00117 TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ
LGT: "THẾ GIỚI ĐANG ĐỐI MẶT VỚI TRẬN TẤN CÔNG LỚN NHẤT VÀO SỰ THẬT KỂ TỪ NHỮNG NĂM 1930"! Đó là lời thú nhận chân thành của ông Lord Tony Hall, Tổng giám đốc Đài BBC Luân Đôn, cơ quan truyền thông lâu đời nhất thế giới đã phải cay đắng thừa nhận!!!
Một trong những sự thật kinh hoàng trong giai đoạn lịch sử cận đại của nước Việt Nam chúng ta đã bị bè lũ "mượn đạo tạo đời" Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất Khối Ấn Quang bóp méo, tuyên truyền và ngày đêm tung lên mạng xã hội những nhân chứng dổm, những chứng cớ ngụy tạo để bôi nhọ Chính Thể Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo anh minh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhằm CHẠY TỘI cho tội ác trời không tha, đất không dung của chúng đối với Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam.
Vì thế TRẢ LẠI SỰ THẬT cho lịch sử là một thúc bách lớn đối với website Chính Khí Việt Net! Cho nên tất cả những gì được trưng bày ở đây bằng hình ảnh, bằng những bài viết của rất nhiều nhân chứng sống thời kỳ 1954 -1963, dựa trên những sự thật không thể chối cãi của lịch sử sẽ là những tài liệu đúng đắn nhất nhằm đánh tan những luận điệu tuyên truyền của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nói chung và của băng đảng tập đoàn Ma Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, hậu thân Phật Giáo Ấn Quang nói riêng đã, đang tìm đủ mọi cách để bôi nhọ và xuyên tạc rằng chúng "đấu tranh" cho cái chúng gọi là Phật Giáo của chúng bị bách hại!!!???
Tài liệu dưới đây là quá trình tìm hiểu, thu thập, tổng hợp và nhận định của Chính Khí Việt, bút danh của anh Joseph L. Phạm trong hai thập niên qua đã được đăng trên các diễn đàn yahoogroups, facebook, các website của người Quốc Gia Tỵ Nạn VGCS....
Chúng tôi xin chân thành giới thiệu đến độc giả trong và ngoài nước với mong ước Sự Thật Của Lịch Sử không bị mai một, không bị bóp méo, không bị tuyên truyền và xuyên tạc trong âm mưu bôi bẩn những vị lãnh đạo và Quân - Cán - Chính Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn Lịch Sử 1954 - 1963!!!
Minh Thư Nguyễn
Ngày 01 Tháng 01, 2020
GIẤC MƠ LÃNH TỤ (10)Tương quan giữa Công giáo và CSVN* Khởi đầu bằng ve vãn, mua chuộc :
Khi tình hình CG miền Bắc đang gặp khó khăn thì vào ngày 1/10/1945, Linh mục Lê Hữu Từ (LHT) được Vatican cử đến nhận chức Giám mục giáo phận Phát Diệm. Nhân ngày tấn phong 29/10/1945 của ông, HCM đã gởi một phái đoàn chính phủ đến tham dự kèm theo một thư chúc mừng như sau :
"Thưa Ngài,
"Mừng Ngài vì cuộc tấn phong này đã chứng tỏ một cách vẻ vang đạo đức của Ngàị
"Mừng đồng bào CG, vì từ nay các bạn đã được một vị lãnh đạo rất xứng đáng.
"Đồng thời mừng cho nước ta vì tôi chắc rằng Ngài sẽ lãnh đạo đồng bào CG noi gương hy sinh của Đức Chúa mà hy sinh phấn đấu để giữ gìn quyền Tự do và Độc lập của nước nhà.
"Kính chúc Ngài được luôn an mạnh " ("Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1973, tr. 44).
Mặc dầu có những lời ve vãn và chúc tụng trên, GM LHT hiểu rằng cần phải chuẩn bị để ứng phó với tình hình mớị Ông cho lập Ủy Ban Quân Chính, Liên Đoàn Công Giáo VN và VN Công giáo Cứu quốc. Phạm Văn Đồng hay tin liền về Phát Diệm một tuần lễ để nghiên cứu, theo dõi và xoa dịu tình hình. Ông Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký nghị định số 52/BNV ngày 6/4/1946 cho phép thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam. Tổ chức này lan rộng mau lẹ trên toàn quốc.
Ngày 25/1/1946, nhân lễ bế mạc tuần tĩnh tâm của giáo phận Phát Diệm, HCM xuất hiện đứng trước đồng bào CG và hô to :"Đức Chúa muôn năm !". Sau đó HCM tuyên bố mời GM LHT làm cố vấn cho chính phủ.
Ngày 24/12/1946, HCM gởi một thông điệp tới đồng bào nhân ngày lễ Giáng sinh bày tỏ sự mong ước nước nhà được tự do và độc lập như sau :
"Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đờị Cả đời người chỉ lo cứu độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng.
"Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữạ Chúng làm trái với lòng bác ái của Đức Giêsu..." ("Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, nxb Sự Thật, 1956, tập I, t. 111).
HCM còn đi xa hơn nữa trong trò ảo thuật ve vãn nàỵ Cuối năm 1947, HCM ra lịnh tiêu thổ kháng chiến, nhưng đồng bào CG Phát Diệm và Bùi Chu không tuân hành. Ngày 20/12/1947, HCM về huyện Nho Quang, tỉnh Ninh Bình và mời GM Lê Hữ Từ đến dùng cơm trưa với ông ta và các Bộ trưởng trong chính phủ. Trong dịp này, HCM đã xin chịu phép rửa tộị GM Lê Hhữu Từ kể lại :
"Cơm xong, họ mời tôi lại cái ghế phản (đi-văng) có đặt sẳn 2 cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện nằm nghỉ trưạ Nằm sát bên ông, ông Hồ nói chuyện rỉ rón thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi và bằng một giọng run run ông nói : "Xin cụ làm Béptêm (rửa tội) cho tôi để tôi cùng làm con Đức Chúa". Nghe thế tôi phải hết sức cầm mình ở bình tĩnh cho khỏi phát cười và nói :"Thật là vô cùng quý giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng, nhưng vì là việc rất can hệ, cần phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự trước, nên để sau sẽ tính" ("Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1973, tr. 160-161).
* Thanh toán (1946-1954) :
Bên ngoài ve vãn như thế, nhưng bên trong HCM đang chuẩn bị để thanh toán, vì HCM biết rằng CG và CS không bao giờ dung hợp được. Sau biến cố đêm 27/6/1946 đã nói ở trên, VM bắt đầu cho công an bắt giữ hoặc bắt cóc những thành phần CG hoạt động tích cực cho các tổ chức CG tại mỗi địa phương.
Trên toàn quốc, có 3 vùng đông giáo dân tập trung được VM chú ý là Nghệ An (137 giáo xứ), Nam Định (117 giáo xứ) và Ninh Bình (32 giáo xứ). Nghệ An thuộc giáo phận Vinh, nằm trong vùng kiểm soát của VM nên không thể võ trang tự vệ được. Các giáo xứ đó chỉ có thể đối kháng thụ động, không cho VM chi phối vào các hoạt động của giáo phận và giáo xứ. Giáo phận Bùi Chu ở Nam Định và giáo phận Phát Diệm ở Ninh Bình nằm trong vùng tranh chấp giữa 2 bên nên HCM tìm cách lôi kéo 2 giáo phận này theo VM. Cả 2 giáo phận này đã phải đối phó một cách khôn khéo để sống còn. Khi không thuyết phục được, HCM ra lịnh tấn công.
Từ tháng 10-12/1946, VM cho mở cuộc hành quân vào một số giáo xứ thuộc giáo phận Phát Diệm gọi là cuộc hành quân "vây bắt côn đồ". Cuộc hành quân này đã bắt đi khoảng 5,000 người cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Những người bị bắt bị đưa về giam ở huyện Nho Quan, đồn điền Ria và sau đó chuyển về trại giam Đầm Đùng ở Thanh Hoá. HCM đã cho phục kích mưu sát "Đức cha cố vấn" (GM Lê Hữu Từ) 3 lần, nhưng ông đã thoát nạn.Trước tình trạng này, 2 giáo xứ trên không còn cách gì khác hơn là lập các tổ chức tự vệ được đặt dưới quyền điều khiển của một Tổng bộ chỉ huy tự vệ Bùi Chu - Phát Diệm.
Phát Diệm thành lập một khu an toàn để bảo vệ giáo dân và các cơ sở của giáo phận. Đa số dân tập trung ở huyện Kim Sơn đều phải trông nhờ vào sự bảo vệ và giúp đở của các tổ chức tự vệ Phát Diệm. Huyện này có 40 xã, 32 giáo xứ, gồm các tổng Hồi Thuần, Quy hậu, Hướng Đạo, Như Tân và Phát Diệm với dân số khoảng 150,000 ngườị Khu An Toàn Phát Diệm được thành lập nằm trong một vị thế địa dư rất thuận lợi cho việc phòng thủ : 3 mặt được bọc bởi 3 con rạch ngăn cách các giáo xứ Phát Ngoại, Phú Vinh Trung và Lưu Phương. Toà Giám mục và Nhà Chung nằm ở giữạ Tính đến tháng 2/1947 đã có khoảng 60,000 người tản cư về vùng Phát Diệm. Riêng thị xã Phát Diệm đã phải chứa khoảng 30,000 ngườị Tại nơi đây các giáo dân đã đùm bọc lấy nhau.
Tổ chức Công Giáo Cứu Quốc trở thành một lực lượng chống cả VM lẫn thực dân Pháp. Họ đã cho người vượt biên để tìm mua vũ khí. 2 giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu cũng đã liên lạc được với Hoà Thượng Thích Tuệ Chiếu ở Thanh Hóa và Thượng Tọa Thích Tâm Châu ở Ninh Bình để thành lập Mặt Trận Liên Tôn chống Cộng.
Pháp đã thuyết phục GM LHT để cho Pháp đem quân đến bảo vệ khu Phát Diệm, nhưng ông từ chốị Ngày 22/11/1947, Pháp cho máy bay đến bắn phá khu Phát Diệm, bắn đạn vào Nhà Chung để uy hiếp tinh thần đồng bào CG. Cùng một lúc, VM cho bộ đội vây các xã Văn hải, Phúc Nhạc và Mưỡu Giáp, bắt di 695 người, trong đó có 13 người bị hành quyết ở núi Cánh Diềụ Bị tấn công từ 2 phía, khu tự vệ Phát Diệm vẫn đứng vững.
Ngày 29/2/1948, Chủ tịch Mặt Trận Việt Minh Tỉnh Bộ Ninh Bình cho triệu tập buổi họp liên tôn để trấn an dư luận về các vụ bắt bớ vừa quạ Ôg nói rằng VM không chủ trương diệt tôn giáo và "có một vài hiểu lầm tại nơi nọ nơi kia là do hạ cấp làm".
Tình trạng căng thẳng kéo dài đến ngày 16/10/1949 thì Pháp bất thần đem quân chiếm Phát Diệm.
Sau này Linh mục Hoàng Quỳnh có viết trên tạp chí Đời Sống ngày 22/12/1953 cho biết rằng trong thời gian chiến đấu chống CS có khoảng 5,000 thanh niên CG bị VM bắt giam ở các trại Đầm Đùng, Yên Lai và Kim Tân.
Bị Pháp phỏng tay trên ở Phát Diệm, VM gặp khó khăn khi mở các cuộc tấn công vào các giáo xứ. VM quay qua tấn công các vùng khác, đặc biệt là trận Phú Ninh ở Bùi Chu vào tháng 11/1949. Bộ đội và công an VM đã bắt hết các thanh niên trong giáo xứ, chiếm nhà thờ và nhà cha xứ. Ngày 19/11/1949, Pháp mở cuộc hành quân đi ngang qua vùng này, dân làng Phú Ninh mới được giải thoát. Từ việc đó ta thấy ngay là chính VM, với bản chất là CS tàn bạo, đội lốt "cac'h mạng", chứ không phải là "yêu dân tộc, đồng bào ruột thịt" đúng nghĩa đã làm cho dân chúng cảm thấy là họ sống an toàn hơn dưới "bàn tay của thực dân". Trong thời gian chống cả VM và Pháp, khu Phát Diệm cũng đã che chở nhiều nhân vật quan trọng giúp họ thoát khỏi sự sát hại của VM như Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Văn Chương.
* Ngăn cản và đàn áp cuộc di cư :
Theo điều 14, đoạn b của Hiệp định Geneva ngày 20/7/1954 thì :
"Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, thì nhà chức trách của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy".
Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21/7/1954, ở đoạn 8 có nói :
"Phải triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở VN tự do lựa chọn vùng mình muốn sống".
Lúc đầu thì CS cho di cư khá dễ dàng. Sự ra đi của người CG Bắc Việt phát xuất từ nguyên nhân sâu xa là họ ý thức rằng không có tự do tôn giáo dưới chế độ CS, do đó họ quyết tâm ra đị Về sau, số người bỏ làng vào Nam ngày càng đông, CS thấy rằng nếu việc này tiếp tục diễn ra có thể làm suy yếu tiềm năng và kinh tế của miền Bắc nên đã dùng nhiều biện pháp dã man để ngăn chặn. Nạn nhân chính dĩ nhiên là đa số người CG Bắc Việt. Sau đây là vài trường hợp điển hình :
- Vụ Ba Làng : khoảng 8,000 giáo dân biểu tình truớc nhà thờ Ba Làng đòi được quyền di cư, đã bị bộ đội và công an CS xả súng bắn thẳng vào làm vô số người chết.
- Vụ Trà Lý : Khoảng 2,000 giáo dân ra một cồn cát ở bờ biển Trà Lý đợi tàu đén đón đị Khi nước thủy triều dâng lên, mọi người bắt đầu xôn xao thì bộ đội ở trong bờ xả súng bắn ra khiến nhiều người bị chết, xác trôi dạt trên sóng. Tiếng kêu cứu vang một vùng. Tàu Le Capricieux và một vài tàu khác trông thấy đã đến cứu dược 1,445 ngườị Khoảng 600 người bị chìm dưới bể.
- Vụ Cửa Lò : Cửa Lò là vùng duyên hải nằm cách Hải Phòng khoảng 300 km, nhưng giáo dân không đi được vì bộ đội và công an canh gác rất kỹ. Nhiều đám cháy được dựng nhiều nơi để đánh lừa bộ đội lo chữa cháy, nhơ đó 1,156 đã đi thoát.
-Những vụ đàn áp từng toán, từng gia đình hay từng cá nhân, có khi nghiêm trọng nhưng không thể kể hết. Sau 30/4/1975, người ta được biết có nhiều nguời Bắc di cư năm 54 đứng ra tổ chức việc ra đi năm đó đã bị công an xử phạt từ 12-20 năm khổ sai.
Kết quả là đã có khoảng 860,206 người di cư vào Nam và được chia ra như sau : Công giáo với 677,389 người, trong đó có 1,041 người theo đạo Tin Lành. Phật giáo với 182,817 ngườị
Cùng với việc ngăn chặn sự ra đi này Phạm Văn Đồng tới gặp GM Trịnh Như Khuê yêu cầu ông viết một bức thơ kêu gọi giáo dân ngưng việc vào Nam, nhưng ông đã từ chối.
Giáo hội Công giáo miền Bắc từ 1954-1975
Sau chuyến di cư 1954, số giáo dân còn lại sau "bức màn tre" chỉ còn khoảng 750,000 người với 254 Linh mục và 7 Giám mục, chia làm 10 giáo phận. Ngoài ra Đức Khâm sứ Tòa Thánh Jean Dooley đã quyết định ở lại với Giáo hội CG miền Bắc.
CS đã ban hành nhiều biện pháp rất tinh vi để khống chế giáo hội nàỵ Trước tiên họ cho ban hành một quy chế tôn giáo để giới hạn hoạt động của giáo hộị Để chuẩn bị dư luận cho việc công bố quy chế này, CS triệu Nguyễn Mạnh Hà, cựu Bộ trưởng trong chính phủ VM, một tín đồ CG, từ Pháp về, đồng thời mời 2 linh mục và 1 giáo hữu Ba-Lan qua Hà Nội để "giải độc" trong giới CG. Phái đoàn Ba-Lan này tuyên bố :"Bên Ba-Lan chúng tôi có 26 triệu dân thì những 26 triệu dân là CG, chúng tôi đến giúp anh chị em VN để theo gương chúng tôi là ký kết một cái gì đó với chính phủ cho dễ thở, không thì sẽ như Giáo hội Trung hoa".
* Sắc lệnh về tôn giáo :
Ngày 14/6/1955, HCM ban hành Sắc lệnh số 234/SL về "Tự do tôn giáo" . Tuy đã chuẩn bị dư luận trước, nhưng khi sắc lệnh này vừa được công bố trên nhật báo Nhân Dân ngày 15/8/55 thì gặp ngay phản ứng mạnh mẽ của giáo hội CG miền Bắc vì các quyền tự do sống đạo và truyền đạo trong khoảng 100 năm nay không còn nữạ Chỉ Linh mục Vũ Xuân Kỹ và một nhóm linh mục ly khai với giáo quyền mới ủng hộ sắc lệnh trên. Sắc lệnh quy định :
- Không được giảng đạo ngoài phạm vi nhà thờ. Cấm nói về tôn giáo trong các hội quán.
- Khi thuyết giảng trong các nhà thờ, giáo sĩ phải giảng về lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, sự phục tùng chính phủ và các đạo luật ban hành, ngay cả các đạo luật bài tôn giáọ
- Cho phép tôn giáo mở trường tư thục, nhưng phải dạy theo chương trình của chính phủ. Chỉ có thể dạy thêm giáo lý cho các học sinh muốn học.
- Các linh mục không được vào bịnh viện, trừ khi chính bịnh nhân xin đích danh.
- Tài sản của GH do nhà nước quản lý. Các giáo sĩ chỉ được cấp một ít đất đai để sinh sống.
Chương trình giáo dục mà chính phủ bắt phải theo bao gồm cả môn học về chủ nghĩa Mác-Lênin và các bài cổ võ chủ nghĩa vô thần và bài xích tôn giáọ
Cũng trong khoản đầu năm 1955, CS cho tổ chức đại hội các người CG "yêu tổ quốc và hòa bình" tại Hà Nội và ép buộc 16 linh mục từ các địa phận về tham dư.. Đại hội còn gởi thư cho Đức Giáo hoàng xin thẳng tay trừng trị "bọn lợi dụng tôn giáo để phục vụ đế quốc". Các hội nghị tương tợ cũng đã được tổ chức tại Hà Đông, Sơn Tây và Nam Đi.nh.
Riêng tại Hà Nội, CS mời hàng giáo phẩm tới thảo luận về sắc lệnh tôn giáọ Trong hội nghị này cùng có sự tham dự của ông Ngô Từ Hạ và một số giáo dân "cấp tiến" khác. Tuy nhiên hàng giáo phẩm tới tham dự đã không lên tiếng ủng hộ sắc lệnh, cũng không chịu đi biểu tình và kéo chuông như CS dự trù.
Nhóm CG "cấp tiến" trên do CS thành lập dưới danh hiệu "CG yêu tổ quốc, yêu hòa bình" với thâm ý dùng phong trào này để thôn tính CG; nhóm này do Ngô Từ Hạ và Linh mục Vũ Xuân Kỹ cầm đầụ Chính nhóm này đã tổ chức những cuộc tiếp đón phái đoàn CG quốc doanh Tiệp Khắc qua thăm GH miền Bắc do ông Rostielo Petra cầm đầụ Petra nói rằng khi người CG thực hiện các kế hoạch của nhà nước và Mặt Trận Tổ Quốc, chính là thực hiện "lý tưởng Công giáo". GM Trịnh Như Khuê không cho phép các linh mục trong phái đoàn này làm lễ cho giáo dân mà chỉ cho phép làm lễ riêng ở nhà thờ Cửa Bắc. Thái độ này làm CS tức giận. Vào dịp lễ Giáng sinh kế đó, CS bắt các nhà thờ đọc thông điệp của HCM nguyền rủa đế quốc.
* Thành lập tổ chức CG quốc doanh :
Giáo sĩ đầu tiên của CG đã tham chính trong chính quyền CS là Linh mục Nguyễn Bá Trực. Ông thuộc giáo phận Hà Nội và là một trong 3 linh mục VN đầu tiên được đưa qua La Mã và Pháp học lấy bằng Tiến sĩ.
Linh mục Trực tham gia kháng chiến từ 1945, được chọn làm đại biểu Quốc hộị Khi Pháp chiếm Bắc Việt, ông theo VM vào chiến khu và được cử làm Quốc vụ khanh của chính phủ HCM, có nhiệm vụ liên lạc giữa chính phủ và CG. Ông đã nhiều lần được HCM giao cho nhiệm vụ tiếp xúc với GM Lê Hữu Từ ở Phát Diệm để giải quyết những vấn đề liên hệ đến khu tự trị nàỵ Nhưng ông không đủ uy thế để thương lượng nên nhiều lần HCM phải đích thân dến.
Sau linh mục Trực còn có 2 linh mục nổi tiếng khác đã cộng tác với CS, đó là linh mục Vũ Xuân Kỹ và Nguyễn Thế Vịnh. LM Vịnh sinh năm 1909 ở xứ Văn Hải, Phát Diệm, chịu chức LM năm 1936. Đầu tiên ông được bổ nhiệm coi sóc giáo xứ Hướng Đạo, rồi đến Phương Thượng và Quảng Phúc thuộc giáo phận Phát Diệm. Năm 1947, khi VM rút vào chiến khu, ông đã đi theo tham gia kháng chiến chống Pháp.
Ông được HCM giao cho việc phụ trách công tác Công giáo vận ở trong cũng như ngoài nước.
Sau khi chiếm được miền Bắc, HCM cũng muốn biến GHCG miền Bắc thành một GHCG Tự Trị như ở Trung Cộng, nhưng sau nhiêu lần thăm dò, HCM thấy rằng miền Bắc vẫn còn có Khâm sứ Tòa thánh, 7 Giám mục, 254 linh mục và 750,000 giáo dân.
Đa số giáo dân ở vào những khu tập trung, được tổ chức rất chặt chẽ, có tinh thần chống Cộng mạnh nên việc đối phó không dễ dàng như Phật giáọ Kinh nghiệm của khu tự trị Phát Diệm trong thời kỳ kháng chiến bắt buộc HCM quyết định chỉ lập một tổ chức song hành để quấy phá GHCG tại đâỵ
Vào đầu năm 1955, Mặt Trận Tổ Quốc, hậu thân của Mặt Trận Liên Việt, đã quyết định cho triệu tập một Đại hội Đại biểu Công giáo vào ngày 11/3/1955 tại Hà Nội để thành lập môt tổ chức liên kết người CG miền Bắc. Các đại biểu tham dự đại hội do Mặt Trận Tổ Quốc quyết định.
Các LM Nguyễn bá Trực, Nguyễn thế Vịnh, Vũ Xuân Kỹ, Hồ Thành Biên (miền Nam tập kết) và ông Ngô Tử Hạ đã vận động tích cực cho việc tổ chức Đại hộị Sau 2 ngày thảo luận, Đại hội đã quyết định thành lập "Ủy ban liên lạc Công giáo yêu tổ quốc và hòa bình" và bầu LM quốc doanh Vũ Xuân Kỹ làm Chủ tịch, LM Hồ Thành Biên làm Phó chủ tịch. 3 LM quốc doanh khác làm Ủy viên trung ương của Ủy ban. Nhiệm vu chính của Ủy ban là hô hào giáo dân tham gia tích cực vào việc thực hiện các kế hoạch của chính phủ. Tuy được nhà nước yểm trợ nhưng ủy ban này không làm được trò trống gì cả vì bị giáo dân tẩy chay.
Sau khi lập xong tổ chức CG quốc doanh nói trên, CS coi các GM miền Bắc như không có nữa, họ tiếp xúc thẳng với từng LM và kết hợp hoạt động qua Ủy ban Liên lạc CG. Năm 1960, LM Phạm Hân Quynh đã lên tiếng chỉ trích các hành động chia rẽ này của CS và ông đã bị công an cho đi cải tạo và quản thúcsuốt 30 năm.
* Xiết chặt vòng kiểm soát :
Cũng trong năm 1955, CS cho triệu tập một Hội nghị CG Toàn quốc thứ hai tại Hà Nội, trong đó có 16 LM bị chỉ định phải đến tham dư.. Trong hội nghị này, Mặt Trân Tổ Quốc đã đưa thỉnh nguyện thư gởi Đức Giáo Hoàng yêu cầu"trừng trị bọn lợi dụng tôn giáo để phục vụ đế quốc". Thỉnh nguyện thư này mở màng cho việc đàn áp các giáo sĩ và giáo dân có tư tưởng đối kháng với chính sách tôn giáo của CS và bị họ lên án là "tay sai đế quốc".
Trước tiên, CS hạn chế sự di chuyển của LM nên những giáo xứ không có LM thường không có nghi lễ tôn giáo cho giáo dân. Giáo dân nào muốn dự thánh lễ phải đi rất xa, có khi phải nghĩ lại đêm. Các giáo xứ ở Quảng Yên, Hòn Gay và Cẩm Phả có khoảng 40,000 giáo dân nhưng không có LM nàọ Suốt năm này qua năm khác, giáo dân không được dự thánh lễ, kể cả các ngày lễ lớn như lễ Giáng sinh hay Phục sinh.
Tại những nơi có LM, CS cố tình sắp xếp các giờ lao động hay hội họp trùng với các giờ kinh hay giờ lễ để giáo dân không tham dự được.
Năm 1956, CS bắt đầu trục xuất dần các LM thừa sai ngoại quốc. Sau 1954, có khoảng 20 LM thừa sai đã tình nguyện ở lại với giáo dân miền Bắc. Số LM này lần lược bị gọi đến và ra lệnh phải rời VN. Đầu năm 1959, Đức Khâm sứ Jean Dooley đang đau nặng, cũng đã bị trục xuất qua ngã Nam Vang. Đến năm 1960, việc trục xuất các linh mục thừa sai coi như hoàn tất. Sự thiếu thốn LM trở nên trầm trọng.
Đến giai đoạn hai, CS bắt đầu thanh toán các trường tư CG. Bỗng dưng các học sinh không CG từ các vùng kế cận đến ghi tên học trường CG rất đông. Nhiều trường rất mừng khi thấy hiện tượng này, không ngờ đó là âm mưu của CS. Sau khi dồn được một số đông học sinh không CG vào các trường này, công an hướng dẫn cho những học sinh này đứng ra tố cáo LM hiệu trưởng và gây hỗn loạn. CS lấy lý do ổn định học đường, đã đứng ra quản lý trường CG. Vụ gay cấn nhất là vụ trường Dũng Lạc ở Hà Nội do LM Nguyễn Văn Vinh làm hiệu trưởng. Khi CS tuyên bố quản lý trường này, ông đã gởi một văn thư phản đối đi khắp nơị Sau vụ này, LM Vinh bị đưa di học tập cải tạo ở trại Quyết Tiến (còn gọi là trại Cổng Trời) thuộc Hoàng Liên Sơn, sát biên giới Trung Quốc và ông đã chết tại đây.
Xong vụ trường tư CG, CS từ từ chiếm đoạt các tài sản của giáo hội CG, kể cả nhà thờ. Một giáo dân già đã kể lại rằng khi muốn lấy nhà thờ của giáo xứ ông, CS đã cho làm cạnh nhà thờ một kho lúa lợp sơ sàị Một hôm trời mưa to gió lớn, mái kho lúa bị trốc, CS xin cha xứ cho họ tạm gởi lúa vào phần nữa dưới nhà thờ trong khi chờ đợi sửa kho luá lại. LM chánh xứ đã đánh chuông kêu giáo dân tới giúp đưa lúa vào nhà thờ. Nhưng khi đưa lúa vào nhà thờ xong, bọn cán bộ đã cho chận phân nữa nhà thờ làm luôn kho lúa và dẹp kho lúa của ho.. Bằng những thủ đoạn tinh vi tương tự, CS miền Bắc cướp dần các tài sản còn lại của giáo hội này.
Sau khi tước đoạt tài sản xong, CS tiến tới việc phân tán các giáo xứ dông đảo, bằng cách buộc họ đi xây dựng các nông trường tập thể. Thời gian ở nông trường kéo dài năm này qua năm khác khiến giáo dân phải xin làm nhà tại nông trường và đưa gia đình tới ở luôn. Đặc biệt, CS chú ý tới thành phần ưu tú trong giáo xứ, họ tìm mọi cách để đưa các thành phần này ra khỏi giáo xứ, kể cả cho những "công ăn việc làm tốt" để gài bẫy và làm áp lực để nạn nhân phải di chuyển nơi khác.
* Quỳnh Lưu (Nghệ An) nổi dậy :
Trong thời gian Pháp chiếm đóng VN, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nằm trong vùng VM kiểm soát nên các giáo xứ thuộc các tỉnh này bị kềm kẹp gắt gaọ Sau hiệp định Geneva, giáo dân các giáo xứ trong vùng CS kiểm soát không thể di cư được. Bị xiết chặt quá lâu, lợi dụng CS tung ra "nghị quyết sửa sai" trong đợt "Cải cách ruộng đất", vào đầu năm 1956, giáo dân thuộc các xã Vạn Kim, Quang Trung, Minh Châu, Tân Nho, Diễn Tân, Diễn Đức, Diện Đông, Diện Nguyên, Yên Trung, Đức Vinh, Hồng Thăng và Đại Gia ở Nghệ An đã mở hội nghị tỏ bày bao nỗi uât ức và phẫn nộ của họ ròng rã trong 10 năm trường. Đại hội đã đưa ra 4 yêu sách sau đây :
- Trả lại tất cả các linh mục đang bị bắt bớ giam cầm.
- Trả lại xác các linh mục đã bị hành quyết hoặc thủ tiêu.
- Trả lại các tài sản của giáo phận, giáo xứ bị xung công hay tịch thu.
- Đền bù xứng đáng danh dự của các giáo sĩ đã bị nhục mạ hay bị vu khống.
Kiến nghị này được thành lập 5 bản gởi cho Vatican, HCM, Ủy hội Kiểm soát Đình Chiến và Chính quyền miền Nam.
Đến ngày 9/11/1956, khi hay tin Ủy hội Kiểm soát Đình chiến sắp đi qua Cầu Giát, hàng ngàn giáo dân kéo ra nằm ở trên quốc lộ 1, đưa hàng bao bố đơn thỉnh nguyện xin được di cự Sau đó, họ tập trung tại làng Cẩm Trường mở hội nghi.. Bộ đội và công an kéo đến giải tán, 2 bên xô xát nhau, chết khá nhiều.
Sáng ngày 13/11/1956, giáo dân thành lập những toán nghĩa quân võ trang tập họp tại Quỳnh Lưu, kéo đi biểu tình biểu dương lực lươ.ng. Khoảng 3,000 thanh niên ở Ba Làng, Do Xuyên và Nông Cống ở Thanh Hóa bí mật kéo vào yểm trơ.. Thanh niên các vùng khác cũng kéo tới cứu viện. Trước tình thế này, HCM ra lịnh cho Văn Tiến Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh Hoá, Phủ Quỳ và Đồng Hới vây đánh, và Quỳnh Lưu ngập chìm trong máu lửạ Nghĩa quân không kháng cự nổi phải chạy vào rừng. Bộ đội tiến vào làng bắt cả đàn bà và trẻ con dẫn đi để tra khảo từng người xem ai chủ xướng vụ nổi loạn nàỵ Các linh mục Hậu và Đôn thuộc xứ Cẩm Trường và Song Ngọc bị đưa về giam tại Hà Nộị.Tính đến năm 1960, ở Bắc Việt chỉ có 300 linh mục, nhưng họ phải chăm sóc cho khoảng 750,000 giáo dân. Tính trung bình, mỗi linh mục phải trông coi 1200 giáo dân tại địa phận Vinh, 7000 tại địa phận Hải Phòng, 6000 tại Bùi Chu và 10000 tại Thanh Hoá.
* Giáo hội "thầm lặng" :
Tuy CS đã áp dụng nhiều biện pháp tinh vi để vô hiệu hóa các sinh hoạt của GHCG và làm tiêu hao dần giới tu sĩ và hang giáo phẩm, nhưng không thể xóa bỏ các tổ chức của giáo hội này dược, CS chỉ lập được "Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước" cho hoạt động song song mà thôi.
Tuy nhiên do chính sách làm tiêu hao GHCG, trong vòng 20 năm, CS đã làm sụt giảm số tu sĩ và giáo sĩ xuống thấp tới mức độ báo dộng : tổng số linh mục ở miền Bắc là 277 vị, gồm cả 30 LM được phong "chui", không bằng số LM của giáo phận Saigon gồm trên 300 vi.. Thí dụ : Tổng giáo phận Hà Nội có 300,000 giáo dân nhưng chỉ có 25 LM, Hải Phòng có 150,000 giáo dân chỉ có 16 LM trong đó có 7 vị trên 60 tuổi, Bắc Ninh có 100,000 giáo dân với 46 giáo xứ chỉ có 5 linh mục và 12 nữ tụ, Phát Diệm có 112,000 giáo dân chỉ có 22 LM, Bùi Chu có 300,000 giáo dân chỉ có 27 LM và 21 LM "chui" chưa được CS công nhận.
Nhà cầm quyền CS hy vọng rằng trong vòng 15 hay 20 năm nữa khi số giáo sĩ già nua đã qua đời, giáo dân lúc đó như rắn mất đầu, giáo hội này đương nhiên sẽ tan rã.
Thời kỳ căng thẳng nhất của GHCG miền Bắc là giai đoạn từ 1970-1975. Năm 1970, khi Quân đội VNCH mở cuộc hành quân qua Cambodia, nhà cầm quyên CS miền Bắc sợ Quân đội VNCH có thể bất thần tấn công miền Bắc nên đã một mặt ra lịnh cho công an đưa đi cải tạo gần hết các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh dạo, mặt khác họ đột nhiên khuyến khích và lại còn cung cấp phương tiện cho các giáo xứ tổ chức các nghi lễ tôn giáo linh đình.
Tóm lại, thái độ của GHCG miền Bắc cũng như giáo dân tronggiai đoạn này, ngoài cuộc tranh đấu mãnh liệt của đồng bào Quỳnh Lưu, là âm thầm chống đối bằng cách không hợp tác và âm thầm chịu đựng.
Thời kỳ chiếm được miền Nam
Sau khi chiếm được miền Nam vào ngày 30/4/1975, CS Hà Nội đem ngay chính sách tôn giáo đã từng thi hành tại miền Bắc từ 1954-1975 vào áp dụng cho miền Nam. Có thể chia thời kỳ này làm 2 giai doạn : 1975-1989 và 1989 cho tới nay.
* Giai đoạn 1975-1989 : 10 năm đầu (1975-1985) được CS gọi là giai đoạn "chuẩn bị tiến lên XHCN" và 4 năm sau (1985-1989), CS gọi là giai đoạn "tiến lên XHCN" hay giai đoạn "cải tạo".
a) Giai đoạn "chuẩn bị tiến lên XHCN". Trong giai đoạn này, CS chủ trương thanh toán ngay 3 thành phần sau đây : các phần tử đại điền chủ, tư sản mại bản và các tôn giáo; tịch thu tất cả tài sản của 3 thành phần này và trao cho "nhân dân làm chủ", "nhà nước quản lý" thực tế là biến thành cơ sở quốc doanh.
Đại cương kế hoạch đánh phá các tôn giáo được tóm lược như sau :
- Bắt bớ hoặc cô lập hóa các lãnh tụ tôn giáo và các tu sĩ có uy tín, khả năng, có ảnh hưởng lớn với tín đồ.
- Đóng cửa hoặc tịch thu các trụ sở, các cơ sở văn hóa, xã hội, y tế, tài sản của các giáo hộị
- Lập các giáo hội quốc doanh hoặc các Ủy ban Yêu nước bên cạnh các tôn giáo và dành cho những giáo hội hay Ủy ban này nhiều đặc ân, đặc quyền, với mục đích kiểm soát, lũng đoạn các tôn giáo.
- Lập các mạng lưới công an chuyên theo dõi các hoạt động tôn giáo, gài người vào các tôn giáo để báo cáo các hoạt động của các giáo hội hoặc rỉ tai, gây phân hóa, nghi kỵ trong nội bô..
0 comments:
Post a Comment