00110 TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ
LGT: "THẾ GIỚI ĐANG ĐỐI MẶT VỚI TRẬN TẤN CÔNG LỚN NHẤT VÀO SỰ THẬT KỂ TỪ NHỮNG NĂM 1930"! Đó là lời thú nhận chân thành của ông Lord Tony Hall, Tổng giám đốc Đài BBC Luân Đôn, cơ quan truyền thông lâu đời nhất thế giới đã phải cay đắng thừa nhận!!!
Một trong những sự thật kinh hoàng trong giai đoạn lịch sử cận đại của nước Việt Nam chúng ta đã bị bè lũ "mượn đạo tạo đời" Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất Khối Ấn Quang bóp méo, tuyên truyền và ngày đêm tung lên mạng xã hội những nhân chứng dổm, những chứng cớ ngụy tạo để bôi nhọ Chính Thể Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo anh minh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhằm CHẠY TỘI cho tội ác trời không tha, đất không dung của chúng đối với Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam.
Vì thế TRẢ LẠI SỰ THẬT cho lịch sử là một thúc bách lớn đối với website Chính Khí Việt Net! Cho nên tất cả những gì được trưng bày ở đây bằng hình ảnh, bằng những bài viết của rất nhiều nhân chứng sống thời kỳ 1954 -1963, dựa trên những sự thật không thể chối cãi của lịch sử sẽ là những tài liệu đúng đắn nhất nhằm đánh tan những luận điệu tuyên truyền của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nói chung và của băng đảng tập đoàn Ma Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, hậu thân Phật Giáo Ấn Quang nói riêng đã, đang tìm đủ mọi cách để bôi nhọ và xuyên tạc rằng chúng "đấu tranh" cho cái chúng gọi là Phật Giáo của chúng bị bách hại!!!???
Tài liệu dưới đây là quá trình tìm hiểu, thu thập, tổng hợp và nhận định của Chính Khí Việt, bút danh của anh Joseph L. Phạm trong hai thập niên qua đã được đăng trên các diễn đàn yahoogroups, facebook, các website của người Quốc Gia Tỵ Nạn VGCS....
Chúng tôi xin chân thành giới thiệu đến độc giả trong và ngoài nước với mong ước Sự Thật Của Lịch Sử không bị mai một, không bị bóp méo, không bị tuyên truyền và xuyên tạc trong âm mưu bôi bẩn những vị lãnh đạo và Quân - Cán - Chính Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn Lịch Sử 1954 - 1963!!!
Minh Thư Nguyễn
Ngày 01 Tháng 01, 2020
Giấc mơ lãnh tụ (1)
Hoạt động chính trị của TT Thích Trí Quang
[Theo "Lịch sử Tranh Đấu Phật Giáo Việt Nam", Tập 1, của Kiêm Đạt, trang 172, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản năm 1981 :Thương Tọa TTQ là đệ tử của Hòa Thượng Trí Độ, một trong những nhà lãnh đạo Phật Giáo 1966 ở miền Bắc. Thượng Tọa Thích Trí Quang có 3 anh em : Thích Diệu Minh, thành viên trong Mặt Trận Tổ Quốc của CS tại Quảng Bình năm 1947, hiện đang nắm chức vụ quan trọng tại Hà Nội; Phạm Chánh, một trong những lãnh tụ kháng chiến vào 4/6/1947; Phạm Đại, y tá trong quân đội Việt Minh từ 1947].
Thượng Tọa Thích Trí Quang xuất gia từ hồi còn nhỏ, đệ tử của hòa thượng Thích Trí Độ, một vị chân tu nổi danh ở Huế. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Thượng Tọa Thích Trí Quang ở lại Huế nhưng vẫn liên lạc giúp đỡ các cán bộ kháng chiến.
Đất nước chia đôi sau hiệp định Geneva, Hoà Thượng Thích Trí Độ ra Bắc tập kết theo CS. Thượng Tọa Thích Trí Quang ở lại Huế đọc sách, đánh cờ tướng.
Mùa Phật Đản năm 1963, vụ hạ cờ Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, Thương Tọa TTQ và Thượng Tọa Thích Thiện Minh lãnh đạo phong trào tranh đấu của Phật Giáo đòi "Tự Do Tín Ngưỡng".
[Theo "Lịch sử Tranh Đấu Phật Giáo Việt Nam", Tập 1, của Kiêm Đạt, trang 172, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản năm 1981 :Thương Tọa TTQ là đệ tử của Hòa Thượng Trí Độ, một trong những nhà lãnh đạo Phật Giáo 1966 ở miền Bắc. Thượng Tọa Thích Trí Quang có 3 anh em : Thích Diệu Minh, thành viên trong Mặt Trận Tổ Quốc của CS tại Quảng Bình năm 1947, hiện đang nắm chức vụ quan trọng tại Hà Nội; Phạm Chánh, một trong những lãnh tụ kháng chiến vào 4/6/1947; Phạm Đại, y tá trong quân đội Việt Minh từ 1947].
Thượng Tọa Thích Trí Quang xuất gia từ hồi còn nhỏ, đệ tử của hòa thượng Thích Trí Độ, một vị chân tu nổi danh ở Huế. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Thượng Tọa Thích Trí Quang ở lại Huế nhưng vẫn liên lạc giúp đỡ các cán bộ kháng chiến.
Đất nước chia đôi sau hiệp định Geneva, Hoà Thượng Thích Trí Độ ra Bắc tập kết theo CS. Thượng Tọa Thích Trí Quang ở lại Huế đọc sách, đánh cờ tướng.
Mùa Phật Đản năm 1963, vụ hạ cờ Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, Thương Tọa TTQ và Thượng Tọa Thích Thiện Minh lãnh đạo phong trào tranh đấu của Phật Giáo đòi "Tự Do Tín Ngưỡng".
Tại Saigon, Thượng Tọa Thích Tâm Châu được suy cử làm chủ tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. Cuộc tranh đấu ở Saigon bùng nổ mãnh liệt. Thượng Tọa Thích Trí Quang cùng Thượng Tọa Thiện Minh rước Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết vào Saigon với mục đích nắm giữ vai trò đấu tranh ở Trung Ương.
Khi chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chấp thuận thương thuyết với khối Phật Giáo, một cuộc họp ở chùa Xá-Lợi dưới quyền chủ tọa của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, có Thượng Tọa Thích Trí Quang phụ tá. Thượng Tọa Thích Trí Quang đã đưa ra thành phần của phái đoàn Phật Giáo do Thượng Tọa Thiện Minh làm Chủ tịch, gồm các đại diện của Đại Diện Phật Giáo miền Trung là cốt cán gồm TT Thiện Minh, TT Huyền Quang; Phật Giáo miền Bắc có Thượng Tọa Tâm Châu, Đại Đức Đức Nghiệp; Phật Giáo miền Nam có TT Thích Thiện Hoa.

HT. Thích Đức Nghiệp và HT. Thích Trí Quảng chứng minh
Thành phần phái đoàn thương thuyết với chính quyền đã cho thấy Phật Giáo chịu sự lãnh đạo của các vị Tăng miền Trung, nơi phát xuất cuộc tranh đấu chống chính quyền. Ngày 20/8/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm vây chùa bắt Tăng Ni và Phật Tử tranh đấu, Thương Tọa Trí Quang trốn vào Toà Đại Sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi xin tị nạn chính trị, được ông Cabot Lodge, Đại sứ Mỹ ở Saigon chấp thuận.

Henry Cabot Lodge in Vietnam
Sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, trở về chùa Xá Lợi, Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đuợc thành lập gồm 2 viện : Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạọ Thượng Tọa Thích Trí Quang được cử làm Chánh Thư Ký viện Tăng Thống. Thượng Tọa Thích Tâm Châu được đề cử làm viện trưởng Viện Hóa Đạo.
Hồi nầy, khối Phật Giáo được coi là khối mạnh nhất, chính quyền rất nể vì. Khi cuộc chỉnh lý của Nguyễn Khánh bắt giam các tướng đảo chánh ông Diệm là Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính xảy ra thì khối Phật Giáo im lặng, không một phản ứng. Nguyễn Khánh làm thủ tướng. Khối Phật Giáo tham gia chính quyền với Trần Quang Thuận (một nhà sư Pháp danh Thích Trí Không phá giới lập gia đình) làm Bộ Trưởng Xã Hội, giáo sư Bùi Tường Huân làm Tổng Trưởng Văn Hóa Giáo Dục.
TS Trần Quang Thuận, (HK)

Tổng trưởng Bùi Tường Huân,

Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu chỉ định ông Trần Văn Hương, Đô Trưởng Saigon làm Thủ Tướng. Nội các của ông Hương bị Phật Giáo tẩy chaỵ Cuộc tranh đấu Phật Giáo bùng nổ. Tại Việt Nam Quốc Tự, Thượng Tọa Tâm Châu, Thượng Tọa Thích Trí Quang, Đại Đức Hộ Giác tuyệt thực phản đối cuộc đàn áp của chính quyền Trần Văn Hương.
Ông Trần Văn Hương bị Nguyễn Khánh lật đổ đưa ra Vũng Tàu cô lập. Một số nhân vật trong Thượng Hội Đồng như ông Trần Văn Văn, Bác sĩ Lê Khắc Quyến cũng bị cô lập. Hồi nầy, tại các tỉnh miền Trung, nhóm Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Tôn Thất Hạnh, v.v...thành lập Ủy Ban Cứu Quốc dưới danh nghĩa diệt Cần Lao, đã gây mâu thuẫn nặng nề với Thiên Chúa Giáo qua những cuộc khủng bố trắng ở Thanh Bồ, Đà Nẵng, cũng như ở một vài nơi khác. Nhóm Cứu Quốc nầy đặt dưới sự lãnh đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang đã tạo ra một luồng dư luận cho rằng nhóm nầy là cán bộ nằm vùng của CS, hoạt động theo phương thức đấu tranh của CS.
Vì Ủy Ban Cứu Quốc nầy, mâu thuẫn xảy ra trong hàng ngũ lãnh đạo; khối Phật Giáo rạn nứt mạnh mẽ. Sự thật, ngay khi thành lập Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã có sự chia rẽ. Cụ Mai Thọ Truyền, Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt, một nhân sĩ uy tín ở miền Nam đã góp công không ít trong cuộc tranh đấu của PG dưới thời cố TT Ngô Đình Diệm, đã nhìn rõ âm mưu của Thương Tọa Thích Trí Quang và Thượng Tọa Thích Thiện Minh định thao túng khối Phật Giáo để hoạt động chính trị, nên cụ Mai Thọ Truyền tách Hội Phật Học Nam Việt ra khỏi Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Giấc mơ lãnh tụ (2)
1. Thượng Tọa Thích Trí Quang :
Thượng tọa Thích Trí Quang tên thật là Phạm Quang, sinh năm 1922 tại làng Diêm Điền (còn được gọi là Nại Hiên hay làng Kẻ Nại) ở phía Tây ngoại ô thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Đây là một làng nổi tiếng có nhiều người hoạt động cho VC. Các cán bộ CS của làng này cũng thuộc vào loại quá khích và sắt máụ Mặt khác, vào năm 1885, khi Phong trào Văn Thân nổi lên, chính dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đình đã tiến vào đốt nhà thờ Sáo Bùn của công giáo ở phía Nam thành phố Đồng Hới, thiêu sống luôn mấy trăm giáo dân ở đó. Số giáo dân còn sống sót phải bỏ làng chạy về phía Bắc thành phố Đồng Hới và về sau lập một giáo xứ mới tại đây lấy tên là giáo xứ Tam Tòạ Sự thù ghét công giáo của dân làng Diêm Điền đã in sâu vào tâm trí của TT Trí Quang từ lúc ông còn niên thiếu.
Dân làng Diêm Điền chứa chấp du kích VC. Trong thời gian Pháp chiếm đóng Đồng Hới, từ 1947-1954, ít ai dám đi sâu vào làng Diêm Điền, mặc dù làng này ở sát phía Tây thành phố và bên làng có đồn của Quân đội Quốc gia VN trấn đóng.
Gia đình ông có 4 anh chị em : Phạm Quang, Phạm Minh, Phạm Chánh và Phạm Đại. Mấy người em của ông chỉ học tới sơ học (lớp 3), đã gia nhập bộ đội Việt Minh từ năm 1946. Phạm Chánh có cấp bậc Trung Sĩ, chỉ huy một tiểu đội du kích của VC, đã bị Pháp bắn chết ở Đức Phổ, phía Tây Đồng Hới vào ngày 4/6/1947 khi mới 21 tuổi. Đây là người mà vài sử gia PG gọi là "một trong những lãnh tụ kháng chiến".
Phạm Đại là một y tá bộ đội, đã ở lại miền Bắc sau Hiệp định Genevạ Sau khi Phạm Chánh qua đời, vợ của Phạm Chánh từ chiến khu trở về xin cấp giấy phép hồi cư để phụng dưỡng bố mẹ chồng ở Diêm Điền. Thiếu úy Huỳnh Công Tịnh, Trưởng phòng 2 của Trung đoàn Nguyễn Huệ đóng ở Đồng Hới, đã cứu xét đơn, bắt cô ta làm tờ cam kết không tiếp tục hoạt động cho Việt Minh, rồi cấp giấy phép cho hồi cư, nhưng thông báo cho Trưởng đồn Diêm Điền biết và ra lệnh phải theo dõi vì đây là một thành phần nguy hiểm. Vợ của Phạm Chánh là một cô gái có nhan sắc, mới về nhà cha mẹ chồng được 2 tuần thì đã lân la đến khu đồn Diêm Điền đùa cợt và ít lâu sau cô đã bắt bồ được với Trưởng đồn. Thấy hành vi của cô khả nghi như hỏi về tình trạng của đồn, theo dõi các cuộc hành quân nên các đơn vị ở đây đã tương kế tựu kế. Vợ Phạm Chánh đã làm nội gián và cô ta đã bị giết khi tìm cách ngủ với Trưởng đồn ngay trong đêm VC tấn công vào đồn này.
Trong cuốn "The Lost Revolution" (nxb. Harper and Row, 1965), Robert Shaplen có ghi lại rằng khoảng tháng 5/1964, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, người em thứ hai của TT Trí Quang là Thích Diệu Minh, một Ủy viên của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình, đã cùng với một cán bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lén vào chùa Từ Đàm thăm ông. Nhưng thực ra Phạm Minh không có đi tu, có lẽ khi vào tới Huế, Phạm Minh đã mặc áo cà sa và lấy tên là Thích Diệu Minh để dễ trà trộn.
Dân làng Diêm Điền chuyên về nghề mộc, làm ruộng và đi làm mướn, không có thành phần khoa bảng, ít ai học hết tiểu học. Giọng của dân làng này hơi ngọng, TT Trí Quang cũng có giọng đó nên ông đã gặp nhiều khó khăn khi nói trước quần chúng. Ông đã cố gắng luyện giọng lại nhưng không như ý muốn. Năm 1954, khi Hiệp định Geneva được ký kết, mặc dù ở ngay ngoại ô thành phố Đồng Hới, có thể di cư vào nam dễ dàng, nhưng đa số dân làng này đã ở lại với VC.
Như đa số các tăng sĩ thời đó, học vấn của TT Trí Quang chỉ có hạn. Về Hán học, ông học với các sư, chứ không học với các nhà Nho. Hán học của ông do đó là Hán học của nhà Phật, không phải Hán học của nhà Nho. Loại Hán học này chỉ hướng vào việc tìm hiểu kinh Phật, nên kiến thức tổng quát của ông không nhiều. Về Tây học, ông chưa học hết Trung học Đệ nhất cấp.. Thời của ông, đậu diplôme (trung học đệ nhất cấp) không phải là chuyện dễ dàng. Có thể ông chỉ học hết tiểu học (Primaire), vì ở Đồng Hới cho tới năm 1945 chỉ có trường Tiểu học. Khi vào Huế, ông đã học thêm Hán học và Phật học, chứ không học thêm ở một trường Tây nào. Về Phật học, ông tốt nghiệp Trường An Nam Phật Học ở Huế năm 1943. Nghe ông thuyết pháp và đọc 2 tác phẩm của ông là "Cuốn sách nhỏ của người xuất gia" và "Cuốn sách nhỏ của người tại gia", người ta có thể thấy là kiến thức của ông không nhiều và không sâu sắc. Trong bài "Địa vị và nhiệm vụ hộ pháp của người Phật tử tại gia", ông viết :
"Cái thành kiến quái gở cho rằng "tôi phải hy sinh sự tư lợi của tôi cho sự lợi tha" cũng sẽ phải tan rã vì nguyên tắc này, bởi vì không có sự lợi tha nào đúng nghĩa từ ngữ áy mà thiếu tự lợi tức sự áp dụng Phật pháp trước hết, hay đối lạị cũng chẳng có một sự tự lợi nào đúng nghĩa của danh từ ấy mà không vì mục đích lợi tha tức vì lợi ích chung mà áp dụng Phật pháp.
"Thật là một lỗi lầm đáng khinh bỉ khi một người đã sống trong Phật pháp vô thượng mà không thẳng thắn bộc lộ rạ Họ bảo như thế để moi người thấy mình không cố chấp tín ngưỡng của mình, nhưng họ có biết đâu rằng cố chấp là một việc mà thành thật là một việc khác. Không thành thực bộc lộ tư cách Phật tử của mình thì làm sao cảm hóa người được. Họ còn đi hợp tác với ngoại đạo tà ma. Họ bảo để tỏ tư cách quảng đại của Phật tử, nhưng lời ấy chỉ là che đậy những lý do lấy Đạo làm bàn đạp cho lợi lộc cá nhân của mình mà thôi, chứ Phật tử sao đi hợp tác với ngoại đạo ?"
Ông cũng có dịch một số kinh Phật bằng chữ Hán ra chữ Việt. Khi VC cướp chính quyền năm 1945, ông gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Trong cuốn No More Vietnam, Nixon cho biết là ông đã bị Pháp bắt 2 lần trước năm 1954 vì hoạt động cho Việt Minh. TT Trí Quang không hề dấu diếm mục tiêu của ông khi ông tuyên bố Giáo hội Phật giáo thích hợp với chế độ CS (He was a disciple of Thich-Tri Đo, the leader of the Communist dominated Budhist Church in North Vietnam, and had once said that Budhism was entirely compatible with communism).
Sau khi có lệnh của Việt Minh phải tản cư khỏi Huế vào cuối năm 1946, ông đã về lại Diêm Điền ở Đồng Hới, nơi quê quán của ông, nghỉ lại đây một thời gian ngắn rồi cùng Thích Mật Thể đi ra Vinh. Ông ở Vinh mấy tháng lại quay về Đồng Hới và giữ chức Chủ tịch Ủy ban Phật giáo Cứu quốc Quảng Bình. Năm 1947, Pháp chiếm Đồng Hới, ông ở Diêm Điền qua cư ngụ ở làng Trung Nghĩa, phía Tây làng Diêm Điền, vì Diêm Điền quá sát thành phố, rất khó hoạt động. Những địa diểm mà ông thường xuyên lui tới để hội họp với Ủy ban Kháng chiến tỉnh Quảng Bình là Đức Phổ, Thuận Lý và Phú Quý, các nơi này Pháp chưa kiểm soát hoàn toàn được.
Cùng hoạt động với ông có 2 cán bộ nội thành của Việt Minh là Nguyễn Toại ở Đồng Đình và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Đồng Đình và Đồng Phú là 2 làng nằm ngay trong thành phố Đồng Hới. Nguyễn Toại (thường được gọi là Toại béo) trước làm Nhà Đèn Huế, theo CS tản cư ra Đồng Hới vào cuối năm 1946 cùng lượt với TT Trí Quang. Cả Nguyễn Toại, Nguyễn Tịch và TT Trí Quang đều bị Pháp bắt năm 1947. Trong thời gian hoạt động cho Việt Minh, Nguyễn Toại đã chỉ điểm nhiều thành phần đảng phái quốc gia có lập trường chống CS cho Việt Minh bắt thủ tiêu, nên khi Nguyễn Toại bị bắt, có người đã tố cáo với Pháp về chuyện này, do đó Pháp đã đem Nguyễn Toại ra xử bắn. Nguyễn Tịch trốn được khỏi nhà giam vào ban dêm.
TT Trí Quang chỉ bị giam một thời gian rồi được trả tự do. Nhưng ít lâu sau ông bị bắt trở lại vì Phòng 2 của Pháp thấy ông vẫn còn liên lạc với các cán bộ giao liên của Việt Minh. Sau một thời gian giam giữ, ông được một viên chức thuộc địa của Pháp ở Huế bảo lãnh. Ông làm tờ cam kết không hoạt động cho Việt Minh nữa, nên được thả ra. Nhận thấy không còn hoạt động ở Đồng Hới được, ông trở về Huế và chuyên lo Phật sự, nhưng bên trong vẫn bí mật hoạt động cho Việt Minh.
Năm 1953, Hồ Chí Minh thành lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình để gây phong trào phản chiến, vận động dư luận quốc tế và quốc nội làm áp lực buộc Pháp ngưng chiến. Hòa thượng Thích Trí Độ là Ủy Viên Trung Ương của tổ chức này. Thượng Tọa Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy Ban.
Sau cuộc di cư năm 1954, TT Trí Quang làm Hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học ở Huế. Lợi dụng cương vị này, ông đứng ra lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình, một tổ chức phản chiến do Việt Minh lập năm 1953. Ông đã quy tụ được một số trí thức Phật Giáo thời đó tại Huế như bác sĩ Lê Khắc Quyến, bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, ông Nguyễn Văn Đảng, giáo sư Tôn Thất Dương Ky....
Mục tiêu của Ủy Ban này là ngụy hòa, kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc và tổ chức bầu cử ngay để thống nhất 2 miền Nam Bắc.
Với tình trạng xã hội và chính trị vô cùng xáo trộn của miền Nam lúc dó, HCM tin rằng nếu có bầu cử chắc chắn CS sẽ thắng như năm 1945, vì họ đã gài lại vô số cán bộ nằm vùng hoạt động tại miền Nam. TT Trí Quang đã làm công tác dân vận đó giúp VC nên nhóm của ông bị bắt. Chức Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học của ông giao lại cho TT Thích Giác Nhiên.
Pháp sư Thích Giác Nhiên lắng lòng hướng về Tổ sư
Vì TT Trí Quang đang làm Hội trưởng Hội Phật Học ở Huế nên công an trình nội vụ cho ông Ngô Đình Cẩn giải quyết. Sau khi xem hồ sơ của TT Trí Quang, ông Ngô Đình Cẩn thấy TT Trí Quang là người đồng hương nên quyết định chiêu hồi cả nhóm này. Ông Ngô Đình Cẩn cho TT Trí Quang xem hồ sơ của Phòng 2 Pháp để lại, trong đó ghi rõ từng trường hợp ông hoạt động cho VC khi ở Quảng Bình và tờ cam kết của ông không tiếp tục hoạt động cho VC nữa. Sau đó ông Ngô Đình Cẩn nói với TT Trí Quang rằng nếu Thượng Tọa chịu giữ lời cam kết và hợp tác, chính phủ sẽ giúp đỡ cho. Trước cái thế chẳng đặng đừng này, TT Trí Quang đã chấp nhận hợp tác và ông Ngô Đình Cẩn đã dùng TT Trí Quang để nắm khối Phật giáo miền Trung. Nhiều người đã ngăn cản ông Ngô Đình Cẩn về chuyện này, nhưng ông Ngô Đình Cẩn tin rằng ông đã nắm hồ sơ TT Trí Quang trong tay, TT Trí Quang sẽ không dám phản lại ông. Ông Ngô Đình Cẩn đã yểm trợ rất nhiều cho các hoạt động của Phật Giáo tại chùa Từ Đàm để tăng uy tín cho TT Trí Quang và thỉnh thoảng có đến chùa Từ Đàm ăm cơm chay với TT Trí Quang.
Chùa Từ Đàm được xây cất từ 1703, đời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu, có tên là Ấn Tôn Tư.. Đến đời vua Hiến Tổ, hiệu là Thiệu Trị (1841-1847), triều đình cho rằng tên chùa phạm húy nên đổi thành chùa Từ Đàm. Vì được xây cất từ lâu nên chùa bắt đầu hư nát. Ông Ngô Đình Cẩn đã giúp cho TT Trí Quang trùng tu lại nên trông rất mới mẻ, quan khách cứ tưởng như chùa mới xây.
Bác sĩ Lê Khắc Quyến được cử giữ chức Giám đốc Bệnh viện Trung Ương Huế, mặc dù ông chỉ là Y sĩ Đông Dương (chưa có luận án), không phải là Bác sĩ ngạch Pháp.
Ông Nguyễn Văn Đẳng được bổ nhiệm làm Tổng thư ký Tòa thị chính Đà Nẵng năm 1955 và đến năm 1962 được đưa ra làm tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên kiêm Thị trưởng thành phố Huế. Khi vụ Phật Giáo xảy ra vào tháng 3/1963 ở Huế, ông đang làm thị trưởng ở đó. Ông được coi là một Phật tử thuần thành nên không hề bị đòi nợ máu khi ông ra lệnh cho Thiếu tá Đặng Sĩ dẹp cuộc biểu tình trước đài phát thanh. Thiếu tá Đặng Sĩ, người thừa hành, bị đòi nợ máu, vì Đặng Sỹ là người Công giáọ Ngày 1/6/1963, cả ông Nguyễn Văn Đẳng lẫn Thiếu tá Đặng Sỹ đều bị ngưng chức và về đợi lệnh ở Bộ Nội vu.. Sau này ông Đảng được cử giữ chức Đại biểu Chính phủ tại Trung phần.
Trong trận Tết Mậu Thân, ông Đẳng bị mất tích. Mọi người đều tưởng ông đã bị giết, nhưng sau 30/4/75 ông trở lại Huế. Điều này làm nhiều người ngạc nhiên về vai trò của ông. Hiện ông ở Hoa Kỳ.
Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng đi theo Việt Minh từ 1945 đến năm 1951 thì trở về Hà Nội và theo học trường Dược tại Hà Nội. Năm 1954, khi mới di cư vào Nam, ông đã tham gia Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình của TT Trí Quang. Sau khi được chiêu hồi, ông Ngô Đình Cẩn đã nhờ Linh mục Cao Văn Luận giúp NCT lấy xong bằng Dược sĩ rồi giao cho Nguyễn Cao Thăng đứng đầu hãng bào chế dược phẩm OPV tại Saigon để kinh tài cho Đảng Cần Lao. NCT cũng được ông Ngô Đình Cẩn đưa ra làm Dân biểu Quốc hội Lập hiến trong cuộc bầu cử 1957.
Khi Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống, NCT lại được chọn làm Phụ tá TT đặc trách liên lạc với Quốc hộị Ông có nhiệm vụ vận động các dân biểu bỏ phiếu ủng hộ các dự luật và các đường lối do Hành pháp đưa rạ Nguyễn Văn Ngân, nhập ngũ khóa 13 Thủ Đức, đang ở Sư đoàn 7, được NCT đưa về làm Phụ tá, có nhiệm vụ xách cặp tiền đi theo và chi tiền cho các dân biểu khi có lệnh của NCT. Khi NCT qua đời, Nguyễn Văn Ngân được cử giữ chức vụ của NCT vì đã quen công việc.
TT Trí Quang chỉ trá hàng ông Ngô Đình Cẩn. Các nhân viên tình báo có cho ông NDC biết TT Trí Quang vẫn tiếp tục liên lạc với VC nhưng ông không quan tâm nhiềụ Ông tin ông có thể tương kế tựu kế.
Tháng 5/1963, khi có lệnh hạn chế treo cờ các tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo, TT Trí Quang đã lợi dụng cơ hội này phát động phong trào Phật Giáo chống chính phủ Ngô Đình Diệm với thủ đoạn và chiến thuật mà VC thường áp dụng (bàn sau).
Năm 1964, khi Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất (khối Ấn Quang) được thành lập, TT Trí Quang giữ chức Chánh thư ký Viện Tăng Thống.
Sau khi Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc "chỉnh lý" và lên nắm chính quyền, TT Trí Quang đã lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, sau biến thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, trong đó có nhiều đặc công CS nằm vùng lãnh đạo 2 tổ chức này. Lực lượng của ông mở cuộc đánh phá Công giáo và các đảng phái Quốc gia, dưới chiêu bài "diệt dư Đảng Cần lao", đòi Mỹ rút quân, ngụy hòa, gây rối loạn cả miền Nam VN. Lực lượng của ông đã bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan vào tháng 6/1966. Trong cuộc họp báo ngày 7/6/1966, Chuẩn tướng Phan XuânNhuận tuyên bố TT Trí Quang là CS nên sẽ bị bắt, nhưng sau đó ông vẫn không bị bắt.
Sau 30/4/1975, nhóm Ấn Quang do ông lãnh đạo đã tổ chức mừng giải phóng và coi thắng lợi của VC là thắng lợi của Phật Giáọ Nhưng đến năm 1976, Hà Nội giải thể Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhóm ông cũng bị loại theo.
Trong cuộc lục soát chùa Ấn Quang của lực lượng an ninh CS vào đêm 6/4/1977, các Hòa thượng Huyền Quang, Thiện Minh, Quảng Độ và một số tăng sĩ đã bị bắt, nhưng công an không đụng đến ông. Ông chỉ bị quản thúc tại chỗ và mọi việc liên lạc giữa ông với người ngoài không có gì khó khăn lắm.
TT Trí Quang được coi là người lãnh đạo nhóm Phật giáo quá khích và cực đoan trong tông phái Phật giáo Ấn Quang ở miền Trung. Nhiều người nghĩ rằng ông đã sống và hoạt động với VC nhiều năm nên đã học được nhiều kỹ thuật đấu tranh chính trị và thủ đoạn của CS. Nhìn cách điều động các cuộc đấu tranh của ông, người ta thấy ông có nhiều mưu lược. Ông điều hành cuộc đấu tranh của Phật giáo miền Trung đúng phương pháp mà VC thường xử dụng. Chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ ra lệnh hạn chế việc treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo, ông phao tin chính phủ ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo.
Trong vụ nổ tại đài phát thanh Huế tối 8/5/1963, Bác sĩ Lê Khắc Quyến, một "đồng chí" của ông, khám nghiệm tử thi các nạn nhân, đã cho ông biết các nạn nhân bị chết vì một chất nổ bằng plastic cực mạnh, nhưng ông vẫn tuyên truyền kích động, phao tin các nạn nhân bị chết vì súng bắn, lựu đạn và xe tăng cán...
Vừa ký kết xong với Ủy Ban Liên Bộ một thông cáo chung giải quyết vụ Phật giáo, ông tung ngay một "mật điện" giả để hô hoán chính quyền tìm cách không thực thi thông cáo chung và hô hào tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh, v.v...
Nhưng một sĩ quan tình báo cao cấp của VNCH thời đó đã nói : TT Trí Quang chỉ là ấu chúa, mọi việc trong triều đều do Thái sư và Thừa tướng lo. Thái sư là Võ Đình Cường, còn Thừa tướng là Nguyễn Trực.
Thích Trí Quang quê ở Quảng Bình nên Huế không phải là đất dụng võ của ông. Ở Huế thời đó lại có quá nhiều thành phần xuất sắc, nên TT Trí Quang nằm trong hạng vô danh tiểu tốt. Khi nhóm TT Thích Thiện Chiếu, Thích Trí Độ, Thích Mật Thể, ...đi tản cư và ở lại Nghệ An theo Việt Minh, một mình TT Trí Quang bị Pháp bắt nên phải từ Quảng Bình quay lại Huế, vai trò của ông mới được chú ý. Sau này ông Ngô Đình Cẩn đã giúp đỡ tối đa và tạo uy tín cho ông, đưa ông trở lại làm Hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học để nắm khối Phật Giáo Miền Trung, ông mới có chút uy tín. Nhưng mọi lực lượng đều nằm trong tay Võ Đình Cường.
Võ Đình Cường (1918 - 2008)
là người tham gia xây dựng và được xem như anh cả của tổ chức Gia đình Phật tử Việt NamTổ chức có chức năng giáo dục thanh thiếu nhi Phật giáo này ban đầu có tên gọi Đoàn thanh niên Phật học Đức Dục (từ năm 1940 với người sáng lập là bác sĩ Lê Đình Thám), sau đó là Gia đình Phật Hóa Phổ và từ năm 1951 mang tên gọi như hiện nay.

Bác sĩ Tâm Minh tại Văn phòng
Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới Việt Nam năm 1956 tại Hà NộiMùa hè năm 1949, ông tập kết ra Bắc. Sau đó được đề cử làm Chủ tịch phong trào vận động Hòa Bình thế giới. Năm 1956, ông và Hòa thượng Trí Độ tham dự phái đoàn sang dự đại hội Phật giáo Buddha Jayanti tại Ấn Độ. (1897 - 1969)
Võ Đình Cường lãnh đạo Ban Huynh Trưởng Cố Vấn Gia Đình Phật Tử, một tổ chức do bác sĩ Lê Đình Thám thành lập tại Huế năm 1944. Năm 1949, bác sĩ Lê Đình Thám được Hồ Chí Minh gọi ra Bắc, Võ Đình Cường đứng lên lãnh đạo tổ chức này và hoạt động cho Việt Minh. Chính Võ Đình Cường nhận chỉ thị của Khu Ủy Tri.-Thiên-Huế, hoạch định các kế hoạch, chiến thuật và thủ đoạn đấu tranh rồi đẩy TT Trí Quang đi theo, còn Nguyễn Trực là người điều động.
0 comments:
Post a Comment