CHÍNH KHÍ VIỆT

Tuesday, March 19, 2013

00118 TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ / GIẤC MƠ LÃNH TỤ (12 -13)

00118 TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ  



 
 
LGT: "THẾ GIỚI ĐANG ĐỐI MẶT VỚI  TRẬN TẤN CÔNG LỚN NHẤT VÀO SỰ THẬT KỂ TỪ NHỮNG NĂM 1930"!  Đó là lời thú nhận chân thành của ông  Lord Tony Hall, Tổng giám đốc Đài BBC Luân Đôn, cơ quan truyền thông lâu đời nhất  thế giới đã phải cay đắng thừa nhận!!!
 
 


 
Một trong những sự thật kinh hoàng  trong giai đoạn lịch sử cận đại của nước Việt Nam chúng ta đã bị bè lũ "mượn đạo tạo đời" Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất Khối Ấn Quang bóp méo, tuyên truyền và ngày đêm tung lên mạng xã hội những nhân chứng dổm, những chứng cớ ngụy tạo để bôi nhọ Chính Thể Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo anh minh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhằm CHẠY TỘI cho tội ác trời không tha, đất không dung của chúng đối với Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam.

 
 
Vì thế TRẢ LẠI SỰ THẬT cho lịch sử là một thúc bách lớn đối với website Chính Khí Việt Net!  Cho nên tất cả những gì được trưng bày ở đây bằng hình ảnh, bằng những bài viết của rất nhiều nhân chứng sống thời kỳ 1954 -1963, dựa trên những sự thật không thể chối cãi của lịch sử sẽ là những tài liệu đúng đắn nhất nhằm đánh tan những luận điệu tuyên truyền của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nói chung và của băng đảng tập đoàn Ma Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, hậu thân Phật Giáo Ấn Quang nói riêng đã, đang tìm đủ mọi cách để bôi nhọ và xuyên tạc rằng chúng "đấu tranh" cho cái chúng gọi là Phật Giáo của chúng bị bách hại!!!???
 
Tài liệu dưới đây là quá trình tìm hiểu, thu thập, tổng hợp và nhận định của Chính Khí Việt, bút danh của anh Joseph L. Phạm trong hai thập niên qua đã được đăng trên các diễn đàn yahoogroups, facebook, các website của người Quốc Gia Tỵ Nạn VGCS....
 
Chúng tôi xin chân thành giới thiệu đến độc giả trong và ngoài nước với mong ước Sự Thật Của Lịch Sử không bị mai một, không bị bóp méo, không bị tuyên truyền và xuyên tạc trong âm mưu bôi bẩn những vị lãnh đạo và Quân - Cán - Chính Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn Lịch Sử 1954 - 1963!!!
 
Minh Thư Nguyễn
Ngày 01 Tháng 01, 2020
 
-----------------------------------
 
GIẤC MƠ LÃNH TỤ (12 - 13)
 
 
 
Đối với CG, CS tìm cách cô lập giáo hội này với bên ngoài và làm khó dễ những vị lãnh đạo cao cấp và có uy tín.

Trước hết, CS ra lịnh cho "Ủy ban Đoàn kết CG Yêu nước" mới được thành lập dứng ra tổ chức "Phong trào quần chúng" biểu tình đòi trục xuất Đức Khâm Mạng Tòa Thánh Henri Lemaitre và Đức ông Trân Ngọc Thụ (hiện là bí thư riêng của Đức Giáo Hoàng John Paul II), bí thư của ngàị Để làm việc này, CS đã giao quyền cho 2 linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần, mà họ đã móc nối được trong thời gian 2 ông này được Giáo hội CGVN cho đi du học ở Pháp, tổ chức và dùng "Phong trào quần chúng" trên để yêu cầu trục xuất 2 vị trên. "Phong trào quần chúng" gồm 7 tổ chức sau đây : Thanh niên Công giáo Đại học, Công giáo Xây dựng Hòa bình, Thanh lao công, Liên đoàn Sinh viên Công giáo, Công giáo và Dân tộc, Nhóm Liên tu trẻ và Đoàn Sinh viên Dự tập Dòng Chúa Cứu Thế. Đa số các tổ chức này mới được thành lập, mỗi tổ chức chỉ có vài người.

Trước hết, họ cho phổ biến một bức tâm thư tố cáo Đức TGM Henri Lemaitre trước đây đã yểm trợ cho chính sách "thực dân mới" của Hoa Kỳ và cho chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, tố cáo các Khâm sứ Tòa thánh đã can thiệp quá nhiều vào vấn đề nội bộ củ VN và tuyên bố "Giải thoát các GM miền Nam VN khỏi áp lực xâm lấn của Khâm sứ Tòa thánh là giúp giáo hội VN được trưởng thành". Ngày 2/5/75 họ biểu tình đòi Đức Khâm sứ phải ra đị Ngày 14/5/75, một đoàn biểu tình do Đoàn Phú Khánh đứng đầu, đã xâm nhập Tòa Khâm sứ đường Hai Bà Trưng trèo lên nóc nhà hạ cờ Tòa thánh xuống và căng biểu ngữ đòi Khâm sứ phải cút đị Họ đẩy Đức Khâm sứ, một linh mục phụ tá người Ba-lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi Tòa Khâm sứ. Linh mục Huỳnh Công Minh chụp hình còn linh mục Thanh Lãng (lúc này chưa thức tĩnh) phát bản cáo trạng tố cáo 5 đời Khâm sứ Tòa thánh can dự vào vấn đề nội bộ của VN.

Trong thời gian từ 5/5/75 - 4/6/75, các nhóm trên đã tiếp xúc với Đức Khâm sứ để đe dọa và nói nếu không rời VN, họ sẽ có những "biện pháp đáng tiếc".

Ngày 3/6/75, các nhóm này đến khuấy phá Tòa Khâm sứ một lần nữa, họ khuấy phá cả vào lúc ban đêm. Nghe tin này, các thanh niên giáo xứ Bùi Phát kéo tơi định can thiệp, nhưng khi mới kéo tới cầu Trương Minh Giảng thì bị bộ đội xả súgn bắn thẳng vào, một người chết và nhiều ngươi bị thương. Linh mục Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt sau đó.

Ngày 4/6/75, Bộ Ngoại giao Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã mời Đức Khâm sứ Henri Lemaitre tới yêu cầu ngài phải lánh khỏi VN trong một thời gian càng sớm càng tốt. Ngày hôm sau, Đức Khâm sứ đã phải rời VN.



* Trục xuất Đức TGM Nguyễn Văn Thuận :

Trước 30/4/75, theo đề nghị của Đức Khâm sứ Henri Lemaitre, ngày 25/4/75, Vatican đã bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận, đang là GM Nha Trang, làm Tổng GM hiệu tòa Vadesitana, Phụ tá Tổng GM Saigon với năng quyền kế vị Tổng GM Saigon. Ngày 12/5/75, TGM Nguyễn Văn Bình cho phổ biến thông báo sự bổ nhiệm nói trên. Được tin này, một số LM thân Cộng đã đến bao vây TGM Nguyễn Văn Bình và Phó TGM Nguyễn Văn Thuận đang có mặt tại Chủng viện Thánh Giuse ở đường Cường Để để chất vấn và yêu cầu Phó TGM Thuận từ chức. Nhóm linh mục này gồm có Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm và Hoàng Kim.

Trước đó, ngày 8/5/75, nhóm linh mục nói trên đã gởi TMG Bình một văn thư yêu cầu hoãn công bố việc bổ nhiệm TGM Thuận. Ký tên trong văn thư này có các linh mục Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Thiện Toàn, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghi..

Ngày 13/5/75, một toán "sinh viên CG" nằm trong tổ chức đòi trục xuất Đức Khâm sứ Henri Lemaitre đã xâm nhập Tòa TGM Saigon, căng lên 3 biểu ngữ như sau :

"Nguyễn Văn Thuận, GM của ai ?"
"Vì quyền lợi của GHVN, yêu cầu Nguyễn Văn Thuận từ chức"
"Không có hòa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui"

Ngoài ra, nhóm này cũng gởi lên Đức Khâm sai, người mà họ đang yêu cầu "cút đi", một thỉnh nguyện thư tố cáo GM Thuận là một GM chống Cộng, thuộc dòng dõi chống Cộng cực đoan, đã tổ chức Phong trào Công lý và Hòa Bình để huấn luyện cán bộ chống Cộng và góp phần thành lập đảng Nhân xã, hậu thân của đảng Cần Laọ Họ lên án GM Thuận là thành phần chống Cộng thâm tín nhất, quy mô nhất và hữu hiệu nhất... Theo họ, trong tinh thần hòa hợp hiện nay, khi "Mỹ-Thiệu và tay sai đã dẫm lên nhau chạy trốn, sự bổ nhiệm một GM chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho GH mà còn cho cả dân tộc VN". Họ đòi TGM Thuận phải từ chức để "tránh cho GH và dân tộc VN những phiêu lưu vô vọng và nguy hiểm".

Sau khi hội kiến với nhóm chống đối để thông cảm không thành công, ngày 7/6/75, TGM Bình đã gởi thông cáo cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho biết :"Tôi đã hết sức ôn hòa và thông cảm đồng thời giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về những sự việc trên. Nhưng tình trạng ấy chưa khả quan hơn". Sau đó ông kêu gọi :"Tôi kêu gọi tất cả quý cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa thánh La Mã".

Ngày 8/6/75, TGM Bình cũng gởi cho Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTGPMN yêu cầu 3 điểm sau :

- Triệt để thi hành Sắc lịnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với chính phủ.
- Chấm dứt chiến dịch tuyên tryền bôi nhọ, vu cáo các chức sắc của GHCG VN.
- Chận đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc lịnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường đưọc, về đối nội cũng như đối ngoại, cho quốc gia dân tộc.

Nhưng câu chuyện cãi qua cãi lại này rồi cũng phải kết thúc. Chiều ngày 15/8/75, tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), Ủy ban MTGPMN TPHCM tổ chức cuộc họp gồm 350 đại diện các dòng tu nam nữ và giáo xứ để nghe họ trình bày về trường hợp TGM Thuận. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố chính quyền Cách mạng quyết định đưa TGM Thuận về lại Nha Trang, nơi đương sự cư trú trước 30/4/75 với lý do sự hiện diện của đương sự gây trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc.

Ngày 15/8/75, CS bắt TGM Thuận nhưng không đưa về Nha Trang mà đưa ông ra Vĩnh Phú. Sau một thời gian bị giam giữ, nhờ sự can thiệp của các tổ chức quốc tế và Vatican, ông được đưa đi quản thúc tại giáo xứ Giang Xá cách Hà Nội khoảng 20 km cho đến ngày 21/11/1988 thì được phóng thích, nhưng đặt trong tình trạng quản chế. Năm 1991, ông bị cưỡng bức xuất ngoại và hiện nay ở La Mã. CS cương quyết không cho ông về kế vị TGM Bình hay làm TGM bất cứ nơi nào ở VN.

* Thanh toán những tu sĩ có uy tín hay có "nợ máu với nhân dân" :

Song song với việc trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre và TGM Nguyễn Văn Thuận, CS thanh toán các linh mục có khả năng chống đối chính phủ.

1) Linh mục Hoàng Quỳnh : Khi còn ở Phát Diệm, ông đã từng giữ chức Tổng tuyên úy Thanh niên, Cố vấn chỉ đạo Chiến khu Công giáo Phát Diệm, Phó chủ tịch Ban chấp hành Mặt trận Công giáo Cứu quốc và Tổng chỉ huy Tự vệ, nên thường được gọi là cha Tổng. Vaò Nam, ông coi giáo xứ Bình An ở Chợ Lớn. Năm 1964, khi có các rối loạn do Hội đồng Nhân dân Cứu quốc miên Trung gây ra, ông được bầu làm Chủ tịch Khối Công dân Công giáo để đối phó với tình hình. Tính tình hòa nhã, không bao giờ khích bác ai, nhưng rất cương quyết. Ông đã giúp khối Công giáo đương đầu với nhiều hoàn cảnh khó khăn. Với một người có thành tích như vậy, CS không bao giờ để cho tự do khi họ chiếm được miền Nam. Năm 1976, sau vụ Vinh Sơn, công an đã bắt linh mục Hoàng Quỳnh giam vào khám Chí Hòa với tội danh là thành phần phản động và có nợ máu với nhân dân. Ông bị bọn cán bộ quản lý trại giam đánh chết năm 1979 tại khám Chí Hòa rồi đem xác đi chôn lén.

2) Linh mục Trần Hữu Thanh : Ông sáng lập Phong trào Chống tham nhũng dưới thời TT Nguyễn Văn Thiệu và phát động phong trào này khắp miền Nam. Ông là linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và là nhà hùng biện của GHCGVN. Ông có tài diễn thuyết rất hấp dẫn và sâu sắc. Chính ông là người đã viết bộ "Cẩm nang của người CG d+ới chế đô CS", đem huấn luyện cho các cán bộ CG 2 năm trước ngày CS chiếm miền Nam. Rút kinh nghiệm về các biện pháp mà CS áp dụng tại miền Bắc, ông hướng dẫn giáo dân phương cách để có thể tồn tại khi phải sống dưới chế độ CS. Công an bắt ông giam vào khám Chí Hòa sau khi chiếm được miền Nam; sau đó đưa ông ra quản chế tại miền Bắc.

3) Linh mục Đinh Bìn Định : Ông là một linh mục trẻ, có kiến thức rộng, trông coi giáo xứ Tân Sa Châu ở Q3, Saigon. Ông có tài tổ chức quần chúng thành hàng ngũ để đối phó với mọi biến cố. Ông cũng là Phó Chủ tịch Phong trào Chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh. Mặc dầu ông có ký tên vào thỉnh nguyện thư yêu cầu TGM Thuận từ chức, nhưng sau đó ông vẫn bị công an bắt đi cải tạo 10 năm. Ông nói rằng ông chỉ chống tham nhũng chứ chưa có hành động gì chống Cách mạng và không hiểu tại sao CS đã giam giữ ông lâu như thế. Thực ra CS giam ông chỉ vì họ biết ông là người có tài tổ chức và có uy tín với giáo dân. CS đề phòng khi có những sự bất mãn vì các chính sách mới của họ và ông có thể sẽ đứng lên tổ chức giáo dân chống chế độ; do đó họ bắt ông trước để trừ hậu họạ Sau khi tình hình đã ổn định, họ đã thả ông ra.

Gần như giáo phận nào cũng có các giáo sĩ bị giam giữ trong tình trạng tương tợ như trên. Tính chung, đã có hơn 200 linh mục bị đưa đi học tập cải tạo, trong đó có 139 linh mục tuyên úỵ Khoảng 15 linh mục đã chết trong các trại tù. Riêng linh mục Trần Học Hiệu bị xử tử tại Biên Hòa.


* Năm tháng thăng trầm :

Như đã biết, ngay sau ngày 30/4/75, các linh mục tuyên úy bị ảnh hưởng đầu tiên trong chiến dịch tiêu diệt tôn giáo qua các trại tù mệnh danh là "học tập cải tạo". Vì thế, dù quản giáo cấm nghiêm nhặt các vụ đọc kinh, làm lễ, vẫn có những buổi lễ cầu nguyện âm thầm trong giờ ngủ, lúc lao động và ngay cả trong các nhà cầụ Vẫn có những buổi làm lễ giữa linh mục tuyên úy và người tù "con chiên" trong những khoảnh khắc của bóng tốị

Những kẻ hả hê về một cuộc chiến thắng bất ngờ càng nghênh ngang hơn nữạ Sau khi CS trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre vào 5/6/75, GM Sietz và các linh mục, tu sĩ ngoại quốc đều bị mời khéo "về thăm gia đình" kể từ ngày 12/8/75. Trước tình thế này, giáo hội âm thầm chuẩn bị nhân sự cho tương lai với các cuộc phong chức gấp rút 6 giám mục trong số này có GM Nguyễn Văn Thuận như đã kể trên.

Từ 15-20/12/75, 21 GM miền Nam hội họp có sự tham dự của cán bộ CS và đưa ra bản thông cáo chung, có đoạn : "Đồng bào sẽ thấy ta sát cánh với họ trên đường xây dựng quê hương... Người tín hữu phải coi như có bổn phận và vinh dự được đem niềm tin của mình vào việc làm chứng cho nước giàu, dân mạnh". Bản thông cáo này cho thấy rõ CS muốn chứng minh sự hậu thuẫn của CGVN. Nhưng chẳng bao lâu, ngày 13/2/76 vụ nhà thờ Vinh Sơn nổ ra làm chấn động giáo dân Saigon.

Vụ Mặt Trận Phục Quốc : vụ này thường được gọi là vụ Vinh Sơn vì xảy ra tại khu nhà thờ Vinh Sơn ở Q3, Saigon. Một nhóm giáo sĩ và giáo dân đã thành lập một tổ chức chống Cộng có tên là Mặt Trận Phục Quốc, đặt trụ sở phía sau nhà thờ Vinh Sơn. Liên hệ đến vụ này có các linh mục Đỗ Văn Nghị, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Văn Chức và ông Nguyễn Việt Hưng. 2 linh mục Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Văn Chức bị án khổ sai chung thân, còn linh mục Đỗ Quang Nghị bị án tử hình; ông bị bắn tại Thủ Đức ngày 15/3/78. Khoảng 200 linh mục bị bắt sau đó. Nỗi lo sợ bao trùm khắp nơi, nhiều linh mục đã chuẩn bị sách nguyện và quần áo để ra đi bất cứ lúc nào bị "gõ cửa".

CS tiếp tục khủng bố tinh thần giáo dân bằng những buổi học tập chính trị dành cho các linh mục, tu sĩ ở tất cả các địa phận, đặc biệt là ở miền Nam. Các vị thừa sai và tu sĩ ngoại quốc còn lại đều bị trục xuất vào tháng 6/76. Nhằm mục đích vừa tạo "tình thân" vừa răn đe sự "lệch lạc chính sách", trong 2 tháng 8-9/76, Phạm Văn Đồng gặp Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê, Đức cha Trịnh Văn Căn, TGM Nguyễn Kim Điền và TGM Nguyễn Văn Bình.

Vụ Việt Tiến : Vụ này xảy ra ở khu nhà thờ Fatima, Bình Triệu vào năm 1977 nên thường được gọi là vụ Fatimạ Một số giáo sĩ và giáo dân tổ chức chống lại các sự vi phạm quyền tự do tôn giáo của CS. Linh mục nhạc sĩ Huyền Linh bị phạt chung thân khổ sai, còn linh mục Võ Văn Bộ bị phạt 15 năm tù và được trả tự do vào năm 1992.

Ngày 20/9/77, VNCS được chấp nhận gia nhập LHQ. Gần 2 tháng sau, CS liền thách thức bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bằng Nghị quyết 297/CP, ngày 11/11/77, công khai chỉ định những giới hạn tự do tín ngưỡng, mở đầu cho những vụ đàn áp tôn giáọ Đây là một nghị quyết ấn định những biện pháp gắt gao nhằm kiềm chế và vô hiệu hóa các tôn giáọ Nghị quyết này chỉ cho phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự chính thức, hoạt động ngoài các cơ sở này bị coi là truyền giáo bất hợp pháp, những người hoạt động sẽ bị đưa đi cải tạo dài hạn. Các hội đoàn tôn giáo như Đạo binh Đức Mẹ, Thiếu nhi Thánh thể,...đều bị cấm hoạt đô.ng. Các tu viện không được nhận tuyển sinh mới vì không cho vào "hộ khẩu" của tu viện. Mọi việc phong chức, thuyên chuyển các giáo sĩ đều đặt dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của CS.

Trong tháng 4/77, qua 2 bài phát biểu, TGM Nguyễn Kim Điền của địa phận Huế đã thẳng thắn tố cáo "Sau 2 năm, ngươi CG thấy tự do tôn giáo chỉ có trên văn bản (qua 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo), còn các hoạt động bị hạn chế, các khẩu lệnh đi ngược lạị Người CG làm gì cũng bị nghi ngờ, chèn ép". Ông còn dùng ngay cả câu nói mị dân của HCM để lật mặt CS :"...Không diệt được thì chỉ có cách là tôn trọng tự do tín ngưỡng để đồng bào cùng nhau xây dựng đất nước về mặt vật chất. Còn tín ngưỡng thì ai chọn tôn giáo nào tùy sở thích, đừng đụng tớị Như vậy mới thoải mái và đoàn kết được... Có người nói Hồ chủ tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng "lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không bồi dưỡng trí óc thì là một con người bán thân bất toại". Câu nói đó rất chí lý sáng suốt. Thì cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng thì cũng là con người bán thân bất toạị Nhưng không phải tự do họ muốn, mà là bị ép buộc bán thân bất toạị Như thế ích lợi gì cho tổ quốc".

Cho đến ngày 5/11/77, nhân dịp qua Vatican họp Thượng hội đồng, TGM Nguyễn văn Bình mới có thể nói lên ưu tư của GHCGVN về tương lai mà con người phải sống với chủ thuyết CS. Ông có nói đến một số cơ sở của giáo hội bị trưng dụng, nhất là các trường đạo, như các viện đại học Đà Lạt và Minh Đức, Giáo hoàng chủng viện, Dòng Chúa Cứu Thế ở Đà Lạt, Nha Trang; hệ thống các trường mẫu giáo, tiểu học và trung học trên toàn quốc; các bịnh viện, cơ quan từ thiện... Một số cơ sở tịch thu được giao cho Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước sử dụng để hoạt động song song với tổ chức của giáo hội trong khắp nước. Ủy ban này được đặt dưới quyền điều khiển của Mặt Trận Tổ Quốc, một cơ quan dân vận của Đảng CSVN. Trong tình trạng đen tối đó, Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê qua đời ngày 7/11/78; gần một năm sau Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn được tấn phong chức vụ nàỵ

Vụ Mặt Trận Liên Tôn : Vụ này do linh mục Dòng Chúa Cứu thế Nguyễn Văn Vàng chủ động. Ông là một nhà hùng biện nổi danh của GHCGVN. Ông đã lập chiến khu Phụng Thiên ở vùng Phương Lâm và Gia Kiệm vào năm 1979. Nhờ tài thuyết phục của ông, rất nhiều người theọ Nhưng do phản gián của CS len lỏi vào, chiến khu của ông bị phá vỡ, ông bị kết án khổ sai chung thân và chết tại Hàm Tân, Bình Tuy, năm 1989.

Tháng 9/79, Ban Tôn giáo của CSVN phổ biến một tài liệu mật cho các cán bộ đảng cao cấp ở địa hương có tiêu đề "Trách vụ của chúng ta đối với GHCG" dài 19 trang đánh máy và chia ra làm 8 mục. 2 mục đầu tiên xác định "bạn - thù" :

1. Bản tính và tình trạng CG tại VN bị coi là "bộ phận của Giáo Hội hoàn vũ, có đầu não ở Vatican, gồm một nhóm bóc lột có tầm hoạt động lớn, luôn luôn gắn liền với đế quốc phản động".

2. Trách vụ của đảng CS đối với GH ở VN nhằm "cải cách và biến đổi GH dần dần trở thành một tổ chức tôn giáo trọng chính sách và luật pháp, được thúc đẩy bởi lòng ái quốc, gần gũi nhà nước và XHCN. Sách lược là phân loại 4 nhóm để đối xử khác nhau : nhóm tiến bộ, nhóm chủ trương thích ứng, nhóm chưa dứt khoát lập trường và nhóm phản động".

5 mục còn lại là chính sách đối với từng bộ phận sinh hoạt của giáo hộị

Từ ngày 24/4 - 1/5/80, 33 GM toàn quốc họp lần đầu tiên và chính thức thành lập Hội đồng Giám mục VN (HDGMVN), đưa ra một bức thư chung khá dài nói về đường hướng mục vụ "đi trong lòng dân tộc". Thư nhắn nhủ với từng trách nhiệm của giáo dân, tu sĩ, linh mục... Từng câu từng chữ đều được viết rất thận trọng, nhưng ý nhấn mạnh đến việc đoàn kết người trong đạo, kêu gọi giáo dân dạy giáo lý ngay trong gia đình "nếu bên ngoài có thay đổi"... Từ tháng 5/80, CS cho phép nhiều GM sang Vatican để chứng tỏ "sự ưu đãi CG", nhưng chỉ 2 tháng sau, CS đem cha Nguyễn Văn Vàng và một số cha Dòng Tên bị bắt đem ra tòa về tội thành lập Mặt Trận Liên Tôn.

Vụ Đắc Lộ : Trung Tâm Đắc Lộ thuộc Dòng Tên tọa lạc ở 161 đường Yên Đỗ (nay là Lý Chính Thắng), Q3, Saigon. Đây là một trung tâm khá lớn mà CS muốn chiếm từ lâu, nhưng chưa có cơ hộị Trung tâm này có phát hành một tờ báo nhỏ in Ronéo, có tên là Đạo Nhập Thế, do linh mục Lê Thanh Quế chủ biên. Tờ báo hướng dẫn cách sống đạo của người CG trong giai đoạn mới chớ không trực tiếp chống chính quyền.

Những người đi phổ biến tờ bà'o có ông Nguyễn Văn Hiển và nhiều sinh viên. Công an biết ông Nguyễn Văn Hiển là một thành phần có tinh thần chống Cộng nên cho 2 mật báo viên vốn là người quen biết của ông Hiển từ trước, trong đó có một người tên Mai, đến xin tham gia phổ biến tờ báo để theo dõị Vì 2 người này đều là CG, một người xuất thân từ trường Taberd, nên được ông Hiển tin cậỵ Một thời gian sau, 2 người này xúi ông Hiển nên lợi dụng việc phổ biến tờ báo, thuyết phục các giáo sĩ và giáo dân tổ chức võ trang chống Cộng, dùng cơ sở Đắc Lộ làm bản doanh hoạt động, họ sẽ tìm mua võ khí và cung cấp chọ Có lần họ đem võ khí đến giao cho ông Hiển, nhưng ông không nhận. Trước mặt 2 tên này, ông Hiển chưa làm gì khác hơn là phê bình chế độ CS. Những lời phê bình này đều được 2 mật báo viên cung cấp đầy đủ cho công an. Sau khi dụ dỗ ông Hiển và những người liên hệ võ trang chống đối không xong, 2 tên nội tuyến này đã đem một số tài liệu hô hào chống Cộng để nhờ ông Hiển phân phối cùng một lúc với tờ báo Đạo Nhập Thế.

Khi hay tin rằng các tài liệu chống Cộng đã được đem vào Trung Tâm Đắc Lộ để phát một lần với tờ báo, ngày 12/12/80, công an tràn vào lục soát khắp nơi, nhưng không bắt được tài liệu phản động nàọ Tuy vậy, công an vẫn bắt linh mục Nguyễn Công Đoan, Giám Tỉnh Dòng Tên tại đây, LM lê Thanh Quế, chủ biên tờ báo, và các LM trong Trung Tâm như Khuất Duy Nguyên, Đỗ Quang Chính và Hoàng Sĩ Quý. Ông Hiển và những người liên hệ đều bị bắt.

Khi đối chất với 2 tên mật báo tại công an, ông Hiển đã bác bỏ tất cả những lời tố cáo của 2 tên này và công an cũng không đưa dược bằng chứng cụ thể nào để buộc tộị Các LM bị bắt đã khai rằng họ không biết gì đến hành động của ông Hiển và 2 tên mật báo viên kiạ Nhưng cuối cùng tất cả đều bị truy tố ra tòa về 2 tội chính : âm mưu lật đổ chính quyền và tuyên truyền đầu độc dư luận chống phá chế đô.. Trong phiên tòa ngày 29/6/82, các cuộc đối đáp qua lại khá gây cấn : ông Hiển yêu cầu Viện Kiểm Sát Nhân Dân xuất trình bằng chứng ông đã âm mưu lật đổ chế độ, nhưng Viện Kiểm Sát đã trả lời :"Bằng chứng không quan trọng bằng cái đầu óc của anh". LM Lê Thanh Quế nói ông không biết gì về các việc ông Hiển và 2 nhân chứng đã làm và nếu bảo có âm mưu lật đổ chính quyền thì xin tòa đưa ra bằng chứng và hậu quả. Tòa trả lời rằng, "Tội của bị cáo không phải là tội hình mà là tội chính trị nên không cần bằng chứng và hậu quả. Nếu phải chờ bằng chứng và hậu quả thì chế độ đã bị lật đổ mất rồi".

LM Nguyễn Công Đoan đã bị truy tố về tội hỗ trợ cho LM Lê Thanh Quế phát hành báo chí bất hợp pháp. Ông trình bày rằng tờ Đạo Nhập Thế đã có trước 30/4/75, chỉ hướng dẫn về giáo lý, không đề cập đến chính tri.. Nếu bảo rằng chống đối chế độ, xin hãy cho bằng chứng.

Kết quả tòa của CS vẫn tuyên án ông Hiển khổ sai chung thân. LM Lê Thanh Quế 15 năm tù giam, LM Nguyễn Công Đoan 12 năm tù giam, LM Đỗ Quang Chính 5 năm tù giam và LM Khuất Duy Linh 4 năm tù treo và 5 năm thử thách. Toàn bộ cơ sở Đắc Lộ bị tịch thu và hiện nay được dùng làm cơ sở của tòa soạn báo Tuổi Trẻ.

Ông Nguyễn Văn Hiển bị đưa ra giam ở trại trừng giới Xuân Phước ở Phú Yên. Đây là một trại khổ sai được dối xử tàn tệ nhất tại miền Nam VN. Đến năm 1991 vì quá già yếu, ông được chuyển về trại Z30A ở Xuân Lộc và đã chết tại đây vào ngày 22/11/1992. Ông Hiển xuất thân từ Đại chủng viện Huế, đã dành cả cuộc đời tham gia tích cực vào các hoạt động tôn giáo, xã hội và chính trị, nhưng cuối cùng ông đã bị CS lừa và chết trong tù. Lúc còn bị giam ở Saigon, ông bị tra tấn dã man và bị biệt giam liên tục cho đến ngày xét xử.

Sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8/9/81 về tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đã dùng tờ Sống Đức Tin để phê bình sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lý của tờ báo CG quốc doanh là tờ "Công giáo và Dân tộc" của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước. Nhóm này đã yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đình được đi định cư tại Mỹ năm 1993 và ông đã viết cuốn "Đức tin đại thắng" nói về các vụ đàn áp CG tại VN.



Tới đây, ta tạm dừng lại việc theo dõi những diễn tiến theo năm tháng để tìm hiểu về ý nghĩa của những "quy chế tôn giáo" và việc "đoàn ngũ hoá giáo sĩ cũng như thiết lập giáo dân quốc doanh" để biết mưu độc của CS ra saọ

Sửa đổi và xiết chặt quy chế tôn giáo

Như đã được trình bày ở trên, sau khi chiếm được miền Bắc, ngày 14/6/55, HCM đã cho ban hành Sắc lệnh số 234/SL về Tôn giáọ Tuy gọi là Sắc lệnh về Tôn giáo nhưng nội dung Sắc lệnh nhắm vào CG, vì lúc đó Phật giáo chưa tổ chức thành giáo hộị Các tăng sĩ PG đều bị tập trung vào Hội Phật giáo VN Thống nhất do Hòa Thượng Thích Trí Độ làm Hội trưởng và đặt dưới quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, nên không cần quy chế nào khác. GHCGVN không nằm trong hệ thống chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc nên bị chi phối bởi Sắc lệnh về Tôn giáọ Khi chưa quen với chế độ CS, các linh mục nhận thấy rằng Sắc lệnh này tước đoạt mất quyền tự do hành đạo và truyền đạo nên đã công khai chống đối.



Điều 3 của Sắc lệnh dự liệu :

"Các nhà truyền giáo ngoại quốc dưới sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể dạy tôn giáo mình như những người truyền giáo VN và phải tôn trọng luật pháp nước VNDCCH như những người ngoại quốc khác".

Điều 6 cho phép các tôn giáo mở các trường huấn luyện để đào tạo những người đảm nhiệm các giáo vu.. Điều 9 cho phép tôn giáo mở các trường tư thục và việc giảng huấn nhưng phải theo chương trình nhà nước đưa rạ Các trường tư CG có thể dạy thêm giáo lý cho học sinh nào muốn. Điều 13 quy định rất hấp dẫn :

"Chính quyền dân sự không can tiệp vào nội bộ tôn giáọ Những liên hệ giữa GHCGVN với Tòa Thánh La Mã là vấn đề nội bộ".

Đây chỉ là bánh vẽ đưa ra để lừa dối tín đồ của các tôn giáọ Mặc dù quy luật đuy định như vậy, trong thực tế CS đã dần dần khống chế GHCG miền Bắc về mọi phương diện. Đến năm 1957, HCM ban hành Sắc lệnh số 102/SL ngày 20/5/57 về việc lập hội và bắt các đoàn thể tôn giáo muốn hoạt động phải theo quy chế lập hội này.Năm 1975, khi mới chiếm được miền Nam thì CS cũng đã đưa Sắc lệnh ngày 14/6/55 vào rêu rao ở miền Nam để chứng minh cho các tín đồ các tôn giáo thấy rằng dưới chế độ CS cũng có tự do tôn giáọ Nhưng sự rêu rao này đã gây những hậu quả tai hạị TGM Nguyễn Văn Bình đã viện dẫn Sắc lệnh nói trên để chống lại việc CS phát động chiến dịch yêu cầu hủy bỏ quyết định bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận làm Phó TGM Saigon. Vì thế, chỉ một thời gian ngắn sau, CS đã xiết chặt các sinh hoạt tôn giáo lại bằng Nghị quyết 297 ngày 11/11/1977. Bằng một quyết định hành chánh đơn giản, CS đã thay đổi cả một văn kiện pháp quy của chính họ là Sắc lệnh ngày 14/6/1955. Nội dung Nghị quyết 297 gồm

những điểm sau đây :

- Những hoạt động tôn giáo ngoài các cuộc hành lễ thông thường đều phải xin phép. Muốn tổ chức các lớp giáo lý, các cuộc hành lễ đông người từ nhiều nơi đến tham dự, các cuộc hội họp về tôn giáo chung cho nhiều nơi...phải có giấy phép của chính quyền.

- Chỉ được giảng đạo trong phạm vi cơ quan của tôn giáo và khi giảng đạo phải động viên tín đồ làm nhiệm vụ công dân, chấp hành chính sách và luật pháp của nhà nước. Không được tuyên truyền chống chế độ XHCN, gây chia rẽ và tuyên truyền mê tín dị đoan.

- Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo phải có sự đồng ý của chính quyền.

- Giáo hội TCG được phép quan hệ với Vatican về mặt tôn giáo, nhưng phải tôn trọng chủ quyền và luật pháp quốc giạ

- Ruộng đất của các tôn giáo được để lại sau khi cải tạo có thể giao cho hợp tác xã quản lý và hưởng mức lời từ 25-30% tổng số thu hoa.ch.

Đến năm 1991, CS lại ban hành Nghị định số 69-HDBT ngày 21/3/1991 điều chỉnh lại quy chế tôn giáọ Nội dung của Nghị định này không khác Nghị quyết 297 bao nhiêu, nhưng quy định tổng quát hơn nên phạm vi áp dụng rộng rãi hơn, nhiều chi tiết áp dụng được quy định tỉ mỉ hơn. Đại lược nội dung Nghị định gồm các điểm chính sau đây :

- Chỉ dược phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự được công nhận và chương trình sinh hoạt phải đăng ký trước hàng năm.

- Việc đào tạo các nhà tu hành phải được nhà nước cho phép, xem xét về nhân sự, kiểm tra việc dạy và việc học.

- Việc phong chức cho các giáo sĩ phải được sự chấp thuận của Hội Đồng Bộ Trưởng.

- Việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các nhà tu hành phải được sự chấp thuận của cấp chính quyền liên hê..

- Các dòng tu hay các hình thức tu tập thể chỉ có thể hoạt động sau khi có giấy phép của Hội Đồng Bộ Trưởng.

- Các cá nhân hoặc các tổ chức tôn giáo muốn nhận viên trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép Hội Đồng Bộ Trưởng.

Nhà cầm quyền CS đã hành động bất chấp hệ cấp pháp lý: Dùng Nghị quyết là một quyết định hành chánh để sửa đổi một văn kiện pháp quy là một Sắc lệnh, rồi sau đó dùng một văn kiện lập quy ở cấp thấp là một Nghị định để thay thế một văn kiện cấp cao là một Sắc lê.nh. Điều nay cho thấy khả năng về pháp lý của CS rất thấp và CS nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ cái gì mà họ thấy cần, nên bất chấp cả yếu tố pháp lý do chính họ đặt ra..

Sau khi Nghị định nói trên được ban hành, các tôn giáo bị khống chế hoàn toàn.



Thành lập cơ cấu CG quốc doanh để lũng đoạn CGVN

1) Lập đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh :

Nhận thấy tổ chức "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hoà bình" không gây được ảnh hưởng gì đối với GHCG miền Bắc trong suốt 20 năm, CS Hà Nội muốn có một cơ cấu mạnh mẽ hơn.

Công việc đầu tiên của CS Hà Nội là củng cố một đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh ma.nh. Nhận thấy một số đông LM và giáo dân "cấp tiến" đứng ra đòi trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre, CS rất phấn khởị Tại mỗi tỉnh, CS kêu gọi thành lập một Ban Liên Lạc Công Giáo để giải quyết những vấn đề giữa CG và chính quyền và đưa một số giáo sĩ có uy tín vào, với mục đích về sau biến các tổ chức này thành một giáo hội tự trị (tách rời Vatican). Nhà cầm quyền CS không cần biết đến Hội Đồng Giám Mục và các GM giáo phận.

Một số giáo sĩ được mời lầm tưởng họ chỉ đóng vai trò liên lạc giữa chính quyền và CG. Về sau, đa số các giao sĩ này đã nhận ra âm mưu thành lập GH tự tri.. và họ đã rút luị Một số khác, sau một thời gian hợp tác, đã nhận ra bộ mặt thực của CS nên quay lại chống đối chế đô..

Tại miền Bắc, các LM sau đây đã tham gia "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hoà bình" : Vũ Xuân Kỷ (đã qua đời), Nguyễn Thế Vịnh (đã qua đời), Hồ Thành Biên, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh. Tại miền Nam, số LM tham gia "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" lúc đầu khá đông như Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đình Bích, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Bảo Tụng, Nguyễn Thiện Ý, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Viết Nam và Mai Hùng. Trong thời gian tranh đấu đòi trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre và bãi chức GM Thuận, các LM sau đây cũng tham gia : Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Lãng, Nguyễn Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh, Hoàng Kim, Đinh Bình Định, Nguyễ Quang Lãm, Nguyễn Nghị và Nguyễn Thiện Toàn. Các LM này về sau không tham gia nhóm LM quốc doanh. 2 LM Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan còn quay lại chống CS nên bị quản chế một thời gian khá dàị LM Đinh Bình Định thì bị đi cải tạo 10 năm, còn LM Nguyễn Quang Lãm bị công an bám sát cho đến khi qua đời năm 1993. 2 LM Nguyễn Viết Thọ và Nguyễn Ngọc Lan đã xin từ bỏ chức LM và trở về lập gia đình.


Phần 13/62


Về phía giáo dân, những thành phần sau đây đã tham gia tích cực vào các tổ chức Công giáo quốc doanh cả ngoài Bắc và trong Nam : Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Dông Ngân, Đỗ Văn(tức Đỗ Hữu Nghiêm), Nguyễn Đình Đầu, Vũ Duy Giang, Phạm Ngọc, Trần Huỳnh, Nguyễn Thành Cung và Lý Chánh Trung. Trong số này có 2 thành phần hoạt dộng tích cực hơn cả là Nguyễn Đình Đầu và Lý Chánh Trung.

o Nguyễn Đình Đầu : Sinh năm 1920 tại Hà Nội, con của một nhân viên lao công quét trường. NĐ có 2 người em là Nguyễn Đình Rễ và Nguyễn Thị Hồng. Lúc còn nhỏ, NĐ được học Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên, Kẻ Sơ, Hà Nam, thuộc giáo phận Hà Nộị NĐ mới học tới Đệ Lục (sixième) thì xuất, rồi sau đó vào học trường Bách Nghệ Hà Nội, chưa có Tú tàị Thời đó, Phong trào Thanh niên Lao Động CG (JOC) đang phát triển mạnh ở VN, Nguyễn Mạnh Hà làm Hội trưởng Phong trào toàn quốc, còn NĐ làm Hội trưởng Phong trào ở Hà Nộị

Ngày 19/8/45, VM cướp chính quyền. Ngày 23/8/45, HCM công bố ngay thành phần chính phủ lâm thời tại Hà Nộị Trong chính phủ này, người ta thấy Nguyễn Mạnh Hà giữ chức Bộ trưởng Kinh tế. NĐ được Nguyễn Mạnh Hà giới thiệu làm Tổng Giám đốc Nha Lao động toàn quốc, dưới quyền của Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiếụ

Ngày 2/3/46, HCM lập chính phủ liên hiệp với các đảng phái quôc gia, Nguyễn Mạnh Hà không có tên trong thành phần chính phủ nữạ Lê Văn Hiến qua làm Bộ trưởng Tài chánh, Nguyên Văn Tạo, 1 đảng viên cao cấp khác, giữ chức Bộ trưởng Lao đô.ng. NĐ tiếp tục làm Tổng Giám đốc Tổng nha Lao đô.ng. Bị loại ra khỏi thành phần chính phủ, Nguyễn Mạnh Hà bỏ qua Pháp. Khi Pháp chiếm lại Bắc Việt, VM rút vào chiến khu, NĐ ở lại Hà Nộị Năm 1951, nhân một chuyến đi tham quan ở Pháp, NĐ được Nguyễn Mạnh Hà bảo lãnh cho ở lại Pháp học xã hội học ở một trường tư, không cần bằng Tú tàị NĐ không đậu bằng cấp gì.

Lúc ở Pháp, NĐ ở một căn phòng trên lầu 5 của một ngôi nhà ở số 32 rue de Richelieu, Paris 1er. Nơi đây là chỗ hội họp của những người lưu vong muốn dành độc lập cho quê hương. Những thành phần đến họp gồm cả những ng+ời theo CS hay không theo CS như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Quốc Định, Trương Công Cừu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Thoại, Trần Hữu Phương, Trần Thông, Bửu Lộc, v.v... Nhóm học Đại học Louvain ở Bỉ như LM Nguyễn Quang Lãm, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung...cũng đến họp nơi đâỵ Các nhóm trên hoạt động riêng rẻ nhưng có cho xuất bản tờ tạp chí Thống Nhất để nói lên quan điểm chính trị của nhóm, nên được gọi là Nhóm Thống Nhất. Riêng nhóm của Đảng CSĐ có kết nạp đảng viên, tổ chức chặt chẽ và sinh hoạt thường xuyên.

Ngày 25/6/54, do sự vận động của ông Ngô Dình Luyện và nhóm Nguyễn Mạnh Hà, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã thuyết phục được Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh số 38/QT ngày 25/6/54 ủy quyền cho ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ với toàn quyền về dân sự và quân sư.. Nhóm Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Đình Đầu, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung (đã được con bảo lãnh sang Canada năm 1995), LM Nguyễn Quang Lãm...đi.nh về tham gia chính phủ nhưng bị Ngô Đình Nhu gạt ra vì nghi nhóm này thân Pháp. Nguyễn Mạnh Hà quay trở lại Pháp, nhưng NĐ, vốn không lấy được bằng cấp gì, đã thúc giục Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và LM Nguyễn Quang Lãm phải trở về và chờ cơ hộị Những người này đã trở về VN năm 1956, cho xuất bản tờ tuần báo Sống Đạo nên thường được gọi là "nhóm Sống Đạo" hay "nhóm Cấp Tiến". Tờ "Sống Đạo" có khuynh hướng chống chính phủ và thiên về đường lối XHCN. 2 LM Nguyễn Ngọc Lan và Trương Bá Cần từ Pháp về cũng gia nhập nhóm Sống Đạọ Lý Chánh Trung phụ trách biên tập, nhưng NĐ vẫn nắm hầu bao và quyết định đường lối của tờ báọ

NĐ về nước được một thời gian thì ông Đào Văn Tập qua đờị NĐ cặp bồ với bà Đào Văn Tập. để chiếm du.ngm nhà in của bà này và sống bằng nghề ấn loát và xuất bản. Về sau NĐ cưới em của cựu Thủ tướng Bửu Lộc, một người giàu có, và về ở nhà vợ, góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực.

NĐ vẫn thường xuyên liên lạc với nhóm cán bộ trí vận của CS đang hoạt động ở Pháp hay đã về nằm vùng tại miền Nam và nấp sau tờ tuần báo Sống Đạo để hoạt đô.ng. Tờ Sống Đạo cũng như tờ "Công giáo và Dân tộc" sau này, đã cố gắng dùng Thánh Kinh để bênh vực cho Chủ nghĩa Cộng sản.

Nguyễn Đình Đầu là một tên chuyên đâm bị thóc thọc bị gạo để gây mâu thuẫn trong hàng ngũ CG và tuyên truyền ngụy hòạ Khi CG biểu tình lên án những vụ bạo loạn tại miền Trung do CS giựt dây, NĐ soạn sẳn một văn thư chống lại Khối Công Giáo và chạy đi thuyết phục một số LM và giáo dân ký vàọ Trong cuốn sách "30 tháng 4" do nxb TPHCM ấn hành năm 1985, ký giả Võ Trần Nhã của VC cho biết NĐ là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay CS. NĐ có chân trong "nhóm Trí Việt", gồm một số đặc công CS nằm vùng, hoạt động dưới danh nghĩa "đòi thi hành hiệp dịnh Paris". Ngày 29/4/75, NĐ đi với Nguyễn Văn Diệp (cựu Bộ trưởng Kinh tế) và Đinh Bá Thi vào trại David ở trong phi trường Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn VC cư ngụ ở đó để báo cáo tình hình và nhận chỉ thị về việc vận động Dương Văn Minh đầu hàng. Đinh Bá Thi dùng mật hiệu để được phái đoàn VC trong Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên mở cửa cho vàọ Sau này Đinh Bá Thi được cử làm Đại sứ VC tại LHQ đầu tiên, nhưng một thời gian sau đã bị thanh toán bằng một tai nạn xe cộ trong một chuyến về VN.


Sau khi VC chiếm được miền Nam, bên ngoài NĐ không giữ chức vụ gì quan trọng, nhưng bên trong NĐ đã đứng ra tổ chức và giựt dây các chiến dịch chống phá GHCG. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Henri Lemaitre, đòi bãi chức TGM Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Dòng Đồng Công...đều có bàn tay của NĐ thúc đẩy phía saụ Với âm mưu thâm độc, chính NĐ đã soạn thông cáo của Tòa TGM Saigon lên án vụ Dòng Đồng Công rồi cầm lên yêu cầu TGM Nguyễn Văn Bình ký tên vào, nhưng TGM Bình không chịu ký thì NĐ đã lấy con dấu của Tòa TGM đóng vào rồi gởi cho các báo VC yêu cầu công bố.


o Lý Chánh Trung : LCT sinh năm 1929 ở Trà Vinh, theo đạo CG vào khoảng 1949 và năm 1950 được cho qua Bỉ học Đại học Louvain, một đại học CG, ở cách xa thủ đô Bruxelles khoảng 30km. LCT học rất giỏi, nhưng khi mới lấy xong Cử nhân Tâm lý học và Cử nhân Chính trị học, đã vội theo Nguyễn Đình Đầu về nước năm 1956 với ý định tham chánh, nhưng không được Ngô Đình Nhu dùng nên rất bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm và quay lại tán dương đường lối của CS. Khi ở Bỉ và Pháp, LCT cũng nằm trong Nhóm Thống Nhất của Nguyễn Mạnh Hà và bị chi phối bởi Nguyễn Đình Đầụ

Tuy chưa có bằng Tiến sĩ nhưng rất thông minh, vượt hẳn Nguyễn Văn Trung và các bạn đồng khóa thời đó, nên được coi là lý thuyết gia của nhóm và là linh hồn của tờ tuần báo Sống Đạọ LCT có tài viết lách rất điêu luyện, có thể bẻ ngòi bút đi theo hướng nào cũng được. Đọc những bài của LCT ca tụng HCM sau ngày 30/4/75, nhiều người phải sửng sốt về tài phất cờ theo chiều gió của người viết. Khó tìm được tại miền Nam một người viết "bài ca con cá" điêu luyện như thế.

LCT có người em là Lý Chánh Đức, làm Giám đốc Nha học liệu tại Bộ Quốc gia Giáo dục VNCH, đã xin cho LCT làm Công cán Ủy viên của Bộ nàỵ Về sau, LCT được bổ làm Giám đốc Nha Trung học Công lập. LCT cũng được mời dạy triết học tại Viện Đại học Huế và Đà Lạt.

Tuy có trình độ kiến thức cao và vững vàng, tính tình hòa nhã, nhưng bước đường sự nghiệp của LCT rất lận đận, có khi không lo nổi miếng ăn. Nhiều người cho rằng nếu LCT đừng nghe Nguyễn Đình Đầu, lấy xong bằng Tiến sĩ rồi trở về, có lẽ sẽ gặp được nhiều thuận lợi hơn. LM Cao Văn Luận là người đã nâng đỡ LCT rất nhiều, nhưng dưới 2 chế độ Cộng hòa Miền Nam, LCT chưa tìm được chỗ đứng thoải mái, luôn bận tâm về sinh kế nên thường tỏ ra hận đờị Sự bất mãn của LCT xuất hiện rất rõ trong cái lối viết lúc nào cũng có tính châm chọc và chua cay của ông. Vốn là 1 giáo sư Triết, tôn thờ Mounier và Karl Jasper, LCT đã nhìn vấn đề chính trị VN dưới lăng kính của một triết giạ Trong bài "Trên đường cùng đi" trên báo Đại Dân Tộc số 17 ngày 4/6/72, ông viết :

"Đối với tôi, vấn đề rất giản dị : dầu cho cuộc chiến hôm nay được giải thích cách nào, thực tế vẫn là có 2 phe cùng là người Việt đang chém giết nhau, mỗi phe được một hoặc hai siêu cường yểm trợ tận tình về mọi mặt.

"Tôi là người đứng "bên này" và từ lâu tôi đã nghĩ rằng lối thoát duy nhất cho cuộc chiến hiện nay là phải tạo dựng cho "bên này" một chính quyền tốt, độc lập với ngoại bang, có đủ nội lực và tự tín để gặp gỡ và làm hòa thật sự với "bên kia"."


Nghĩ sao làm vậy, khi CS chiếm được Saigon là ông đi theo CS, viết bài tán dương HCM và đảng CSVN. Ông được chọn làm Đại biểu Quốc hội khóa VI năm 1976 và các khóa tiếp theọ Khi vụ Vinh Sơn xảy ra, ông có viết một bài phê bình đăng trên báo "Công giáo và Dân tộc" số 55 ngày 18/7/76, lên án những người tham gia như sau :


"Hạng người như thế xin đừng gọi là người mà tội cho con người, xin đừng gọi là người VN mà tội cho dân tộc VN. Cũng xin đừng gọi là CG mà tội cho GHCG".


Gặp lại LCT vào thập niên 1980, người ta có thể thấy nơi ông hình ảnh của một người đã thấm đòn và chán nản. 2 vợ chồng ông làm lụng vất vã vẫn không đủ ăn, mặc dù trên ngực có gắn cái nhãn hiệu "đại biểu Quốc hội". Có lẽ trong hoàn cảnh đó ông mới nhận ra rằng "những người không đáng là người, không đáng là người VN" chính là những người CS chứ không phải là những người tham dự vào vụ Vinh Sơn. Những người mà ông mơ ước "làm hòa" đã cùng ông biến VN thành một quốc gia nghèo đói, không dân chủ, không tự do, không nhân quyền, và đã vùi lấp cuộc đời còn lại của một triết gia như ông.

Về phía giáo sĩ có 2 linh mục miền Nam được CS tín nhiệm, đó là LM Huỳnh Công Minh và LM Trương Bá Cần. 2 LM này đã được LM Nguyễn Đình Thi, một cán bộ VC nằm vùng ở Pháp, móc nối khi còn du học ở Pháp.


o LM Huỳnh Công Minh : Huỳnh Công Minh là một đảng viên nồng cốt của Đảng CSVN trong công tác Công giáo vận. Trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa VI năm 1976, ông được chọn làm đại biểụ Trong phiên họp ngày 7/7/77, sau khi Lê Duẩn đọc Báo Cáo Chính Trị, ông đã lên đọc một bài tham luận đúng sách vở của đảng :

"Báo cáo chính trị làm hho tôi thêm xác tín rằng mẫu con người mới, mẫu xã hội mới mà Quốc hội sẽ đề ra để toàn dân ra sức thực hiện trong giai đoạn lịch sử này chẳng những không có gì mâu thuẫn với tôn giáo, với tín ngưỡng chân chính, trái lại còn rất phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô Giêsụ
"Báo cáo chính trị làm cho tôi càng xác tín thêm nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chú Kitô Giêsu mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được nếu không có Đảng Lao Động VN, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức.
"Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu CNXH, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng CG mà đại bộ phận là nhân dân lao động, với đại gia đình VN, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay saị" (Thông tấn xã VN, 7/7/77)


Cũng giống như TT Thích Minh Châu, LM Huỳnh Công Minh là một người được huấn luyện về nghiệp vụ đàng hoàng, lúc nào ông cũng tỏ ra hoà nhã và khiêm tốn, không bao giờ bênh vực công khai chế độ CS khi thuyết giảng hay khi nói chuyện với các giáo sĩ và giáo dân. Ông chỉ kêu gọi phải hợp tác với phường khóm. Ông không giữ chức vụ gì quan trọng trong tổ chức CG quốc doanh, nhưng trong thực tế ông nắm hết mọi quyền hành trong tổ chức nàỵ Mọi việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển các giáo sĩ và các hoạt động của GHCGVN đều được chuyển cho ông cứu xét và đề nghị nhà cầm quyền CS thì mới chấp nhận. Ông luôn thi hành đúng mọi chỉ thị của đảng.


o LM Trương Bá Cần : là Tiến sĩ Sử học ở Pháp. Ông điều hành tờ tuần báo Công giáo và Dân tộc, dùng tờ báo này để bênh vực XHCN và vận động người CG thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên báo Công giáo và Dân tộc Xuân 1982, ông viết :
"Từ lâu, trước ngày giải phóng, tôi xác tín không có con đường thứ ba giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩ xã hộị Do đó, chấp nhận CNXH, đương nhiên tôi chấp nhận sự hợp tác với những người CS.
"Ngoài ra, kinh nghiệm trong 5 năm qua ngày càng thuyết phục tôi rằng sự lựa chọn CNXH là tốt nhất. Riêng tôi, hằng ngày tôi sống trong sự hợp tác giữa người CS và người CG. Tôi xác tín rằng chúng tôi có thể cùng nhau làm việc. Nhưng hợp tác có nghĩa gì ? Đối với tôi, điều kiện tuyệt đối là có sự kính trọng nhaụ Không chỉ là sự dung thứ cho người khác tồn tạị Nhưng tôi lập lại sự kính trọng, mà người ta chỉ kính trọng cái mà người ta thừa nhận là có giá tri.. Tôi thấy rằng những người CS kính trọng chúng tôị Về phía chúng tôi, chúng tôi đã học được rất nhiềụ Chúng tôi đã học biết những giá trị thật của CNXH. Đó là một lý tưởng cụ thể, phục vụ người khác".

Vào khoảng 1989, suy nghĩ của ông hơi thay đổi nhưng chưa ai chắc điều đó có phải thật hay giả. CS đã nhờ ông viết lại lịch sử GHCGVN để biện minh cho chế dô.. Có lần CS nhờ LM Phan Phát Huồn viết lại bộ Việt Nam Giáo Sử, nhưng khi LM Huồn hỏi tại sao không nhờ LM Trương Bá Cần thì CS trả lời, "Linh mục viết người ta mới tin. Trương Bá Cần viết người ta không tin !".

Nhìn chung, ngoài 2 LM Minh và Cần ra, các LM quốc doanh khác không đóng vai trò gì quan tro.ng. Các LM Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đình Bích,...chỉ là loại chạy cờ, có việc gì CS sai thì làm.

Đa số các linh mục và trí thức CG thiên tả như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng...đều là những người tốt nghiệp về thần học và triết học ở Pháp hay Bỉ, nên thường nhìn các vấn đề chính trị và xã hội của đất nước dưới lăng kính của triết học. Họ dùng Tâm và Lý để phân tích và xác định con đường mà đất nước phải chọn. Họ không có thói quen quan sát các sự kiện đang diễn ra rồi dùng Trí để phán đoán và chọn con đường thich hợp nhất. Mỗi khi thấy con đường họ tưởng là đúng, đã có nhiều nguy hại trong thực tế, họ quay ngược trở lại và tấn công thẳng vào con đường mà họ từng cổ võ. Bằng bài báo "Dấm chua mật đắng" trong cuốn "3 năm xáo trộn", nhóm Sống Đạo đã khuyến cáo các tổ chức của người CG đứng lên chống lại sự lộng hành của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc miền Trung do CS giựt dâỵ Nhưng khi nhận ra được những tệ hại của chế độ CSVN, họ không hề đưa thêm má bên kia cho CS đánh mà trái lại đã mạt sát chế độ CS bằng những lời lẽ chua cay hơn những người thường. Sau đây là một mẫu chuyện ngắn giữa công an và Nguyễn Ngọc Lan, được NNgL ghi lại trong cuốn "Nhật Ký 1990-1991" :


"Ông có di thăm linh mục Chân Tín không ?
- Làm sao tôi đi được ?
- Như ông viết qua báo chí đó : Duyên Hải bây giờ đang bị sốt rét như di.ch. Người ta đang bảo là Nhà nước khéo chọn chỗ để đày linh mục Chân Tín đó.
- Linh mục Chân Tín năm nay bao nhiêu tuổi ?
- 71.
- Thôi, tôi gặp ông Lan chỉ có vậỵ"

Trước đây, 2 linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan đã có lập trường khuynh tả hoàn toàn, nhưng sau khi sống với chế độ CS một thời gian, họ nhận ra CNXH không tốt đẹp như họ tưởng, họ đã quay lại chống chế độ một cách mạnh mẽ. Với những thành phần này, không thể coi họ là thành phần quốc doanh, nhưng những nhận định sai lệch của họ về chính trị, xã hội và tôn giáo một đôi khi rất tai hạị Đi vào chính trị, triết gia luôn bị đánh bại một cách thê thảm. Thân phận của họ cũng giống như thân phận của một triết gia đi qua sông mà người Tây phương thường đem ra chế giễu :

Triết gia hỏi ông lái đò :

- Ông có biết làm toán hông ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông đã mất một phần tư cuộc đời rồi !

Một lúc sau, triết gia lại hỏi câu thứ hai :

- Ông co biết viết không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất nửa cuộc dời rồi !

Thuyền đến giữa sông, triết gia hỏi câu thứ ba :

- Ông có biết đọc không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất ba phần tư cuộc đời rồi !

Khi triết gia vừa dứt lời thì sóng gió lớn nổi lên; ông lái đò liền quay lại hỏi triết gia :

- Ông có biết bơi không ?
- Tôi không biết.

Ông lái đò lắc đầu :

- Thế thì ông mất cả cuộc đời rồi !



Trong buổi nói chuyện trên đài phát thanh vào ngày 26/10/1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã nói :"Người cấp tiến là người hai chân đã được trồng chặt vào khoảng không".


Khi các triết gia nói trên nhận được sự thật thì đã quá muộn, phương cách để cứu vãn không tìm thấy dễ dàng ở trước mắt. Nhưng dù sao họ cũng còn có thể quyết định quay trở lạị Những thành phần gia nhập Đảng CS như các linh mục Nguyễn Đình Thi, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh thì không còn đường trở lại nữa : hoặc tiếp tục đi trong sai lầm hoặc chết. Kỷ luật Đảng không bao giờ dung tha thành phần phản Đảng.

Mặt Trận Tổ Quốc luôn tìm cách đề cao vai trò của các linh mục quốc doanh, nhất là vai trò của linh mục Huỳnh Công Minh. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển giáo sĩ cũng như các hình thức sinh hoạt tôn giáo đặc biệt đều phải có đề nghị của linh mục này mới được nhà cầm quyền chấp thuận. Hôm 10/7/89, Hồng Y R. Etchegaray ghé thăm Saigon, báo Saigon Giải Phóng loan tin ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Chủ tịch UBNDTP đã tiếp Đức Hồng Ỵ Cùng tham dự cuộc tiếp tân này có "TGM Nguyễn Văn Bình và GM giáo phận Saigon Huỳnh Công Minh". Bản tin trên đã làm mọi giới CG bất bình.

Nhiều người đã gọi điện thoại phản đối báo SGGP và yêu cầu TGM Bình đính chính. Báo SGGP ngày 13/7/89 đăng một cột nhỏ cải chính nói "Linh mục Huỳnh Công Minh là linh mục chánh sở nhà thờ chánh tòa Saigon chứ không phải GM giáo phận Saigon như đã loan tin". Qua bản tin cố ý đăng sai đó, mọi người đều thấy rõ ý định của CS muốn đưa linh mục Huỳnh Công Minh làm GM giáo phận Saigon.

Tuy được sự hỗ trợ của Mặt Trận Tổ Quốc, các linh mục quốc doanh viết hay nói gì cũng không ai nghẹ Đi đâu họ cũng bị giáo dân xa lánh. Linh mục quốc doanh còn lo sợ các biện pháp kỷ luật của Tòa Thánh Vatican. Năm 1992, trong văn thư số N4708/92/RS ngày 20/5/92 gởi cho GM Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Angelo Sodano đã yêu cầu Hội Đồng GMVN lưu ý các giáo sĩ về "Tuyên ngôn của Bộ Giáo Sĩ về những hiệp hội và những phong trào mà các giáo sĩ không được tham gia" công bố ngày 8/3/82 với mục đích nhắc nhở các linh mục không được tham gia vào các tổ chức CG quốc doanh. Tuyên ngôn này nói rõ :"Ai hành động trái với lịnh cấm hợp pháp của thẩm quyền GH có thể bị phạt một cách chính đáng, kể cả phạt vạ, chiếu theo các điều phải tuân giữ theo luật".


o Thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam Tự trị không được, quay lại thành lập "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" :

Năm 1980, Hà Nội quyết định bước qua giai đoạn mới gọi là "giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân". Trong giai đoạn này, CS cho áp dụng các biện pháp để quốc hữu hóa tất cả tài sản của các nhà tư bản lớn và địa chủ để đưa vào quốc doanh, ép buộc các nhà tư bản hạng trung hợp tác kinh doanh với chính phủ CS. Đây là một hình thức mượn vốn và tay nghề của tư nhân để xây dựng các cơ sở kinh doanh và sản xuất, rồi đưa vào hợp tác xã hay biến thành công ty quốc doanh trong giai đoạn kế tiếp. Song song với các biện pháp kinh tế, CS cũng tiến thêm một bước thứ hai trong việc đưa tôn giáo vào quốc doanh. Chữ "quốc doanh" được Hà Nội dịch ra tiếng Anh là "state-run", tức do nhà nước điều hành. Dân chúng đã dùng chữ này để chỉ các tổ chức do chính phủ điều khiển.

CS muốn tiến tới "quốc daonh hóa" CG trước cả PG. Đầu năm 1980, Ban Tôn giáo chính phủ và Mặt Trận Tổ Quốc đã đưa linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ tịch "Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hòa bình", từ Hà Nội vào Saigon tổ chức một hội nghị CG mở rộng vào ngày 5/1/80. Hội nghị này dã đi đến quyết định thành lập "Ủy ban Vận động Công giáo" nhằm tiến tới việc thành lập một Giáo hội Công giáo VN tự trị tách rời khỏi Vatican. Xong CG rồi, ngày 12/2/80, CS mới cho lập "Ủy ban Vận động Thống nhất Phật giáo". Nhưng về phía CG, CS đã gặp rất nhièu khó khăn vì không kêu gọi được một GM nào tham gia vào Ủy ban, còn hầu hết giáo sĩ và giáo dân thì tỏ ra e dè.

Tháng 11/81, CS đã hình thành được một Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhờ sự hợp tác chặt chẽ của các Hòa Thượng Thích Minh Châu, Thích Quảng Liên và nhất là có sự đồng thuận của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống và HT Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hoá đạo GHPGVNTN hệ phái Ấn Quang. Nhưng về phiá CG, CS đã hoàn toàn thất bạị


Trong một bản phân tích tình hình các tôn giáo tại miền Nam năm 1981, Tổng cục An ninh của CS đã nhận định rằng 2 tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo chỉ là 2 giáo phái chính trị nên phải giải tán. Về phía PG, bản nhận định nói rằng việc kiểm soát không có gì khó khăn, vì PG không có tổ chức chặt chẽ và trong những năm "kháng chiến" Đảng đã gài được nhiều cán bộ nồng cốt vào bên trong để hoạt dô.ng. Những thành phần chống đối đã bị loại bỏ hoặc cô lâp. Vậy có thể tiến tới thống nhât ngay mà không gặp trở ngại nàọ Riêng về phía CG, bản nhận định cho biết GHCG là một GH được tổ chức rất chặt chẽ, gồm những người lãnh đạo và cán bộ có kiến thức, giáo dân đều đã được huấn luyện thuần thành. Bản phân tích cho biết riêng giáo phận Saigon có khoảng 40 linh mục có bằng tiến sĩ hoặc tương đương và phân rõ lập trường, thái độ của từng nhóm cũng như cách đối phó. CG có Hội đồng Giám mục là một cơ quan lãnh đạo tập thể, rất khó dùng ảnh hưởng của một vài cá nhân để chi phốị CG lại có hậu thuẫn của Vatican và các nước CG Tây phương nên nếu hành động không khôn khéo thì có thể gây hậu quả bất lợị Bản phân tích đề nghị dùng nhiều biện pháp để khống chế và làm tiêu hao dần giáo hội này như đã áp dụng tại miền Bắc từ 1954-1975 : Tìm cách cô lập các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh đạo, lưu lại một thời gian lâu dài khoảng 200 giáo sĩ đang bị giam giữ trong các trại cải tạo cho đến khi tình hình ổn định, hạn chế chặt chẽ việc phong chức, bổ nhiệm các chức sắc mới thay thế những chức sắc đã qua đời, cô lập và phân tán các dòng tu, v.v...

Mặt Trận Tổ Quốc đã nhiều lần mở cuộc thăm dò để thành lập một Giáo Hội Công Giáo VN tự trị, nhưng đã bị cự tuyệt. Các giáo sĩ và giáo dân được mời họp để hỏi ý kiến đều trả lời rằng chỉ có Hội đồng Giám mục mới có quyền quyết định được điều đó. Ngay các linh mục quốc doanh cũng không ai dám công khai ủng hộ đề nghị của CS. Cuối cùng, CS đã quyết định tạm thời tiến tới việc thống nhất các tổ chức CG quốc doanh trong khi nghiên cứu lại làm sao để đ^'i phó với CG để thành lập một GHCGVN tự trị, tức là nằm dưới sự điều khiển của CS.

Ban Tôn giáo Chính phủ đã giao cho linh mục Nguyễn Thế Vịnh của miền bắc đứng ra thành lập một tổ chức CG quốc doanh thống nhất. và một dại hội đã được triệu tập tại Hà Nội từ 7-10/11/83. Biết linh mục Vịnh không đủ thẩm quyền và uy tín để triệu tạp một hội nghị như vậy nên Mặt Trận Tổ Quốc đã đứng ra hành đô.ng. Mặt Trận tại mỗi địa phương đã chỉ định các thành phần tham dự đại hộị Trong dại hội người ta thấy có 299 "đại biểu" thuộc 32 tỉnh trong nước, trong đó có 142 linh mục, 11 tu sĩ và 146 giáo dân. Để làm cho Đại hội đi đến thành công, Hà Nội phải đưa Huỳnh tấn Phát, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc, đứng ra lãnh đạo đại hộị Đặng Thành Chơn, chuyên viên về khống chế tôn giáo của Ban Tôn giáo CS cũng có mặt để theo dõi từng diễn biến của đại hộị Trong đại hội, đại diện chính quyền CS cũng như một số đại biểu cò mồi đã nhấn mạnh khá nhiều về "vấn đề CGVN" với gợi ý nên tiến tới việc tuyên bố tách rời GHCGVN ra khỏi Vatican vì GHVN đã trưởng thành. Chuyện này đợc bàn tán nhiều sau Đại hội nên tờ Công giáo và Dân tộc phải lên tiếng xác nhận "không có vấn đề tự trị".

Đại Hội đã quyết định thành lập "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" và đề cử linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm Chủ ti.ch. Đại hội cũng chấp thuận một bản Điều lệ và một bản Nghị quyết do Ban Tôn Giáo CS soạn sẵn. Điều 2 của bản Điều lệ ghi rõ :

"Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước VN là một tổ chức thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc VN, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật của nước CHXHCNVN và Cương lĩnh của Mặt Trận Tổ Quốc VN".


Điều 3 của bản Nghị quyết đã nói về vai trò của phong trào CG Yêu nước như sau :

"Đại hội cũng nhận định : vượt qua những gian lao thử thách, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN và Chủ tịch HCM vĩ đại, với sự quan tâm giúp đỡ của Mặt Trận Tổ Quốc VN, phong trào CG Yêu nước đang lớn ma.nh. Yêu nước là truyền thống vẻ vang của dân tộc VN, là đòi hỏi thiêng liêng của tình thương Kitô giáo, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân VN. Trong thời đại ngày nay, nội dung yêu nước phải gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội và phải gắn liền nghĩa vụ yêu nước với nghĩa vụ đấu tranh cho hòa bình và công lý trên thế giới".

Linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm Chủ tịch được 6 tháng thì mất. GM Bùi Chu Tạo cho biết những tháng cuối cùng của cuộc đời, linh mục Vịnh thường tỏ ra hối hận về sự lầm lẫn của ông trong việc tham gia Đảng CSVN, và rồi việc tới phải tới, những ngày trước khi qua đời linh mục Vịnh đã xin chịu các phép bí tích. Một nhân vật khác là linh mục Hồ Thành Biên đã thay thế linh mục Vi.nh.

Tại Saigon, "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước Việt Nam" đã được cấp một biệt thự ở số 15 đường Tú Xương, Q3, để làm văn phòng thường trực và sinh hoạt. Cũng giống như nhóm người đào tạo ra nó, Ủy ban chiếm phòng hội của Trung tâm CGVN ở đường Trần Quốc Toản làm nơi hội họp. Ủy ban cũng định chiếm dụng nhà sinh hoạt của giáo xứ Tân Định để làm cơ sở ấn loát và phát hành báo chí, nhưng bị kháng cự lại nên không chiếm được. Ủy ban có một tờ tuần báo là tờ "Công giáo và Dân tộc" do linh mục Trương Bá Cần làm chủ nhiệm. Ủy ban dùng tờ báo này để kêu gọi giáo dân hợp tác với chính quyền. Trong 1 bài phhỏng vấn dành cho báo Eglises d'Asie, GM Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, đã trả lời bằng tiếng Pháp về trường hợp của "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" và tờ "Công giáo và Dân tộc" như sau :

"Ủy ban thủ một tờ báo CG duy nhất tại miền Nam VN. Tuy nhiên tờ này hay tờ kia (ở Bắc) đều đã được coi như là những cơ quan của chính phủ. Những bài viết trong tờ báo luôn bênh vực chính sách của chính quyền và thường công kích GH. Họ không có ý kiến đứng đắn về GHVN...

"2 trong những người đại diện (của Ủy ban) đã gởi cho tôi một lá thư trong đó họ than phiền họ đã bị cả chính quyền lẫn hệ cấp thẩm quyền CG coi như một công cụ kiểm soát của chính quyền. Tôi đã trả lời họ rằng những sự nghi ngờ đó có căn cứ. Họ đã mất sự tin tưởng của người CG". (Nguyễn Ngọc Lan, "Nhật ký 1990-1991, Tin, Paris, 1993, tr. 236-237).

Tuy được sự trợ giúp của Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy ban trên không hoạt động gì được, vì giáo dân cũng như giáo sĩ chỉ biết Hội đồng Giám mục VN chớ không cần biết Ủy ban nàỵ

Với chỉ thị của Tòa Thánh Vatican cấm các giáo sĩ không được tham gia vào các tổ chức tôn giáo quốc doanh, vai trò của Ủy ban cũng sắp cáo chung, vì các giáo dân tham gia ủy ban không có ai có uy tín hay khả năng điều hành nó.



o Tiếp tục đánh phá Công giáo :

Năm 1985, khi quyết định tiến tới giai đoạn mà CS gọi là "Tiến lên Xã hội chủ nghĩa", CS quyết định đưa các ngành tư doanh còn lại vào hợp tác xã hay biến thành công ty quốc doanh. Tại Saigon, Q3, nơi còn nhiều cơ sở tư doanh nhỏ, đã được chọn làm thí diểm. Song song với biện pháp kinh tế, CS cũng quyết định đi thêm một bước nữa trong việc khống chế CG.

Khoảng 200 công an đã được huấn luyện tại Tiệp Khắc về tôn giáo vụ được đưa vào miền Nam, phân phối cho các thành phố Đà Nẵng, Biên Hòa, Đồng Nai và Saigon là những nơi có nhiều giáo dân tập trung. Tại Saigon, huyện Thủ Đức đã được chọn làm thí điểm vì nơi đây còn một số đông các cơ sở dòng tu và các giáo xứ miền Bắc di cự Trong năm 1986, một số dòng tu ở Thủ Đức như Đức Bà Truyền Giáo, Đồng Công...đã được lệnh phân chia ra nhiều "hộ" nhỏ, mỗi hộ không quá 10 ngườị CS sẽ cấp những căn nhà riêng biệt cho các "hộ" này tiếp tục đời sống tu trì. Các cơ sở của các dòng còn lại sẽ được đặt dươi quyền quản lý của nhà nước. Vụ đánh phá Dòng Đồng Công năm 1987 cũng nằm trong chiến dịch xé lẻ các dòng tu để diệt dần.

Năm 1986, CS lại triệu tập một Đại hội Toàn quốc "Những người Công giáo Việt Nam Xây dựng và Bảo vệ Hòa bình" lần thứ 2 tại Hà Nội để hình thàhn một GH Thiên Chúa Giáo VN tự trị, tách rời khỏi Tòa thánh Vatican như năm 1983, nhưng vẫn thất bại, vì các giáo sĩ và giáo dân tham dự đại hội vẫn trả lời như trước : Vấn đề tự trị hay không tùy thuộc vào quyết định của Hội đồng Giám mục, họ không có thẩm quyền.

Sự phản ứng của CS Hà Nội về việc Tòa Thánh Vatican quyết định phong thánh cho 117 vị chân phước tử đạo tại VN ngày 19/6/1988 cũng rất quyết liệt. Linh mục Trương Bá Cần đã viết nhiều bài phân tích cho rằng việc phong thánh là sai lầm. Nguyễn Đình Đầu hô hào tẩy chay phong thánh. Hội đồng Giám mục VN bị đả kích nặng nề vì đã ký đơn xin phong thánh. Nhiều cuộc họp hay hội thảo để phản đối quyết định phong thánh đã được triệu tập, nhưng đa số giáo dân và giáo sĩ đều cho rằng việc phong thánh là chính đáng. Cuối cùng Hà Nội đành bó taỵ

Nhưng không may cho Đảng CSVN là cuộc đổi tiền vào tháng 9/1985 đã đem lại những hậu quả ngày càng nghiêm trọng, kinh tế suy sụp hoàn toàn, bắt buộc Đảng CS phải đổi mới để sống còn. Sự khống chế CG cũng được nới rộng ra để khỏi bị lên án khi kêu gọi đầu tư và vay mượn tín dụng ngoại quốc. Nhà cầm quyền Hà Nội vẫn tin rằng CG là nguồn ngoại tệ đáng kể vì có sự giúp đỡ của Vatican và các tổ chức CG quốc tế. Tuy nhiên sự nới rộng này chỉ có ảnh hưởng đến một số sinh hoạt giới hạn như cho phong thêm một số linh mục, đồng ý cho bổ nhiệm một số giáo phẩm vào các chức vụ đã bị khiếm khuyết từ lâu, cho in một số sách Thánh Kinh... Đặc biệt, người CG không còn bị xếp vào công dân hạng 6 như trước nữạ Một vài lãnh vực đại học và cơ quan công quyền đã thu nhận giáo dân. Tuy nhiên, nhà cầm quyền CS vẫn tiếp tục gây nhiều khó khăn cho việc bổ sung từ hàng GM trở lên. Ngày 25/8/1993, nhà cầm quyền CS đã bác bỏ quyết định của Vatican cử GM Huỳnh Văn Nghi làm Giám Quản Giáo Phận (Diocesan Administrator) Tòa GM Saigon và cũng không cho TGM Nguyễn Văn Thuận trở về nhận chức TGM Saigon khi TGM Nguyễn Văn Bình từ nhiệm vì lý do già yếụ Trước đây, khi TGM Nguyễn Kim Điền, TGM Giáo phận Huế qua đời ngày 8/6/88, Hà Nội cũng không cho Vatican cử người thay thế. Đó là những âm mưu của CS làm tê liệt guồng máy lãnh đạo của GHCGVN. Nhưng GH này vẫn tiếp tục hoạt động bình thường là nhờ có Hội đồng GM, do đó âm mưu của CS không ảnh hưởng nhiềụ Ngày 15/4/1991, Hội đồng GMVN đã gởi đến Tổng Bí Thư Đảng CSVN một Bản Góp Ý đề cập đến 2 vấn đề quan trọng sau :

- Vấn đề xây dựng đất nước : Phải lấy phương châm "phục vụ con người toàn diện" làm mục tiêu hàng đầu, phải có dân chủ thật sự và đặt tổ quốc lên trên hết. Tránh đồng hóa tổ quốc với Xã hội Chủ nghĩa, vì XHCN cũng chỉ vì tổ quốc và nhân dân.

- Vấn đề tôn giáo : Hiến pháp có công nhận quyền tự do tín ngưỡng, nhưng việc thi hành quyết định này gặp nhiều khó khăn phiền hà. Phải coi quyền tự do tôn giáo là một thứ quyền lợi chứ không phải là một đặc ân. Các quy chế về tôn giáo, trước khi ban hành phải đem lấy ý kiến của toàn dân, nhất là tín đồ các tôn giáo chứ không nên áp đặt. Tạo điều kiện cho tôn giáo thực hành lý tưởng nhân ái, chia xẻ hoàn cảnh của những người gnhèo túng, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh, đừng lo sợ tôn giáo đề cao cá nhân hay tập thể.

Bản góp ý này đã được các giới trong và ngoaì nước đánh giá như là một tiếng nói thẳng thắn và xây dựng thiết thực, và đã làm cho CS lúng túng.


*


Bây giờ ta quay lại câu chuyện giữa CGVN và CSVN từ 1981. Dù đang ve vãn Vatican để mở rộng bang giao và vay mượn tín dụng của Tây phương, nhưng sở dĩ CS không bao giờ từ bỏ chính sách khống chế GHCGVN là vì họ tin rằng đây là một tổ chức có thể gây nguy hiểm cho chế độ của ho..

Nhắc lại sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8/9/81 về tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đã dùng tờ Sống Đức Tin để phê bình sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lý của tờ báo CG quốc doanh là tờ "Công giáo và Dân tộc" của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước. Nhóm này đã yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đình được đi định cư tại Mỹ năm 1993 và ông đã viết cuốn "Đức tin đại thắng" nói về các vụ đàn áp CG tại VN.

Cũng vào năm 1981, CS bắt đầu cho in nhiều sách, truyện bôi nhọ, chống báng CG, như cuốn "Tây dương Gia Tô bí lục", hoặc các cuốn tiểu thuyết như "Ruồi trâu", "Đất mặn", "Cánh cửa bên ngoài",... Hà Nội ra lịnh đóng cửa Trung tâm Đắc Lộ của các cha Dòng Tên; ngược lại, họ cho mở cửa Đại chủng viện Saigon ngày 15/3/81, để giữ "mặt nổi" tự do tín ngưỡng. Nhưng Đại hội La Vang này 15/8/81, do TGM Nguyễn Kim Điền và GM Thể chủ tọa với 40 linh mục và 10,000 giáo dân tham dự đã là sự thách thức chế đô.. Sau đó, TGM Điền bị kêu đi "làm việc" 4 ngày và gặp nhiều rắc rối khác. Ông bị cấm không được sang Vatican tham dự cuộc họp của Bộ Truyền giáo.

Phản ứng lại hành động ngăn trở mục vụ, hội nghị của Hội đồng Giám mục VN ngày 7/8/82 đã bàn về vấn đề mở cửa các chủng viện. Nhưng sau khi gặp Hoàng Quốc Việt và ban lãnh đạo Mặt Trận Tổ Quốc VN (MTTQVN) họ mới biết là CS chỉ cho phép mở các đại chủng viện ở các thành phố lớn như Hà Nội, Vinh, Huế, Quy Nhơn, Saigon và Cần Thơ mà thôi.

Năm 1983, nhằm mục đích xóa dần vai trò của GH chính thống, CS cho thành lập "Ủy ban Đoàn kết CG Yêu nước" (UBCGDKYN) gồm có một số tu sĩ quốc doanh như Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ...dưới sự chỉ đạo chặc chẽ của Ban Tôn Giáo nhà nước và MTTQVN. Nhưng Ủy ban này gặp sự chống đối mạnh mẽ của đa số GM, linh mục, giáo dân cả nước. CS muốn đưa linh mục Huỳnh Công Minh lên chức đại diện giáo phận Saigon để thao túng, mua chuộc các tu sĩ vào trong Ủy ban, rồi sẽ giải tán cái bình phong này, biến những người của Ủy ban trở thành cấp lãnh dạo của GHCG và sẽ tìm cách tách rời sự lãnh đạo của Vatican trong vị thế "tự trị". Nhiều GM công khai phản đối vài trò của Ủy ban này liền bị CS kêu đi "làm việc" và Tòa GM bị công an canh chừng cẩn mật.

Dù vẫn cho một số GM có chức quyền xuất ngoại sinh hoạt mục vụ, hoặc chấp thuận Tòa thánh cho phong chức GM một vài người, nhưng CS vẫn tiếp tục chiến dịch khủng bố tinh thần. Ngày 9/8/83, toà án CS tại Saigon đã đem ra xử vụ án Dòng Tên và kết án 12 linh mục và tu sĩ về tội "âm mưu lật đổ chính phủ" vì đã phổ biến tờ báo "chui" Nhập Thế.

UBDKCGYN mở đại hội tại Hà Nội, từ 8-11/11/83, gồm có 142 linh mục và 11 tu sĩ tham dự, nhưng bị TGM Huế Nguyễn Kim Điền và một số GM phản đốị Các vị này sau đó lại phải đi "làm việc". GM Nguyễn Như Thể từ chức TGM phó giáo phận Huế để phản đốị TGM Điền đã vạch rõ bản chất của Ủy ban này qua những thư gởi cho các linh mục Vịnh và Trinh của nhóm quốc doanh, nêu ra 3 điểm chính :

- Chính sách Mác-Lê dùng Ủy ban để phá hoại GHCG với sự xác minh rằng "Nhà nước XHCN đoàn kết các tôn giáo trên cơ sở ích lợi chung, trong một mặt trận thống nhất cùng toàn dân đấu tranh cho độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội; đồng thời xây dựng GH độc lập, thoát ra khỏi sự lệ thuộc GH nước ngoài" ("Chủ nghĩa khoa học xã hội", 1978, tr. 188).

- Trên thực tế Ủy ban đã có ý định tách rời khỏi GH toàn cầu, trực tiếp viết thư mời các linh mục mà không qua GM; nhà nước CS làm áp lực trên các GM...

- Trên thực tế, nhà nước CSVN xem Ủy ban này là GH chính thức.


Để ngăn chặn làn sóng chống đối của GHCG, ngày 23/2/84, CS ra lịnh bắt giam 27 nữ tu dòng Chúa Quan Phòng, cùng với linh mục Mao và Cổ Tấn Hưng. Ngay sau đó, TGM Điền và GM Phạm Ngọc Chi đã bị kêu lên "làm việc" suốt 2 tháng 3 và 4/1984. HDGMVN đã triệu tập phiên họp từ 16-23/5/84 bàn về 2 vấn đề sôi nổi nhất là vụ TGM Điền và UBDKCGYN. Hội đồng không có quyền nên không thể can thiệp mạnh mẽ cho TGM Điền, nhưng cho biết sẽ có phản ứng mạnh với UBDKCGYN nếu Ủy ban này can thiêp vào nội bộ của GHCGVN. Không được đi tham dự phiên họp này gồm có các vị Nguyễn Kim Điền, Lê Hữu Cung, Phạm Văn Dụ, Phạm Ngọc Chi và Nguyễn Như Thể.

Với chiến thuật "vừa xoa vừa đánh", CS lại cho phép GH in sách nguyện cho linh mục và sách lễ giáo dân và đồng ý dể mỗi miền chỉ được mở 2 chủng viện.


* Giai đoạn "Tiến lên XHCN" :

Như ta đã biết, năm 1985, Hà Nội tuyên bố giai đoạn thực hiện chế độ "Dân chủ nhân dân" tại miền Nam VN coi như đã hoàn tất và bắt đầu đi tới giai đoạn "Tiến lên XHCN". Muốn vậy, phải thực hiện một chương trình được gọi là "Cải tạo XHCN". Trong chương trình này, tôn giáo cũng được coi là đối tượng hàng đầu phải được "cải tạo". Tháng 9/85, Hà Nội ra lịnh kiểm kê tất cả các cơ sở sản xuất và kinh doanh của tư nhân còn lại để đưa vào hợp tác xã, đồng thời ra lịnh đổi tiền để vô hiệu hóa các nguồn vốn của tư nhân còn lạị Về phương diện kinh tế, UBNDTP Saigon đã quyết định chọn Q3 làm thí điểm, vì nơi đây có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ loại nhỏ của tư nhân.

Về phương diện tôn giáo, thì CS đã đem 200 công an học về công tác "tôn giáo vụ" ở Tiệp Khắc ra phân phối khắp nơi để phụ trách công tác xóa bỏ và vô hiệu hóa dần các cơ sở tôn giáọ Các chùa chiền, dòng tu và cơ sở tôn giáo bị kiểm tra thường xuyên. Nhiều tu viện và cơ sở tôn giáo đã được lịnh chuẩn bị để được phân tán mỏng ra từng hộ 5-10 người, không cho tập trung nữạ Nhiều tu sĩ đã được Mặt Trận Tổ Quốc khuyến cáo trở về với gia đình hay lập gia đình.

Cũng vào năm 1985 nhằm vào dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm VN, ngày 14/1/85, Đức Giáo Hoàng đã gởi chúc thư chúc Tết các GMVN và nhắc nhở qua Roma để tham dự lễ "viếng mộ Thánh Phêrô", nhưng thư bị CS tịch thụ Ngày 6/3/85, lá thư này được công bố trên đài phát thanh Vatican. HDGMVN dự định họp từ ngày 4/5/85, nhưng CS bắt dời lại ngày 20/5/85. Sau đó nhiều GM không được đi sang Roma, chỉ có Hồng Y Trịnh Văn Căn, TGM Nguyễn Văn Bình và GM Huỳnh Đông Các được phép đi từ ngày 7-24/11/85.

CS tìm cách cô lập và làm khó dễ GM Phạm Ngọc Chi, TGM Nguyễn Kim Điền, nhất là sau vụ CS gọi là "vụ gián diệp" Trương Thị Lý, Bề trên Tu hội Dòng Mến Thánh Giá Huế, bị bắt vào tháng 7/85 chỉ vì mang văn thư của TGM Điền vào Saigon (cái chết đột ngột vào 8/6/88 của TGM Điền, một người mạnh mẽ lên tiếng chống đối chính sách đàn áp tôn giáo của CS hiện vẫn còn là một nghi vấn). CS cô lập TGM Điền lấy cớ là để tránh bị "mạo danh" nói những điều bất lợị Ông liền viết thư mục vụ ngày 19/10/85 nhắn nhủ mọi người trong tương lai "đừng tin" những gì cho rằng ông có nóị Để làm giảm bớt không khí căng thẳng này, UBNDTPHCM chính thức cấp giấy phép cho mở Đại chủng viện Saigon. Trước đó họ cho mở Đại chủng viện tại Hà Nộị

Ngày 24/11/85, Đức Giáo Hoàng gởi một sứ điệp đến hàng giáo phẩm VN khen ngợi đức tính cần cù và lòng can đảm, và nhắn nhủ "những đau khổ giống như hạt lúa mì rơi xuống đất chết đi sẽ sinh nhiều bông hạt khác". Trong dịp dâng thánh lễ cho VN ngày 13/12/85, DGH gởi một thư chung cho các GMVN, kể tên từng vị và nhắn nhủ tận tâm loan truyền sứ điệp tin cậy mến, trong đó có đoạn ông viết :"Tôi khuyến khích các linh mục, cho dù có gặp trở ngại, hãy tiếp tục con đường dẫn đến một xã hội được tình thương biến cảị Vì sức mạnh của việc rao giảng tin mừng sẽ trở nên yếu ớt nếu những người rao giảng tin mừng chia rẽ nhau".

Sứ điệp này càng làm cho sinh hoạt CG căng thẳng hơn. Suốt năm 1986, TGM Điền bị cán bộ Đảng kêu đi "làm việc" nhiều lần và ông phải vào nhà thương điều tri.. Ông tuyên bố đang "ở trong tình trạng bách hại" và cương quyết giữ "5 không" : không nói, không viết, không ký; và nếu CS bắt giam thì sẽ "không ăn, không uống".

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website