Đức làm cuộc "chỉnh lý" lật đổ nhóm tướng lãnh làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Cuộc "chỉnh lý" này thành công khá dễ dàng. Tướng Thi cho biết nhờ Mỹ ủng hộ nên Tướng Khánh mới dám hành động như vậỵ
Tướng Khánh tuyên bố trên đài phát thanh : "Từ 3 tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo thực dân và CS, nên một lần nữa Quân đội lại phải can thiệp".
Các nhà bình luận cho rằng Mỹ để Tướng Khánh hành động như vậy vì các lý do :
- Các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 chỉ có khả năng đạp đổ chứ không có khả năng cầm quyền.
- Mỹ lo sợ nhóm PG cực đoan miền Trung là một nhóm có lập trường chính trị mù mờ, có nhiều tham vọng và bị CS lũng đoạn, có thể dựa vào các tướng lãnh thân họ để gây rối loạn và đưa miền Nam vào một một hướng đi khác. Vậy cần phải loại bỏ các tướng lãnh đó đi và giao quyền hành lại cho một nhóm khác có khả năng cầm quyền và có thái độ thân Mỹ hơn. Tài liệu của Pentagon cho biết sau khi cuộc "chỉnh lý" hoàn tất, Lodge đã gởi một báo cáo cho Washington nói rằng khuynh hướng theo chủ trương trung lập của 2 tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn chưa rõ rệt, nhưng khi họ đã củng cố được chính quyền, có lẽ họ sẽ tán thành giải pháp trung lập của Pháp. Lodge cho biết, Đại sứ Ý D'Orlandi đã lưu ý 2 tướng Đôn và Kim (vẫn còn giữ quốc tịch Pháp), từng là phụ tá của De Lattre de Tassigny và hoạt động đắc lực cho Sở Mật thám của Pháp trong quá khứ, cho nên dư luận về chủ trương trung lập hóa miền Nam có thể đúng. Ông viết tiếp :
"Sau hết, tại nước này hiện nay, it khi có chuyện một cuộc bầu cử là một phương cách hữu hiệu, thích hợp để hoàn tất một vấn đề quan tro.ng. Để làm những chuyện quan trọng ở đây, phương pháp truyền thống là xử dụng sức mạnh có kế hoạch, có suy nghĩ kỹ càng. Điều mà Tướng Khánh đã làm không làm cho người VN ngạc nhiên... Tuy nhiên, một số người VN đã nói với các nhân viên trong bộ tham mưu của tôi rằng ông Minh là người tốt, thay thế ông ta là tội nghiệp.
"Vấn đề thiết thực phải đặt ra là Tướng Khánh có khả năng không ? Liệu ông ta có đáp ứng dược một số hành động góp phần vào nỗ lực chống Cộng hay không ? Cho đến nay, có bằng chứng cho thấy ông ta có khả năng, ông ta không chấp nhận một sự chậm trể nào...
"Nếu Tướng Khánh có khả năng thì việc ông lên cầm quyền có thể đem lại cho đất nước này một Bộ tư lệnh chỉ có một người duy nhất thay vì một Hội đồng Quân nhân. Chúng ta có những điều chúng ta cần ở VN".
Vào tháng 3/64, TT Johnson đã chỉ thị cho Lodge phải đánh đổ ý tưởng trung lập. Ông yêu cầu chuyển mối quan tâm này cho Tướng Khánh và hỏi ý kiến về một kế hoạch chung để chấm dứt ý tưởng trung lập hóa này tại Saigon cũng như ở Washington và Paris.
Quan điểm của Lodge rất quan tro.ng. Nó cho thấy quan niệm của Hoa Kỳ về một chính quyền cần có tại miền Nam. Chính quyền này không có nơi các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 nên Hoa Kỳ đã đi tìm nơi khác. Tướng Khánh là người họ tin tưởng.
Trước biến cố bất ngờ ngày 30/1/64 do Tướng Khánh tạo nên, các nhà lãnh tụ PG đi từ ngơ ngác đến lo âu, không biết phải phản ứng ra saọ Nhưng thấy thái độ hòa hoãn và mị dân của Tướng Khánh, họ lại tiếp tục lấn lên.
* Tiễn đưa "ân nhân" :
Khi biến cố "chỉnh lý" ngày 30/1/64 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm PG đấu tranh thì họ lại phải tiễn đưa một "ân nhân" ra đị Ngày 23/6/64, Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28/6/64, ông mặc áo gấm màu xanh có hình chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền VN, rời phi trường Tân Sơn Nhất. Ra tiễn đưa Lodge, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của PG. Trước khi lên máy bay, Lodge đã nói với các ký giả :"Khi từ giả VN, tôi chỉ có ân hận có mọt điều là không cứu sống được ông Diệm". Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đã kể rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ TT Diệm, Lodge đã nói với ông :"Nếu để ông Diêm lưu vong thì bất cứ một Đại tá nào cũng có thể đảo chánh để đưa ông Diệm về". Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời VN đã làm nhóm PG đấu tranh khó chịụ
Tướng Maxwell D. Taylor đã được cử làm Đại sứ tại VN thay cho Lodgẹ
2. Đòi nợ máu :
Trong bộ "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận", Nguyễn Lang (HT Thích Nhất Hạnh) đã nhận xét :
"Sự hạ sát TT Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1/11/1963. Dù có ra lịnh hay không ra lịnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mạng hai ngườị Cái chết của họ đã kéo theo cái chết của hai vị Thiếu tá Nhung và Nghĩạ Nhưng đã hết đâụ Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt".
Thật ra cái chết của TT Diệm và ông Nhu không phải là "một điều đáng tiêc" như Nguyễn Lang viết, mà đây chỉ là màn đầu của một chiến dịch đòi nợ máụ Nhóm TT Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lãnh biết :
- Những người sau đây phải đền tội : Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Tháị
- Các "dư đảng Cần Lao", phải rời các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo CG và khi nói "diệt dư đảng Cần Lao" thì phải hiểu là diệt Công giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm PG cực đoan miền Trung.
- Các nhân vật PG được mệnh danh là "các tướng Cách Mạng" (Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu,...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền...
Những đòi hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí PG, trong các cuộc biểu tình và tuyên ngôn tuyên cáo của nhóm TT Trí Quang. Nhưng Tướng Minh còn do dư.. Ông hiểu rằng những chuyện này không thể làm được. Sau vụ hành quyết 2 anh em ông Diê.m-Nhu do lệnh của Conein qua tay Tướng Mai Hữu Xuân thì có nhiều sự bất bình trong hàng ngũ các tướng lãnh vì họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều người trong họ cho đó là hành động quá đáng và không cần thiết. Tướng Đôn đã chỉ trích Tướng Minh về việc không thông báo cho ông biết lịnh của Lodge và Conein. Do đó Tướng Minh đã không dám đáp ứng đòi hỏi củ TT Trí Quang.
Nhưng ngày 30/1/64, Tướng Khánh đã làm cuộc "chỉnh lý". Khánh vốn là người được TT Diệm nâng đở đặc biệt và không tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Để chứng tỏ rằng ông không bênh vực "dư đảng Cần Lao", việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các "dư đảng" này ra xét xử.
Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ trưởng Tư pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn và những người liên hê.. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt Hình Luật thì không thể tuyên án tử hình những tội vớ vẫn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền, v.v... Vậy thì còn một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu quy định mới này có "hiệu lực hồi tố" (retroactive effect). Một nguyên tắc của hình luật là luật hình chỉ áp dụng cho các hành vi xảy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xảy ra trước ngày đó. Sự quy dịnh như trên là trái với nguyên tắc căn bản của hình luật. Nhưng "cách mạng" không cần phải tuân theo một nguyê tắc nào cả. Bộ Tư pháp đã làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc luật số 4/64 ngày 18/2/64 thiết lập Tòa Án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoảng dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Khánh đã ra lịnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là "dư đảng Cần Lao". Số người bị câu lưu lên đến 267 ngườị Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà TT Trí Quang đòi nợ máu ra trước Tòa Án cách Ma.ng. Sau đây là vụ án của Phan Quang Đông và Dương Văn Hiếụ
ạ Vụ Phan Quang Đông :
Ngày 26/3/64, Tòa Án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử PQD về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế, các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26/10/55 - 1/11/63. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.
Năm 1957, PQD, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị (một cơ quan đặc vụ và tình báo), thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu thương và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đã đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất ở Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều trạ Vì các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đã bỏ ra mua và một số bằng chứng cho thấy các đương sự có liên hệ đến nhân viên tình báo của Pháp, nên PQD đã bắt và điều tra về việc hoạt động gián điệp cho Pháp. Khi đang tiến hành điều tra thêm thì Nguyễn Phương đã nhảy lầu tự sát. Đầu năm 1963, gia đình các nạn nhân đã đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho Đại tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng An ninh Quân đội điều tra nội vu.. Đỗ Mậu rất kỵ Ngô Đình Cẩn nên không dám tự ra Huế điều tra nên bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty Anh ninh Quân đội Huế ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đỗ Mậu, Thích nhờ Đại úy Nguyễn văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh của Cẩn giúp đỡ. Cẩn gọi Thích vào và sau khi biết là do TT Diệm chỉ thị điều tra nên Cẩn bảo Đại úy Thích điều tra một cách vô tư vì đây là lịnh của TT. Cẩn cũng ra lịnh PQD phải cung cấp tất cả tài liệu mà Đại úy Thích cần. Một bản phúc trình cho biết việc liên hệ với gián điệp Pháp là có căn cứ. Bản phúc trình được Đỗ Mậu trình lên TT Diệm và sau đó vụ này không còn nhắc tới nữa.
Dù rằng có bút tích của Đỗ Mậu nhưng ông ta cố tránh né không chịu trách nhiệm. Nhưng khi Tướng Ngyuyễn Khánh đã chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc của hình luật để xử tử hình PQD và Ngô Đình Cẩn thì mọi sự tranh luận về pháp lý và bằng chứng của tội phạm cũng bằng thừạ PQD bị tuyên án tử hình ngày 28/3/64.
LGT: "THẾ GIỚI ĐANG ĐỐI MẶT VỚI TRẬN TẤN CÔNG LỚN NHẤT VÀO SỰ THẬT KỂ TỪ NHỮNG NĂM 1930"! Đó là lời thú nhận chân thành của ông Lord Tony Hall, Tổng giám đốc Đài BBC Luân Đôn, cơ quan truyền thông lâu đời nhất thế giới đã phải cay đắng thừa nhận!!!
Một trong những sự thật kinh hoàng trong giai đoạn lịch sử cận đại của nước Việt Nam chúng ta đã bị bè lũ "mượn đạo tạo đời" Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất Khối Ấn Quang bóp méo, tuyên truyền và ngày đêm tung lên mạng xã hội những nhân chứng dổm, những chứng cớ ngụy tạo để bôi nhọ Chính Thể Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo anh minh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhằm CHẠY TỘI cho tội ác trời không tha, đất không dung của chúng đối với Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam.
Vì thế TRẢ LẠI SỰ THẬT cho lịch sử là một thúc bách lớn đối với website Chính Khí Việt Net! Cho nên tất cả những gì được trưng bày ở đây bằng hình ảnh, bằng những bài viết của rất nhiều nhân chứng sống thời kỳ 1954 -1963, dựa trên những sự thật không thể chối cãi của lịch sử sẽ là những tài liệu đúng đắn nhất nhằm đánh tan những luận điệu tuyên truyền của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nói chung và của băng đảng tập đoàn Ma Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, hậu thân Phật Giáo Ấn Quang nói riêng đã, đang tìm đủ mọi cách để bôi nhọ và xuyên tạc rằng chúng "đấu tranh" cho cái chúng gọi là Phật Giáo của chúng bị bách hại!!!???
Tài liệu dưới đây là quá trình tìm hiểu, thu thập, tổng hợp và nhận định của Chính Khí Việt, bút danh của anh Joseph L. Phạm trong hai thập niên qua đã được đăng trên các diễn đàn yahoogroups, facebook, các website của người Quốc Gia Tỵ Nạn VGCS....
Chúng tôi xin chân thành giới thiệu đến độc giả trong và ngoài nước với mong ước Sự Thật Của Lịch Sử không bị mai một, không bị bóp méo, không bị tuyên truyền và xuyên tạc trong âm mưu bôi bẩn những vị lãnh đạo và Quân - Cán - Chính Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn Lịch Sử 1954 - 1963!!!
Minh Thư Nguyễn
Ngày 01 Tháng 01, 2020
-----------
GIẤC MƠ LÃNH TỤ (15)8.Sự phát triển của PG từ thời Pháp thuộc :a.Thời Pasquier (1928) :
- Long Xuyên Phật Học cũng do HT Khánh Hòa cùng một số cư sĩ thành lập năm 1934 ở chùa Long Phước, Trà Vinh, thu nhận cả tăng lẫn nị
- Hội Bắc Kỳ Phật Giáo thành lập tại Hà Nội năm 1934 do các HT Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo và một số cư sĩ danh tiếng như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Ngô Văn Tố, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Năng Quốc, Dương Bá Trạc, v.v... Cư sĩ Nguyễn Năng Tố được bầu làm Chủ Ti.ch.
- Phật Học Kiêm Tế Hội do HT Thích Thiện Chiếu thành lập năm 1936 ở chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Hội này tuyên bố cổ võ cho bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm cho chúng sanh khổ được vui và kêu gọi hướng dẫn PG đi theo đường lối của Đảng CS Đông Dương.
- Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục do BS Lê Đình Thám thành lập tại Huế năm 1940. Cụ Đinh Văn Chấp, Tiến sĩ Hán học, thân phụ HT Minh Châu, phụ trách giảng dạy về Nho học và Lão học, còn Lê Đình Thám hướng dẫn về Phật học cho thanh niên Phật tử. TT Trí Quang sau này cũng xuất thân từ chỗ nàỵ
- Gia Đình Phật Hóa Phổ cũng do BS Lê Đình Thám lập năm 1944 để giáo dục các thiếu nhi Phật tử. Tổ chức này có một ban hướng dẫn gồm các cư sĩ sau đây : Văn Đình Hy, Đặng Tống, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Cao Chánh Hựu, Phan Xuân Sanh, v.v... Đây là những thành phần hoạt động tích cực khi phong trào PG miền Trung nổi lên. Võ Đình Cường là người chủ chốt trong vụ nàỵ Năm 1951, một hội nghị Gia Đình Phật Giáo Phổ được tổ chức tại Huế đã quyết định đổi tên thành Gia Đình Phật Tử.
- Hội Chỉnh Lý Tăng Già Bắc Việt do HT Thích Tố Liên thành lập năm 1949, đến tháng 9/1950 đổi thành Hội Tăng Già Bắc Việt.
- Hội Phật Tử Việt Nam do một số cư sĩ thành lập năm 1949 tại chùa Chân Tiên Hà Nộị
- Hội Phật Học Nam Việt do hai cư sĩ Mai Thọ Truyền và Lê Ngọc Diệp lập tại Saigon năm 1950.
- Phật Học Đường Bao Quốc do Thích Trí Thủ thành lập năm 1950 ở Huế. Phật Học Đường này thu nhận các học tăng khắp Trung, Nam, Bắc, cung cấp giảng sư cho các Tỉnh Hội Phật Giáo Miền Trung. HT Tịnh Khiết trụ trì ở chùa Tường Vân được tôn làm Hội Chủ.
- Giáo Hội Tăng Già Nam Việt do TT Thích Thiện Hòa và TT Thích Thiện Hoa thành lập năm 1952 tại cùa Ấn Quang, Saigon.
- Hội Tịnh Độ Cư Sĩ Việt Nam do các cư sĩ Huỳnh Văn Đơn, Lữ Huỳnh Anh và Nguyễn Văn Vân thành lập tại Saigon năm 1953.
- Hội Lục Hòa Phật Tử Việt Nam do các cư sĩ Lê Văn Điền, Phạm Văn Tân và Lê Văn Kiều thành lập tại Gia Định năm 1954.
- Chùa Ấn Quang được HT Thích Thiện Hòa cho xây cất năm 1949. Đầu tiên đây chỉ là một cái am có tên là Trí Tuệ Am, ở đường Lorgeril (tức Sư Vạn Hạnh), Chợ Lớn, sau gọi là chùa Ứng Quang. Tại đây Phật Học Đường Ứng Quang được thành lập, sau đổi thành Phật Học Đường Nam Việt và chùa Ứng Quang thành chùa Ấn Quang.
Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo tại Thừa Thiên bị giảm bớt sau cuộc "Cách Mạng Tháng 8" năm 1945, vì một số tăng sĩ quan trọng đã đi theo Mặt Trận Việt Minh. Mãi đến năm 1951, khi Pháp đã chiếm lại phần lớn Đông Dương và VC đã rút lui vào các chiến khu, việc phát triển PG mới bắt đầu mạnh trở lạị
Nhìn Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo nở rộ dướì thời Pháp thuộc, chúng ta có thể tin rằng kế hoạch phục hưng Phật Giáo của Pasquier là có thật.
b. Sự phát triển Phật Giáo dưới thời Đệ I Cộng Hòa :
Từ 1955-1963, sự phát triển của PG rất đáng kể, không thua gì thời Pháp thuộc. Ngoài các đoàn thể và cơ sở PG được thành lập dưới thời Pháp thuộc vẫn iếp tục hoạt động và phát triển, chính phủ Diệm đã cho phép thành lập rất nhiều tổ chức mới như :
- Hội Linh Sơn Phật Học được thành lập năm 1955 tại chùa Linh Sơn, Cô Giang, Saigon
- Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam do TT Thích Độ Lượng và Thích Huyền Minh thành lập năm 1955 tại Phan Thanh Giản, Saigon.
- Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam thành lập năm 1955 tại Đề Thám Saigon.
- Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam thành lập tại Đà Nẵng năm 1955.
- Hội Việt Nam Phật Giáo thành lập năm 1957 tại đường Phan Đình Phùng saigon.
- Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Long Vân, Gia Đi.nh.
- Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Kỳ Viên, Phan Đình Phùng Saigon.
- Hội Bồ Đề Đạo Tràng thành lập năm 1957 tại Âm Bồ Đề, Châu Đốc.
- Hội Phật Giáo tại Trung Phần thành lập năm 1957 tại chùa Từ Đàm, Huế.
- Hội Phật Tử Việt Nam thành lập năm 1958 tại chùa Đại Giác, Saigon.
- Giáo Hội Khất Sĩ Ni Giới Việt Nam thành lập năm 1958 tại Gia Đi.nh.
- Hội Phật Giáo Quan Âm Phổ Tế thành lập năm 1959 tại Phan Thanh Giản Saigon.
- Hội Việt Nam Phật Giáo Liên Hữu thành lập năm 1959 tại Saigon.
- Hội Từ Thiện PGVN thành lập năm 1959 tại chùa Huệ Lâm, Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Vĩnh Bình thành lập năm 1960 tại chùa Ông Mẹt, Vĩnh Bình.
- Hội Tứ Giáo Phật Học VN thành lập năm tại chùa Tam Bửu Biên Hòa năm 1961.
- Hội Phật Học Nguyên Thủy Ba Xuyên thành lập năm 1962 tại Ba Xuyên.
- Giáo Hội Cư Sĩ Phật Đường Nam Tông thành lập năm 1962 tại Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn thành lập năm 1963 tại Saigon.
Những thành quả mà PG đã đạt được dưới thời Đệ I Cộng Hòa đã dược Nguyễn Lang liệt kê trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (tập III), trang 304-307 như sau :
- Chỉnh đốn lại Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đem về đặt trụ sở tại chùa Ấn Quang.
- Nhiều tu viện, chùa và Phật Hoc. Đường đã được xây dựng như tu viện Nguyễn Thiều ở Bình Định, tu viện Quảng Hương Già Lam, Chùa Xá Lợi, Phật Học Đường Phước Hòa ở Trà Vinh, Nhi Học Viện Từ Nghiêm ở Saigon, v.v...
- Mở nhiều khoá huấn luyện tăng ni ở chùa Ấn Quang như khoá Tu Nghiệp Trụ Trì và Như Lai Sứ Giả năm 1957, lớp Phật Học Phổ Thông năm 1958. Giáo Hội Tăng Già VN cũng đã thành lập ban giảng sư lưu động năm 1959 để đi huấn luyện tăng ni trên khắp miền Nam VN.
- Các đại hội của Phật Giáo được mở liên tục như Đại Hội Tổng Giáo Hội VN kỳ 2 năm 1956, kỳ 3 năm 1957, Đại Hội Ni Bộ Miền Nam ở chùa Huê Lâm năm 1956, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Trung Việt kỳ 3 năm 1958, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc kỳ 3 năm 1959, Đại Hội Hoằng Pháp Toàn Quốc năm 1960, v.v...
- Các tạp chí Phật Giáo đua nhau ra đời như Phật Giáo Việt Nam, Liên Hoa, Văn Hoá, Từ Quang, v.v...
Trong cuốn "Phật Giáo tại Việt Nam", ông Mai Thọ Truyền cho biết lúc ông Diệm lên cầm quyền, số chùa tại miền nam là 2206 cáị Dướt thời ông Diệm số chùa lên đến 4776 cái, tức là tăng 2570 cái; trải ra cho 43 tỉnh miền Nam, thì mỗi tỉnh tối thiểu có 59 ngôi chùa mới; chùa cũ và mới cộng lại sẽ cho thấy mỗi tỉnh có trung bình 111 ngôi chùạ Trong cuốn "Our Vietnam Nightmare", Marguerite Higgins ghi nhận rằng chính phủ Diệm đã đóng góp 9 triệu đồng để trùng tu và xây cất chùa chiền. Có tất cả 1295 ngôi chùa đã được trùng tụ Riêng chùa Xá Lợi, ông Diệm đã góp vào 2 triệu đồng và sau đó còn cho xử dụng 7 lần tiền đua ngựa để xây cất.
Sự kiện mà một tỉnh có tối thiểu 59 ngôi chùa mới và tối đa 111 ngôi chùa chen chúc nhau từ thôn xã này đến làng kia, đó là một biểu tượng của sự tự do tôn giáo phát triển cực mạnh và sung mãn vô song. Việc bảo trợ và yểm trợ xây cất chùa chiền là dấu hiệu của một lòng sùng mộ thành tín đối với tôn giáo của nhà cầm quyền biết tôn trọng tôn giáo của các tôn giáo bạn.
Có một điều ít ai để ý là chính TT Diệm là người đầu tiên và duy nhất đã đem lại cho Phật Giáo một màu sắc dặc biệt mà trước đây tôn giáo này không hề có. Ngay từ những năm đầu của chế độ, ông đã lo việc thôi thúc các cơ quan liên hệ phải tìm cách để yểm trợ và tiếp tay với công việc tổ chức Đại Lễ Phật Đản và Rước Ngọc Xá Lợi năm 1956 (17/5/1956) qua các đường phố thật hết sức trọng thể. Số người tham dự đại lễ tại Saigon có tới vài vạn ngườị Rồi mỗi năm cứ thế tiếp đến 1960, Lễ Phật Đản có tổ chức rước đuốc, xe hoa trên nhiều đường phố. Năm 1961 Đại Lễ Phật Đản được tổ chức ngay tại vận động trường Quân Độị Năm 1962, LPD được tổ chức tại chùa Xá Lợị Tiếp đến là ngày 8/5/1963 tại Saigon, Đại Lễ Phật Đản được tổ chức một cách hết sức trọng thể, đông người tham dự, tuy bầu không khí hơi căng thẳng.
c. Sự phát triển của Phật Giáo thời Đệ II Cộng Hòa :
Sau 1/11/1963, sau khi hạ TT Diệm xong, "làm chủ" đất nước, nhóm PG cực đoan thừa thắng xông lên, làm áp lực buộc chính quyền mới phải tuân theo ý muốn của ho..
Mặc dầu quy chế chung cho tất cả các tôn giáo chưa được soạn thảo và ban hành, không coi thể thống quốc gia ra gì, GHPGVNTN mới thành lập đã làm áp lực bắt buộc chính quyền phải công nhận bằng một đạo luật Hiến Chương mà Giáo Hội này đã đệ trình, gây nên những rối loạn pháp lý mà chỉ vài năm sau đó, Giáo Hội Ấn Quang đã là nạn nhân của những đòi hỏi phi lý đó. Sau đây là những tổ chức PG được thành lập dưới thời "độc tài quân phiệt" Đệ II Cộng Hòa :
- Viện Cao Đẳng Phật Học được thành lập ngày 13/3/1964, có quyền cấp Cử nhân Phật học, Cao học Phật giáo và Tiến sĩ Phật học.
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) do 11 tông phái và hội Phật Giáo thành lập ngày 4/1/1964, được duyệt y bằng Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14/5/1964.
- Giáo Hội Thiền Tông Việt Nam được thành lập tháng 11/1964 tại Gia Đi.nh.
- Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do liên phái Phật Bửu Tự, Bửu Lâm Tự, Bình Hòa Tự, Long Quang Tự, Chơn Đức Tự và Giác Lâm Tự thành lập tháng 12/1964, tách khỏi GHPGVNTN.
- Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam do cư sĩ Nguyễn Trọng Tố thành lập tại Nha Trang năm 1965.
- Phật Hội Lục Phương Tông do 2 cư sĩ Võ Văn Trọng và Nguyễn Văn Toàn thành lập tại Saigon năm 1965.
- Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ do TT Thích Tọa Giác Nhiên thành lập tại Gia Định năm 1966.
- Hội Phật Giáo Phụng Sự Xã Hội do TT Thích Tâm Châu thành lập tại Saigon năm 1967.
- Việt Hàn Phật Giáo Tương Trợ Hội do 2 TT Thích Tâm Châu và Suk Kyung San thành lập tại Saigon năm 1967.
- Giáo Hội Đạo Tràng Thiên Học do tu sĩ Trần Rinh thành lập năm 1968 tại Hóc Môn, Gia Đi.nh.
Phật Giáo bắt đầu xây dựng những cơ sở to lớn : khởi đầu là Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản Saigon, sau đó là chùa Vĩnh Nghiêm, Viện Đại Học Vạn Hạnh và các cơ sở khác khắp miền Nam VN.
Ngày 24/4/1964, khởi công xây dựng Việt Nam Quốc Tự trên cơ sở đất rộng 45,000 m2. Sở đất này tọa lạc tại một địa điểm khá quan trọng trong thành phố, được chính phủ cho thuê với giá tượng trưng. Tuy gọi là cho thuê nhưng trong thực tế là biếu luôn.
Trong cuốn Bạch Thư 31/12/1993, HT Tâm Châu cho biết, để xây cất Việt Nam Quốc Tự, Tướng Nguyễn Khánh đã cúng 10 triệu, Tướng Nguyễn Cao Kỳ cho vay 50 triệụ Số tiền này được giao cho các TT Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thủ và Thích Từ Nhơn, nhưng các TT này giữ tiền luôn, không chịu xây cất chùạ Chi phí xây cất VNQT lúc đó được ước lượng khoảng từ 60-70 triệu đồng VN.
Nhưng vì sự lộng hành của TT Trí Quang trên chính trường miền Nam từ 1964-1966, khối PGAQ bị tan vỡ ra làm hai, các tông phái miền Bắc và miền Nam tách rời khỏi GHPGAQ. Những hậu quả này không phải do chính quyền mà do TT Trí Quang và nhóm PG miền Trung gây rạ
9. Nghĩ sao về 5 điều đòi hỏi của Phật giáo ?
Như thế trong 5 điều đòi hỏi của PG :
ạ Yêu cầu Chính phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ PG.
b. Yêu cầu PG phải được hưởng một chế độ đặc biêt như các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo đã được ghi trong Dụ Số 10.
c. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG.
d. Yêu cầu cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạọ
ẹ Yêu cầu chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng.
Thì yêu cầu "cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạo" không đúng với thực tế. Sử gia PG Lý Khôi Việt lại đi viết :"Chính trị VN suốt 100 năm nay, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con VN ưu tú (ý nói PG) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đưá con phản bội xấu xa (ý nói Công giáo)".
Như thế các tăng sĩ chùa Từ Đàm có lẽ đã thưà biết rõ là các điều (1), (2), (4) và cả (5) là không đúng như họ đã tố cáo, nhưng họ vẫn cứ làm to chuyện để có lý do là lật đổ TT Diệm, một chế độ được họ mệnh danh là "chế độ Thiên Chúa Giáo". Và qua các câu chuyện vừa kể trên người ta thấy động lực đấu tranh chính trị chính là sự tỵ hiềm về tôn giáo mà ra chứ không phải là sự kỳ thị (tôn giáo) ở trong luật pháp hay trong thực tế. Đây là điều mà ta cần nhớ rõ để quay lại khúc phim lịch sử này ("Theo Đỗ Mậu" trong VNMLQHT thì TT Trí Quang muốn lật độ TT Diệm vì chế độ này nếu tồn tại chỉ mang chính nghĩa cho CS, còn ông chống độc tài quân phiệt vì chế độ này làm tay sai cho ngoại bang). Mặt khác người ta không ngạc nhiên khi thấy Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đưa ra 5 yêu sách của PG thì Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ đã chấp nhận một cách nhanh chóng, vì những đòi hỏi đó phù hợp với tình trạng thực tế lúc đó của thời cuộc.
10. Câu chuyện giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ :
TT Thích Tâm Châu đã lập một Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ngày 15/5/1963. Ngày 25/5/1963, Ủy Ban này họp tại chùa Xá Lợi ở Saigon, ra tuyên ngôn tuyên bố tranh đấu cho 5 nguyện vọng của PG kể trên. Sau đó là những cuộc biểu tình và tuyệt thực xảy ra liên tiếp. Chính phủ đã xử dụng Cảnh sát Dã chiến để ngăn chặn các cuộc biểu tình và kiểm soát hoạt động đấu tranh của các chùa chiền.
Khi cuộc tranh đấu của PG ngày càng gia tăng, ngày 4/6/1963, một Ủy ban Liên Bộ được chính phủ thành lập để giải quyết các đòi hỏi của PG. Ủy Ban này gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương và Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần. Ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ họp với Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lần đầu tiên. Phái đoàn PG gồm có các TT Thiện Minh, Tâm Châu, Thiện Hoa, Huyền Quang (Thư ký) và Đức Nghiệp (Phó thư ký). TT Thiện Minh làm Trưởng đoàn.
Trong khi thương thuyết với Ủy Ban Liên Bộ, Võ Đình Cường cho áp dụng chiến thuật "vừa đánh vừa đàm" để đạt thắng lợi tối đạ Các chiến dịch biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu được phát động khắp nơị Vụ HT Thích Quảng Đức tự thiêu cũng nằm trong chiến thuật nàỵ Có thể nói trong giai đoạn gây xáo trộn này, PG đã thường dùng các phương thức sau đây : biểu tình bạo động quá khích, nổi lửa tự thiêụ
Sau khi tin HT Quảng Đức tự thiêu và ngày 11/6/1963 được loan đi khắp thế giới, ngày 12/6/1963 HT Thích Tịnh Khiết từ Huế vào saigon. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ liền mời HT Tịnh Khiết họp với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ, nhưng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo thấy rằng đưa HT Tịnh Khiết đi thương thuyết không có lợi vì HT quá hiền lành và ngay thật, nên TT Tâm Châu nói rằng sau 5 ngày tuyệt thực, HT Tịnh Khiết đang mệt, không họp được. Ngày 13/6/63, Phật tử treo cờ khắp nơị Ngày 14/6/63, 2 Ủy Ban họp lần thứ hai tại Hội Trường Diên Hồng. Vì TT Diệm ra lệnh phải đi đến một thỏa hiệp nhanh chóng, nên 2 Ủy Ban đã họp ngày họp đêm trong suốt 3 ngày liên tục, đến ngày 16/6/63, cả 2 Ủy Ban đã ký kết một thông cá chung gồm những diểm sau đây :
- Quy định lại thể thức treo cờ quốc gia và cờ PG Quốc Tế : Cờ PG Quốc Tế khi treo chung được làm nhỏ hơn 1/3 quốc kỳ.
- Tách các hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ Số 10.
- Chính phủ cam kết không trả thù những người tham gia cuộc vận động thực hiện 5 nguyện vọng của PG.
- Bảo đảm quyền tự do truyền đạo của Phật tử.
- Trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ thảm sát ở Huế và bồi thường cho các gia đình nạn nhân.
Thông cáo chung vừa được ký xong thì Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo vội đưa về cho HT Tịnh Khiết viết vào một chữ KHÁN rồi ký tên vào chỗ dành cho Tổng Thống. Khi Thông Cáo Chung được chuyển qua Phủ Tổng Thống, mọi người nhìn thấy chữ ký của HT Tịnh Khiết ở chỗ dành cho Tổng Thống, đều lắc đầụ Tuy nhiên TT Diệm vẫn cầm viết và phê vào :"Những điều được ghi trong Thông Cáo Chung này đã được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu".
Các sử gia PG cho đây là một thắng lợi của PG. Tất cả nguyện vọng của PG đều được chấp thuận.
Một buổi lễ tang dự trù cho HT Quảng Đức ngày Chủ Nhật 16/6/63 tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn người; rồi khoảng hàng trăm ngàn Phật tử tham dự bỗng trở thành đám biểu tình và bị cảnh sát dàn chàọ Xô xát kéo dài 45' trước chùa Xá Lợị Vụ tự thiêu của HT Quảng Đức chỉ là một chiến thuật của TT Trí Quang, nhưng quần chúng Phật tử quay lòng căm thù vào ông Diệm; TT Trí Quang muốn dùng quần chúng gây bạo động và khi bạo động càng nhiều thì ông Diệm càng bị mắc bẫỵ Ngay buổi tối hôm đó, Thiết Giáp phải đến tăng cường. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương vì trúng đạn ở đầụ 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ. 3 ngày sau, 19/6, nhờ cảnh sát, công an nỗ lực kiểm soát nên lễ an táng của HT Quảng Đức diễn tiến không gây thêm đổ máụ
11. Trò ảo thuật của TT Trí Quang :
Sau khi thông cáo chung được ban hành ít ngày thì nhóm PG cực đoan miền Trung cho phổ biến một "mật điện" nói là mới bắt được. "Mật điện" đó mang số 1342/VP/TT ngày 19/6/63 được nói là do ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống đánh đị Mật điện được công bố có nội dung như sau :
"Để tạm thời làm êm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, TT và ông Cố Vấn ra lịnh tạm thời nhún nhường ho.. Các nơi nhận hãy theo đúng chủ trương trên và đợi li.nh. Ngay từ bây giờ hãy chuẩn bị cho giai đoạn tấn công mớị Hãy theo dõi điều tra, thanh trừng những phần tử PG bất mãn và trình thượng cấp, kể cả các sĩ quan và công chức cao cấp".
Đọc lối hành văn và các từ ngữ xử dụng các công chức chính phủ nhận ra ngay đó là môt mật điện giả. Đây phải là mật điện do VC nằm vùng sáng chế rạ Phủ TT đã ra một thông cáo phủ nhận hoàn toàn bức mật điện nàỵ
Sau khi bức điện giả nói trên được tung ra, ông Ngô Đình Nhu hiểu rằng nhóm PG cực đoan miền Trung đang cố tạo lý do mới để tiếp tục xách động đấu tranh nhằm lật đỗ chính phủ. Lý do mới đó là "chính phủ không thi hành nghiêm chỉnh thông cáo chung", do đó cuộc đấu tranh mới cũng gồm đủ cả biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu như trước.
Rất bực mình trước thủ đoạn này ông Nhu tìm cách lật lại thế cờ. Ngày 20/6/1963, ông yểm trợ cho HT Huệ Tâm lập Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn, rồi giúp HT Thích Nhật Minh lập Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy để ủng hộ chính quyền. Ông cho thương phế binh biểu tình trước chùa Xá Lợi vào ngày 23/7/1963 tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo gây rối loạn chính tri.. Ông thuyết phục ông Đoàn Trung Còn, Hội Trưởng Trung Ương Phật Giáo Tịnh Độ Tông, lên án những kẻ lợi dụng danh nghĩa PG phá rối trật tự công cô.ng. Các tỉnh trưởng miền Trung giúp ông bằng cách thuyết phục một vài tông phái PG khác như Phật Giáo Lục Hòa Tăng Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần, gởi kiên nghị ủng hộ đường lối của TT Diệm và tố cáo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang phá hoại an ninh trật tự trong nước. Đến giai doạn quyết liệt, ông ra lệnh lục soát các chùa và bắt những lãnh tụ PG chống đốị Nhưng ông không đề phòng nổi mạng lưới mà cơ quan tình báo Hoa Kỳ đang tung ra đàng sau biến cố đó.
12. Sự can thiệp của Hoa KỳHoa Kỳ đã quyết định lật đổ TT Diệm kể từ năm 1960, khi TT Diệm từ chối lời yêu cầu của Phó TT Johnson cho Hoa Kỳ đem quân đổ bộ vào miền Nam và thiết lập các căn cứ quân sư..
ạ Âm mưu của Hà Nội : Trong bài diễn văn đọc khai mạc Đại hội đảng lần thứ 3 vào tháng 9/1960, HCM tyên bố công cuộc cải tạo XHCN tại miền Bắc coi như đã hoàn thành trên căn bản. Giai đoạn tới là giai đoạn "giải phóng miền Nam". Sau đó, Đại hộ 3 ra Nghị Quyết tuyên bố
"Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam".
Thi hành quyêt nghị này, Hà Nội cho lập tại miền nam một tổ chức bù nhìn được mệnh danh là MTGPMN do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ ti.ch. Trong lễ ra mắt ngày 20/12/1960, MTGPMN đưa ra bản tuyên ngôn rập y khuôn của Nghị Quyết trên, có đoạn như sau :"Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài NĐ, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ".
Một chiến dịch được gọi là Đồng Khởi được phát xuất từ Bến Tre và lan rộng ra cả miền Nam VN. Trước tình thế này, TT Diệm yêu cầu T Kennedy viện trợ quân sự và kinh tế cho miền Nam N để chống lại sự xâm lăng của CS.
b. Đòi thiết lập các căn cứ quân sự :Ngày 5/5/1960, trong một cuộc họp báo, TT Kennedy tuyên bố rằng tình hình NVN đang nguy ngập và nếu cần, ông "sẽ cứu xét đưa quân đội Hoa Kỳ đến VN để chống lại các cuộc tấn công của CS". TT đưa ra lời tuyên bố này khi chưa có lời yêu cầu của TT Diệm.
Ngày 9/5/60, một phái đoàn của PTT Johnson đến miền Nam trong 4 ngày để quan sát và hội đàm với TT Diệm. Trong cuộc hội đàm ngày 12/5/60, có sự hiện của Đại sứ Nolting, Johnson đề nghị để quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam, nhưng TT Diệm tỏ ra do dư.. Ông nêu ra điều 19 của Hiệp định Geneva 1954 để có lý do hòa hoãn. Điều này quy định :"Kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, cấm không được lập một căn cứ quân sự ngoại quốc nào trong vùng tập hợp nào của đôi bên; 2 bên cam doan rằng vùng thuộc về họ không tham gia một liên minh quân sự nào và không bị xử dụng để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược".
Phó TT Johnson tỏ ra không bằng lòng về sự từ chối nàỵ
Ngay sau đó, trong ngày 12/5/60, Đại sứ Nolting đã gởi cho Ngoại trưởng Dean Rusk một báo cáo mật như sau :"Tướng Mc Garr và tôi có mặt tại cuộc thảo luận giữa ông Diệm và PTT Johnson về việc đưa lực lượng Mỹ vào VN. Ông Diệm đã nói với PTT rằng ông ta không muốn quân chiến đấu Hoa Kỳ dến VN, trừ trường hợp miền Bắc công khai đưa quân xâm lược".
PTT Johnson vừa rời VN vào ngày 13/5/60 thì 2 ngày sau TT Diệm đã gởi ngay cho TT Kennedy một văn thư sau :"Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu vãn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất của quý quốc, một sự yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng". ("Hồ sơ mật Dinh Độc lập", Nguyễn Tiến Hưng).
Qua văn thư này, rõ ràng TT Diệm đã gián tiếp bác bỏ việc đưa quân đội Mỹ vào VN. Washing ton không hài lòng về sự từ chối này nên chỉ viện trợ nhỏ giọt khiến Quân đội VNCH không đủ sức đẩy lui toàn bộ cuộc xâm lăng của CS. Tình hình quân sự ngày càng xấu đị
Các nhà phân tích nói rằng Hoa Kỳ muốn cho tình hình quân sự trở nên xấu hơn để chính phủ Diệm phải yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân và cho thiết lập các căn cứ quân sự
c. Cái bẫy sập được đưa ra ;Biến cố PG là một cơ hội tốt để Hoa Kỳ thực hiện ý định lật đổ chính phủ Diệm. Ông Lê Văn Dư, Trưởng ty Công an Thừa Thiên cho biết có những sự liên hệ chặt chẽ của các nhân viên Tòa Lãnh sự Mỹ ở Huế với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm. Những lần đầu, các cuộc gặp gỡ đều có sự có mặt của ông Dự Các lần sau, các viên chức Lãnh sự tự liên lạc lấỵ Ông có cho công an theo dõị Chính nhờ sự khuyến khích của các nhân viên tình báo Hoa Kỳ, TT Trí Quang mới càng ngày càng làm mạnh hơn.
Để có lý do hành động, TT Kennedy đã gởi 2 đặc sứ qua VN cùng lúc để điều tra vụ PG. 2 đặc sứ nay là Trung tướng Krulak và Tham vụ Ngaọi giao Mendenhall. 2 người làm bản phúc trình khác biệt nhau khiến TT Kennedy lúng túng. Tháng 10/1963, Kennedy gởi Tướng Ẹ Landsdale, cố vấn chính phủ Diệm trước đây, để điều tra thêm. Landsdale làm báo cáo là nên thương lượng với chính phủ Diệm là tốt hơn cả. Nếu lật đổ TT Diệm tình hình sẽ trở nên khó khăn hơn. Báo cáo này làm Kennedy giận dữ. Ông cần một báo cáo nói phải thay TT Diệm để dễ giải thích với dư luận Mỹ hơn. Từ đó, TT kennedy không muốn nói chuyện với Tướng Lansdale nữạ
d. Âm mưu chống đảo chánh và đảo chánh :Để thực hiện cuộc đảo chánh này, Washington nghĩ ngay đến Cabot Lodgẹ Ông sinh năm 1902 tại Nahant, Massachussetts và chết năm 1985, tốt nghiệp Harvard năm 1924, từng là nghị sĩ và ứng cử viên Phó TT năm 1960. Ông đang ở Honolulu thì được lệnh sang Saigon vào ngày 22/8/1963 thay thế Đại sứ Nolting. Ngày 22/8/63, Lodge trình ủy nhiệm thư lên ông Diệm.
Khi Lodge đến thì TT Diệm đã biết là Hoa Kỳ quyết định tổ chức đảo chánh, nên ông Nhu đã vạch kế hoạch đối phó, trong đó có cả kế hoạch tổ chức cuộc đảo chánh giả gọi là Bravo I để lừa các tướng dịnh đảo chánh và bắt giữ. Kế hoạch này giao cho Tướng Đính, Tư lệnh Quân đoàn 3. Nhưng Đính theo phe đảo chánh nên kế hoạch bị hỏng.
Sau khi trìh ủy nhiệm thư xong, Lodge liên lạc ngay với Trung tá Lucien Conein, Trưởng cơ quan CAS (CIA) của Mỹ tại VN thời đó. Conein sinh ở Pháp, đã từng nhảy dù xuống VN năm 1944 trong tổ chức tình báo của Mỹ nên quen biết nhiều với các tướng lãnh VN. Tướng Trần Văn Đôn là bạn của Conein trong 18 năm quạ Đôn lúc đó là Quyền Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, thay thế Đại tướng Lê Văn Tỵ đang được chữa bịnh ung thư tại Mỹ. Conein đã móc nối với các tướng Đôn, Khiêm, Minh, Kim để thuê làm đảo chánh.
Trong cuốn "Our Endless War Inside VN", Đôn kể lại rằng hôm 2/10/63 khi lên đường đi Nha Trang ông thấy Conein theo ông ra tận máy baỵ 2 người hẹn gặp nhau ở Nha Trang và chiều hôm đó gặp nhau bàn về chuyện đảo chánh. Ngày 5/10/63, Conein gặp Tướng Dương Văn Minh để bàn về việc nàỵ Minh muốn có bảo đảm về sự ủng hộ của Mỹ trong việc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 10/10/63, Conein gặp Minh để hỏi về chi tiết cuộc đảo chánh. Trong cuộc gặp này, Minh yêu cầu mọi liên lạc giữa Mỹ và VN liên hệ tới đảo chánh phải qua Minh.
Trong khi Conein và các tướng lãnh VN hoạch định kế hoạch thì Lodge giả làm áp lực đòi ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và bà vơ.. Ông cho biết nếu không làm thế thì Mỹ sẽ ngưng viện trơ.. Lodge cũng chỉ thị khuyến khích PG gia tăng bạo đô.ng.
Này 10/9/63, bà Nhu dẫn một phái đoàn đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư và nhân tiện qua Âu Châu "giải độc".Ngày 25/10/63, Lodge gởi cho George Bundy, Phụ tá đặc biệt của TT Kennedy đặc trách về an ninh một bản báo cáo rằng CSA "vẫn thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôị Tôi đã đích thân chấp thuận mỗi cuộc họp giữa Đôn và Conein, người đã thi hành mệnh lệnh của tôi xuất sắc trong mọi trường hợp..."
ẹ Một trò chơi nguy hiểm ?
Trước tình thế này, ông Ngô Đình Nhu đã tìm cách thương lượng với Bắc Việt để loại ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đã mời Manelli, Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến để nhờ liên lạc với Hà Nội qua Đại sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề nghị mở cuộc tiếp xúc giữ 2 bên. Bắc Việt chấp nhận ngaỵ Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đã xác nhận điều nàỵ Trong cuộc gặp gỡ, 2 bên đồng ý tái lập trước tiên về liên lạc bưu điện và sau đó về giao thương để tiến tới thống nhất đất nước trong hòa
bình. Sau cuộc tiếp xúc đó, ông Nhu cố ý tiết lộ nội dung cuộc tiếp xúc cho báo chí biết để ngầm thông báo cho
Washington.
Song song với sự tiết lộ của ông Nhu, TT De Gaulle lên tiếng kêu gọi lại bỏ "ảnh hưởng ngoại quốc" ra khỏi VN, còn HCM lên tiếng nói rằng một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa thuận.
Thật ra, trong năm 1963, Lodge đã đưa ra một kế hoạch 3 giai đoạn để Hà Nội và Saigon có thể nói chuyện với nhaụ Manelli là người làm trung gian giữa Saigon - Tòa Đại sứ Pháp - Hà Nộị Ông Nhu đã hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại phòng đọc sách của ông ("War of the Vanquished", Mieczyslaw Maneli). Chuyện này Mỹ biết rõ.. Nhưng hành động độc lập của ông Nhu kỳ này đã làm Washington tức giận hơn. TT kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến hành cuộc đảo chánh nhanh chóng hơn.
Theo "Việt Nam 30 năm máu lửa" của Cao Thế Dung, nxb Alpha 1991, tr. 597, thì tới nay chưa có một văn kiện hay tài liệu khả tin nào về vụ ông Ngô Đình Nhu toan tính thỏa hiệp với HCM ngoại trừ cuốn "War of the Vainquished" của Mieczlaw Maneli đã kể trên, và một số bài báo chỉ căn cứ trên một số nhân vật và thiếu chứng cớ.
f. Từ chủ động tới công cụ :
Qua các sự kiện của lịch sử trong giai đoạn này, ta thấy mục tiêu tranh đấu của nhóm PG cực đoan miền Trung đưa ra chỉ là mục tiêu giả. Những điều mà họ phản kháng không có căn bản vững chắc. Mục tiêu thật sự chính là lật đổ ông Diệm, còn vụ Pháp nạn 63 chỉ là một chiêu bàị Chính Hoa Kỳ đã khởi xướng và chỉ huy cuộc đảo chánh. Mỹ muốn thay thế ông Diệm từ 1960 vì ông Diệm không đồng ý cho Mỹ đổ quân vào VN và thiết lập các căn cứ quân sư.. Vụ PG là cơ hội tốt để Hoa Kỳ khai thác để thực hiện chính sách xâm nhập Đông Nam Á. Người ta không ngạc nhiên khi thấy cả báo chí lẫn chính phủ Mỹ đã cố tình thổi phồng vụ PG như một cái cớ để biện minh cho chủ trương lật đổ ông Diệm. Cuộc đảo chánh tuy do các tướng VN thực hiện, nhưng Lodge đã ra lịnh cho Conein đứng ra tổ chức và chỉ huy từ đầụ Chính Lodge là người đưa lịnh cho Minh hạ sát TT Diệm và ông Nhụ Sau khi đảo chánh xong, các tướng lãnh VN đều được lãnh tiền thù laọ
Về phía VC, Khu Ủy Trị - Thiên - Huế nhìn nhận rằng trong cuộc đấu tranh chống ông Diệm này, vì phong trào bị đẩy lên quá nhanh họ không đi theo kịp nên đã bị dẫn đi trật hướng. Sự đẩy nhanh này là do bàn tay của Mỹ mà VC không đoán trước được. Bản kiểm điểm đã viết như sau :
"Cuộc đấu tranh với quy mô lớn nhất nổ ra quyết liệt từ ngày 5/8/63 lôi cuốn hàng vạn quần chúng, có một số tầng lớp trên và binh sĩ ngụy tham gia, đã tiến hành mít-tinh làm cho địch phải dùng súng đạn, kể cả đạn dại bác để đàn áp. Phong trào đấu tranh nhanh chóng bùng lên, thu hút hàng chục vạn người từ thành thị đến nông thôn khắp cả tỉnh đấu tranh quyết liệt với địch trong 3 tháng liền. Nhưng do "lãnh đạo của ta không đi kịp quần chúng, tổ chức không đi kịp phong trào" nên bọn cơ hội đầu hàng trong giới cầm đầu PG lái di lệch hướng.
Cuộc đấu tranh này tuy mang màu sắc tôn giáo, nhưng thực chất là cuộc đấu tranh cách mạng của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động ở thành thị, nông thôn chống lại chính sách chiến tranh tàn bạo của MỹĐiệm.
Phong trào đấu tranh quần chúng dưới danh nghĩa "phong trào PG" ở Huế đã mở đầu cho phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các thành thị miền Nam và đã đẩy chế độ MỹĐiệm từ trạng thái không ổn định đi đến tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kể cả những nơi mà chúng coi là dinh lũy cuối cùng" ("Chiến trường Trị -Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng", Thuận Hoá, 1985, t. 80-81).
Về phía PG, TT Trí Quang và các lãnh tụ PG khác thuộc chùa Từ Đàm ở Huế đã đi từ thế chủ động qua thế bị động, trở thành công cụ của Hoa Kỳ lẫn VC. Sau này khi Mỹ hết xử dụng lá bài PG, họ đã bật đèn xanh cho Tướng Kỳ dẹp bỏ. TT Trí Quang trong khi đó vẫn nghĩ rằng báo chí và chính phủ Mỹ tiếp tục ủng hộ PG như trước, nên đã đánh điện kêu cứụ
Sau khi chính phủ Diệm bị lật đổ, các lãnh tụ PG chùa Từ Đàm tin rằng sự "nổi dậy của PG" đã làm cho chính phủ Diệm bị sụp đổ, nên say men chiến thắng, gây nhiều biến loạn tiếp theo gây đau thương cho chúng tăng và cho cả đất nước miền Nam tự dọ
Đòi nợ máu, diệt Công giáo, ngụy hòa và cướp chính quyền
3 năm sau khi chế độ NĐ sụp đổ, từ 1964-1966, được gọi là "3 năm xáo trộn", 3 năm kinh hoàng của miền Nam VN. Đây là thời kỳ có lúc gần như không còn chính quyền nữa, nhóm PG cực đoan miền Trung phát xuất từ chùa Từ Đàm Huế, hành động dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, rồi Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nắm quyền sinh sát trong tay, muốn bắt ai thì bắt, muốn phá chỗ nào thì phá, muốn đốt nơi nào thì đốt, muốn giết ai thì cứ ám sát, tự tung tự tác trong cơ quan công quyền, nơi trường học, trên đường phố... Tổ chức này đã bắt cả Tỉnh trưởng Quảng Nam và Quận trưởng Hoà Vang đem đi giam vì không chịu theo phe của ho..
Nhóm này tin tưởng rằng, khi họ "lật đổ" được NĐ, một chế độ chống Cộng vững mạnh tại miền Nam, thì họ có thể làm bất cứ cái gì họ muốn mà không một chính quyền nào dám cưỡng lạị Say men chiến thắng, họ đã đưa ra nhiều yêu sách buộc chính quyền phải thực hiện ngaỵ Trước hết đòi một "quy chế đặc biệt" cho PG, rồi đòi "diệt dư đảng Cần Lao TCG", đòi đưa các nhân vật PG lên nắm chính quyền, đòi cả những điều mà Bắc Việt và MTGPMN vẫn lải nhải trên đài phát thanh hàng ngày : Quân đội miền Nam và Hoa Kỳ phải đơn phương ngưng chiến, Mỹ rút, thành lập chánh phủ liên hiệp, trung lập và không liên kết, v.v... Khi những đòi hỏi phiêu lưu này không được thỏa mãn, họ phát động những chiến dịch lôi PG vào vừa bằng chiến tranh chính trị, vừa bằng bạo động và quân sự để cướp chính quyền. Các vụ bạo động này càng dữ dội gấp 10 lần dưới thời ông Diệm, đưa tới những bi thảm cho cả PG đồ lẫn đất nước đến nổi các sử gia PG ít ai dám mô tả lại đầy đủ.
1. Một biến cố bất ngờ :
Sau khi tiếng reo hò ngày 1/11/63 chưa dứt thì một biến cố khác xảy rạ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lịnh Phó Quân đoàn I cho biết rằng sau khi nghiên cứu kỹ, ngày 29/1/64, ông và Tướng Nguyễn Khánh, Tư lịnh Quân đoàn I và Bộ tham mưu Quân đoàn I vào Saigon hợp với Tướng Dương Văn Đức làm cuộc "chỉnh lý" lật đổ nhóm tướng lãnh làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Cuộc "chỉnh lý" này thành công khá dễ dàng. Tướng Thi cho biết nhờ Mỹ ủng hộ nên Tướng Khánh mới dám hành động như vậỵ
Tướng Khánh tuyên bố trên đài phát thanh : "Từ 3 tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo thực dân và CS, nên một lần nữa Quân đội lại phải can thiệp".
Các nhà bình luận cho rằng Mỹ để Tướng Khánh hành động như vậy vì các lý do :
- Các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 chỉ có khả năng đạp đổ chứ không có khả năng cầm quyền.
- Mỹ lo sợ nhóm PG cực đoan miền Trung là một nhóm có lập trường chính trị mù mờ, có nhiều tham vọng và bị CS lũng đoạn, có thể dựa vào các tướng lãnh thân họ để gây rối loạn và đưa miền Nam vào một một hướng đi khác. Vậy cần phải loại bỏ các tướng lãnh đó đi và giao quyền hành lại cho một nhóm khác có khả năng cầm quyền và có thái độ thân Mỹ hơn. Tài liệu của Pentagon cho biết sau khi cuộc "chỉnh lý" hoàn tất, Lodge đã gởi một báo cáo cho Washington nói rằng khuynh hướng theo chủ trương trung lập của 2 tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn chưa rõ rệt, nhưng khi họ đã củng cố được chính quyền, có lẽ họ sẽ tán thành giải pháp trung lập của Pháp. Lodge cho biết, Đại sứ Ý D'Orlandi đã lưu ý 2 tướng Đôn và Kim (vẫn còn giữ quốc tịch Pháp), từng là phụ tá của De Lattre de Tassigny và hoạt động đắc lực cho Sở Mật thám của Pháp trong quá khứ, cho nên dư luận về chủ trương trung lập hóa miền Nam có thể đúng. Ông viết tiếp :
"Sau hết, tại nước này hiện nay, it khi có chuyện một cuộc bầu cử là một phương cách hữu hiệu, thích hợp để hoàn tất một vấn đề quan tro.ng. Để làm những chuyện quan trọng ở đây, phương pháp truyền thống là xử dụng sức mạnh có kế hoạch, có suy nghĩ kỹ càng. Điều mà Tướng Khánh đã làm không làm cho người VN ngạc nhiên... Tuy nhiên, một số người VN đã nói với các nhân viên trong bộ tham mưu của tôi rằng ông Minh là người tốt, thay thế ông ta là tội nghiệp.
"Vấn đề thiết thực phải đặt ra là Tướng Khánh có khả năng không ? Liệu ông ta có đáp ứng dược một số hành động góp phần vào nỗ lực chống Cộng hay không ? Cho đến nay, có bằng chứng cho thấy ông ta có khả năng, ông ta không chấp nhận một sự chậm trể nào...
"Nếu Tướng Khánh có khả năng thì việc ông lên cầm quyền có thể đem lại cho đất nước này một Bộ tư lệnh chỉ có một người duy nhất thay vì một Hội đồng Quân nhân. Chúng ta có những điều chúng ta cần ở VN".
Vào tháng 3/64, TT Johnson đã chỉ thị cho Lodge phải đánh đổ ý tưởng trung lập. Ông yêu cầu chuyển mối quan tâm này cho Tướng Khánh và hỏi ý kiến về một kế hoạch chung để chấm dứt ý tưởng trung lập hóa này tại Saigon cũng như ở Washington và Paris.
Quan điểm của Lodge rất quan tro.ng. Nó cho thấy quan niệm của Hoa Kỳ về một chính quyền cần có tại miền Nam. Chính quyền này không có nơi các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 nên Hoa Kỳ đã đi tìm nơi khác. Tướng Khánh là người họ tin tưởng.
Trước biến cố bất ngờ ngày 30/1/64 do Tướng Khánh tạo nên, các nhà lãnh tụ PG đi từ ngơ ngác đến lo âu, không biết phải phản ứng ra saọ Nhưng thấy thái độ hòa hoãn và mị dân của Tướng Khánh, họ lại tiếp tục lấn lên.
* Tiễn đưa "ân nhân" :
Khi biến cố "chỉnh lý" ngày 30/1/64 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm PG đấu tranh thì họ lại phải tiễn đưa một "ân nhân" ra đị Ngày 23/6/64, Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28/6/64, ông mặc áo gấm màu xanh có hình chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền VN, rời phi trường Tân Sơn Nhất. Ra tiễn đưa Lodge, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của PG. Trước khi lên máy bay, Lodge đã nói với các ký giả :"Khi từ giả VN, tôi chỉ có ân hận có mọt điều là không cứu sống được ông Diệm". Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đã kể rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ TT Diệm, Lodge đã nói với ông :"Nếu để ông Diêm lưu vong thì bất cứ một Đại tá nào cũng có thể đảo chánh để đưa ông Diệm về". Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời VN đã làm nhóm PG đấu tranh khó chịụ
Tướng Maxwell D. Taylor đã được cử làm Đại sứ tại VN thay cho Lodgẹ
2. Đòi nợ máu :
Trong bộ "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận", Nguyễn Lang (HT Thích Nhất Hạnh) đã nhận xét :
"Sự hạ sát TT Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1/11/1963. Dù có ra lịnh hay không ra lịnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mạng hai ngườị Cái chết của họ đã kéo theo cái chết của hai vị Thiếu tá Nhung và Nghĩạ Nhưng đã hết đâụ Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt".
Thật ra cái chết của TT Diệm và ông Nhu không phải là "một điều đáng tiêc" như Nguyễn Lang viết, mà đây chỉ là màn đầu của một chiến dịch đòi nợ máụ Nhóm TT Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lãnh biết :
- Những người sau đây phải đền tội : Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Tháị
- Các "dư đảng Cần Lao", phải rời các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo CG và khi nói "diệt dư đảng Cần Lao" thì phải hiểu là diệt Công giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm PG cực đoan miền Trung.
- Các nhân vật PG được mệnh danh là "các tướng Cách Mạng" (Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu,...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền...
Những đòi hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí PG, trong các cuộc biểu tình và tuyên ngôn tuyên cáo của nhóm TT Trí Quang. Nhưng Tướng Minh còn do dư.. Ông hiểu rằng những chuyện này không thể làm được. Sau vụ hành quyết 2 anh em ông Diê.m-Nhu do lệnh của Conein qua tay Tướng Mai Hữu Xuân thì có nhiều sự bất bình trong hàng ngũ các tướng lãnh vì họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều người trong họ cho đó là hành động quá đáng và không cần thiết. Tướng Đôn đã chỉ trích Tướng Minh về việc không thông báo cho ông biết lịnh của Lodge và Conein. Do đó Tướng Minh đã không dám đáp ứng đòi hỏi củ TT Trí Quang.
Nhưng ngày 30/1/64, Tướng Khánh đã làm cuộc "chỉnh lý". Khánh vốn là người được TT Diệm nâng đở đặc biệt và không tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Để chứng tỏ rằng ông không bênh vực "dư đảng Cần Lao", việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các "dư đảng" này ra xét xử.
Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ trưởng Tư pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn và những người liên hê.. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt Hình Luật thì không thể tuyên án tử hình những tội vớ vẫn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền, v.v... Vậy thì còn một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu quy định mới này có "hiệu lực hồi tố" (retroactive effect). Một nguyên tắc của hình luật là luật hình chỉ áp dụng cho các hành vi xảy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xảy ra trước ngày đó. Sự quy dịnh như trên là trái với nguyên tắc căn bản của hình luật. Nhưng "cách mạng" không cần phải tuân theo một nguyê tắc nào cả. Bộ Tư pháp đã làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc luật số 4/64 ngày 18/2/64 thiết lập Tòa Án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoảng dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Khánh đã ra lịnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là "dư đảng Cần Lao". Số người bị câu lưu lên đến 267 ngườị Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà TT Trí Quang đòi nợ máu ra trước Tòa Án cách Ma.ng. Sau đây là vụ án của Phan Quang Đông và Dương Văn Hiếụ
ạ Vụ Phan Quang Đông :
Ngày 26/3/64, Tòa Án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử PQD về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế, các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26/10/55 - 1/11/63. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.
Năm 1957, PQD, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị (một cơ quan đặc vụ và tình báo), thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu thương và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đã đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất ở Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều trạ Vì các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đã bỏ ra mua và một số bằng chứng cho thấy các đương sự có liên hệ đến nhân viên tình báo của Pháp, nên PQD đã bắt và điều tra về việc hoạt động gián điệp cho Pháp. Khi đang tiến hành điều tra thêm thì Nguyễn Phương đã nhảy lầu tự sát. Đầu năm 1963, gia đình các nạn nhân đã đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho Đại tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng An ninh Quân đội điều tra nội vu.. Đỗ Mậu rất kỵ Ngô Đình Cẩn nên không dám tự ra Huế điều tra nên bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty Anh ninh Quân đội Huế ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đỗ Mậu, Thích nhờ Đại úy Nguyễn văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh của Cẩn giúp đỡ. Cẩn gọi Thích vào và sau khi biết là do TT Diệm chỉ thị điều tra nên Cẩn bảo Đại úy Thích điều tra một cách vô tư vì đây là lịnh của TT. Cẩn cũng ra lịnh PQD phải cung cấp tất cả tài liệu mà Đại úy Thích cần. Một bản phúc trình cho biết việc liên hệ với gián điệp Pháp là có căn cứ. Bản phúc trình được Đỗ Mậu trình lên TT Diệm và sau đó vụ này không còn nhắc tới nữa.
Dù rằng có bút tích của Đỗ Mậu nhưng ông ta cố tránh né không chịu trách nhiệm. Nhưng khi Tướng Ngyuyễn Khánh đã chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc của hình luật để xử tử hình PQD và Ngô Đình Cẩn thì mọi sự tranh luận về pháp lý và bằng chứng của tội phạm cũng bằng thừạ PQD bị tuyên án tử hình ngày 28/3/64.
0 comments:
Post a Comment