CHÍNH KHÍ VIỆT

Thursday, March 14, 2013

00098 TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ


00098  TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ  





 
LGT: "THẾ GIỚI ĐANG ĐỐI MẶT VỚI  TRẬN TẤN CÔNG LỚN NHẤT VÀO SỰ THẬT KỂ TỪ NHỮNG NĂM 1930"!  Đó là lời thú nhận chân thành của ông  Lord Tony Hall, Tổng giám đốc Đài BBC Luân Đôn, cơ quan truyền thông lâu đời nhất  thế giới đã phải cay đắng thừa nhận!!!
 
 


Một trong những sự thật kinh hoàng  trong giai đoạn lịch sử cận đại của nước Việt Nam chúng ta đã bị bè lũ "mượn đạo tạo đời" Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất Khối Ấn Quang bóp méo, tuyên truyền và ngày đêm tung lên mạng xã hội những nhân chứng dổm, những chứng cớ ngụy tạo để bôi nhọ Chính Thể Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo anh minh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhằm CHẠY TỘI cho tội ác trời không tha, đất không dung của chúng đối với Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam.

 

Vì thế TRẢ LẠI SỰ THẬT cho lịch sử là một thúc bách lớn đối với website Chính Khí Việt Net!  Cho nên tất cả những gì được trưng bày ở đây bằng hình ảnh, bằng những bài viết của rất nhiều nhân chứng sống thời kỳ 1954 -1963, dựa trên những sự thật không thể chối cãi của lịch sử sẽ là những tài liệu đúng đắn nhất nhằm đánh tan những luận điệu tuyên truyền của tập đoàn Việt Gian Cộng Sản nói chung và của băng đảng tập đoàn Ma Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, hậu thân Phật Giáo Ấn Quang nói riêng đã, đang tìm đủ mọi cách để bôi nhọ và xuyên tạc rằng chúng "đấu tranh" cho cái chúng gọi là Phật Giáo của chúng bị bách hại!!!???
 
Tài liệu dưới đây là quá trình tìm hiểu, thu thập, tổng hợp và nhận định của Chính Khí Việt, bút danh của anh Joseph L. Phạm trong hai thập niên qua đã được đăng trên các diễn đàn yahoogroups, facebook, các website của người Quốc Gia Tỵ Nạn VGCS....
 
Chúng tôi xin chân thành giới thiệu đến độc giả trong và ngoài nước với mong ước Sự Thật Của Lịch Sử không bị mai một, không bị bóp méo, không bị tuyên truyền và xuyên tạc trong âm mưu bôi bẩn những vị lãnh đạo và Quân - Cán - Chính Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn Lịch Sử 1954 - 1963!!!
 
Minh Thư Nguyễn
Ngày 01 Tháng 01, 2020
 
 


Sư Chính Trị Hổ Mang Ấn Quang 1954-65

Sư chính trị 3-4

Mark MoyarTrần Hải dịch


Ở các tỉnh phía bắc, Khánh và đồng loã chính là Tướng Nguyễn Chánh Thi, đã không làm gì để kiểm soát đám đông và bảo vệ tài sản của Việt Nam và Mỹ. Họ cho rằng hỗn loạn sẽ làm sụp đổ chính quyền Hương và họ sẽ nắm quyền. (99) Khi những cuộc bạo loạn đang tiếp diễn, Khánh lại đi dàn xếp với các lãnh tụ Phật giáo. Quân đội sẽ nắm chính quyền, loại bỏ Hương, tôn trọng “tự do tôn giáo” và thanh trừng những kẻ thân Diệm mà những đợt trước chưa loại bỏ hết. Để đáp lại, Phật giáo sẽ ủng hộ chính quyền mới ít nhất trong hai năm, và sẽ đưa Trí Quang, Tâm Châu và Hộ Giác ra ngoại quốc. (100)

Khi Alexis Johnson biết được kế hoạch này, ông cảnh cáo Khánh rằng Mỹ muốn quân đội ủng hộ chính quyền Hương. Khánh chỉ lờ đi. Sáng ngày 27 tháng Một, Khánh cầm đầu một cuộc lật đổ không bạo loạn với sự ủng hộ của Tướng Thi và Tư lệnh Không quân Kỳ. Khánh thuyết phục Hội đồng Quân lực để Khánh nắm chính quyền, với lời đảm bảo sẽ rời bỏ chính trường khi một Hội đồng cố vấn 20 người chọn được một quốc trưởng dân sự. Tuy nhiên, một số sỹ quan cấp cao chấp nhận sự sắp xếp này vì họ nghĩ là nó sẽ phản tác dụng, dẫn đến việc loại bỏ Khánh và dẹp loạn Phật tử tranh đấu. (101)

Ngay từ ngày đầu của cuộc đảo chính, Trí Quang đã âm mưu tìm cách hất cẳng Khánh và chiều hôm sau ông ta bắt đầu nỗ lực đó. (102) Bước đầu tiên là ông ta thông báo cho các tướng rằng Phật giáo sẽ không thực hiện các lời hứa là không dính đến chính trị, ủng hộ chính quyền, và ba sư đi ngoại quốc. Các lời hứa này không còn giá trị vì, theo các Phật tử tranh đấu, quân đội đã hứa lật đổ chính quyền vào ngày 25 hoặc 26 mà vẫn chưa thực hiện khi đã sang ngày 27 tháng Một. Ngoài tính lố bịch, lập luận này còn đầy trí trá vì Trí Quang đã biết trước là cuộc lật đổ sẽ không xảy ra cho đến ngày 27 tháng Một. (103) Hành động lật lọng này là một trong những điều tồi tệ nhất mà phía Phật tử tranh đấu đã làm cho đến lúc đó, và nó củng cố quan điểm của những kẻ dèm pha rằng các lãnh tụ Phật giáo tranh đấu là những kẻ dối trá chỉ muốn huỷ hoại chính quyền hơn là tiêu diệt Việt cộng. Việc chối bỏ những hứa hẹn làm một số tướng lãnh giận điên; một người đã nói với người Mỹ rằng nếu Khánh không đối mặt với Viện Hoá đạo ngay lúc này, “mạng sống ông ta sẽ bị đe doạ.” (104)

Khánh đã không đối đầu với phía Phật giáo, thay vào đó lại nhượng bộ các đòi hỏi trong khi tìm cách bám lấy quyền lực. Khánh thuyên chuyển tướng Phạm Văn Đổng là tổng trấn vùng thủ đô đi làm tư lệnh Quân đoàn II, như thế đẩy ông này xa rời trung tâm quyền lực và không còn ảnh hưởng gì đến chính trị. Phạm Văn Đổng đã làm Phật tử tranh đấu khó chịu vì ông đã hoàn thành nhiệm vụ dẹp bỏ các cuộc bạo loạn và biểu tình tại Sài Gòn. (105)

Một lần nữa, phía Phật giáo chẳng làm gì để đáp lại lòng tốt của Khánh. Họ muốn chính Phật giáo là kẻ quyết định ai sẽ là người lãnh đạo kế tiếp, và kẻ đó không phải Khánh. Chức vụ cao nhất về tay Bác sĩ Phan Huy Quát, người mà Trí Quang hằng vận động trước đây. Nhiều quan sát viên nghĩ rằng Quát hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Trí Quang. Phần lớn các quan chức khác trong chính quyền cũng là đồng minh của Trí Quang và chống “chủ nghĩa Diệm”, theo ngôn từ của Phật tử tranh đấu, có nghĩa là chống cộng mãnh liệt và không dung túng những hành động phá hoại của phong trào Phật giáo. (106)

Vào ngày 19 tháng Hai, chỉ ba ngày sau khi chính quyền mới lên nắm quyền, một cuộc đảo chính lại xảy ra do Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo cầm đầu. (107) Quân đảo chính chiếm đài phát thanh Sài Gòn và phi trường Tân Sơn Nhất nhưng Khánh lại một lần nữa chạy thoát ra Vũng Tàu. Hầu hết các đơn vị trong vùng phụ cận Sài Gòn án binh bất động, không theo phe nào trong cuộc tranh chấp này. (108)

Cũng như đã xảy ra trong cuộc lật đổ ngày 19 tháng Chín, những kẻ cầm đầu tuyên bố cảm phục Diệm và họ muốn có chính phủ gần giống chế độ của Diệm. Trên đài phát thanh, phe đảo chính tuyên bố, “Lodge đã sai khi khuyến khích đảo chính lật đổ Diệm thay vì chấn chỉnh ý đồ lầm lạc này.” Phát và Thảo báo riêng cho Kỳ biết là họ và cộng sự sẽ chấm dứt đảo chính nếu Khánh bị loại bỏ. Ba người này thoả thuận dàn xếp để sau đó quân đảo chính giải tán nhanh tránh sự cố. Hội đồng Quân Lực ra lệnh cho Khánh rời Việt Nam ngay. Sau một nỗ lực không thành để vận động ủng hộ từ các viên chức địa phương, Khánh đồng ý từ chức và đi ngoại quốc. (109)

Khi chính quyền Quát bắt đầu hoạt động, một loạt biện pháp được lòng Trí Quang được thực hiện. Tất cả mọi người bị bắt trước đây trong những cuộc biểu tình chống Hương đều được thả, trong đó một số là cộng sản. Để thoả mãn Trí Quang và ngăn ngừa nội loạn tiếp diễn, Quát và các tướng lĩnh thân cận cho tiến hành một đợt thanh trừng mới. Trong số những nạn nhân có Tướng Phạm Văn Đổng, Đại tá Trần Thanh Bền, Tướng Trần Văn Minh, Đô đốc Chung Tấn Cang, và Tướng Đặng Văn Quang – những người có năng lực nhưng bị Trí Quang chống đối vì họ đã đàn áp biểu tình của Phật tử hoặc đã can thiệp vào kế hoạch của ông. Quát và đồng minh của mình phân tán quyền lực trong quân đội nhằm ngăn chặn việc một sĩ quan nào đó thâu tóm quá nhiều quyền hành. (110)

Vì những cuộc thanh trừng này, lãnh đạo quân đội trở nên manh mún và nhờ Phật giáo ủng hộ, chính quyền Quát ít bị chống đối hơn so với các chính quyền trước. Vào đầu tháng Tư, CIA đã có thể báo cáo rằng, “Đây là lần đầu tiên sau khi lật đổ chế độ Diệm, tình trạng xuống dốc không phanh của tình hình chính trị có vẻ đã bị chặn đứng.” Tuy nhiên, sự ổn định này đã phải trả giá đắt. Những cuộc thanh trừng của chính quyền và nhượng bộ Phật giáo đã làm yếu kém trầm trọng tình trạng lãnh đạo trong quân đội. Không có lúc nào trong lịch sử 21 năm mà quân lực Việt Nam Cộng hoà chiến đấu tệ hại như trong thời Quát. Vào ngày 26 tháng Ba tướng Westmoreland nhận định rằng quân lực Nam Việt Nam đã “bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt, và không còn hệ thống chỉ huy kiến hiệu. Quân lực được điều hành bởi các uỷ ban và chính các uỷ ban cũng là những đấu trường đầy âm mưu và tham vọng cá nhân.” (111) Thành tích nghèo nàn của chính quyền Quát chứng minh một sự thực thể hiện rõ ràng trong thời Khánh là một chính quyền bị Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu lũng đoạn sẽ không đủ năng lực và ý chí để duy trì cuộc chiến.

Trong khi Trí Quang và các lãnh đạo của Viện Hoá đạo bày tỏ sự chấp thuận chính quyền của Quát và hạn chế việc gây rối, họ vẫn không chừa các màn phá phách khác. Quảng Liên và năm ba lãnh đạo Phật tử từ Viện Hoá đạo công bố một kế hoạch hoà bình có liên quan đến việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Các chức sắc cao cấp tại Viện Hoá đạo, kể cả Trí Quang, nói với các viên chức toà đại sứ Mỹ rằng họ không đồng ý với Quảng Liên. Tuy vậy, trước những cử toạ khác, họ lại tán thành lập trường của Quảng Liên. Trí Quang nói với tờ Hong Kong Standard rằng Hà Nội và Washington nên “bắt đầu thảo luận ngay” để mang lại hoà bình, vì, “chúng tôi đã chịu khổ nhiều rồi, cả về nhân mạng cũng như vật chất.” (112) Khi người Mỹ đến tìm hiểu về bài phỏng vấn này, Trí Quang lại giở chiến thuật thường ngày là nói với người Mỹ rằng ông ta tán thành chính sách của Mỹ. Ông tuyên bố là ông không thực sự ngụ ý là Mỹ phải đàm phán ngay, và rằng thật ra, ông nghĩ là người Mỹ nên trì hoãn đàm phán cho đến khi tình hình quân sự đã được cải thiện.” (113)

Vài tuần sau đó, Trí Quang khuyên Taylor nên bỏ bom Bắc Việt. (114) Trong trường hợp này, có những bằng chứng trực tiếp là lời khuyên này chỉ để duy trì thiện cảm của Mỹ để nhóm Phật tử tranh đấu có thể tiếp tục những hoạt động khuynh đảo chính quyền. Robert Thompson, một chuyên viên lừng danh của Anh về chống phiến loạn ở Mã lai và sau đó là cố vấn cao cấp cho chính quyền Nam Việt Nam, nhớ lại rằng sau khi có lời khuyên này với Taylor, Trí Quang “đến gặp ngay người Pháp để giải thích rằng ông ta chỉ tìm cách giải toả những nghi kỵ của Taylor nhằm rảnh tay thúc đẩy kế hoạch bí mật vì hoà bình dù với bất cứ giá nào.” (115)

Điều làm người ta nghi ngờ hơn nữa về tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống cộng của người Mỹ là một bức thư nhà sư này gửi cho người Mỹ giữa tháng Năm. Trong lá thư, Trí Quang miêu tả người Mỹ như là kẻ gây đau khổ cho Nam Việt Nam chứ không phải là kẻ cứu giúp. Ông ta cáo buộc rằng trong khi người Mỹ “tin tưởng và ngầm chiếu cố người Công giáo một cách thiên kiến,” họ lại “lo lắng và e dè đối với Phật giáo giống như kẻ cai trị đối với dân bản xứ.” Dân chúng Việt Nam nghĩ rằng người Mỹ dùng “người Công giáo để tiêu diệt Phật giáo” và họ “tin chắc rằng tất cả các sự đàn áp đều có sự dàn xếp và đồng ý của người Mỹ.” Người Mỹ sẽ thua, Trí Quang cảnh cáo, trừ khi họ chấm dứt việc thiên vị Công giáo. (116) Những cáo buộc này phi lý, không phải chỉ vì không ai tìm cách tiêu diệt Phật giáo, mà cũng vì cả người Mỹ lẫn chính quyền Nam Việt Nam đều không làm gì ưu đãi Công giáo hơn Phật giáo.

Trong thời Quát, nhiều nhóm mới đòi hoà bình hay trung lập mọc lên ở Nam Việt Nam, và những màn tuyên tuyền gia tăng mạnh. Ngạc nhiên thay, Quát lại lớn tiếng chống những nhóm này. Ông ta tuyên bố, sẽ không có hoà bình hay trung lập cho đến khi miền Bắc chấm dứt việc đưa người và vũ khí vào Nam. Ông tuyên bố rằng chính quyền sẽ dùng “mọi biện pháp để đập tan những thủ đoạn tuyên truyền lừa đảo của cộng sản nhằm đánh lừa công luận, gây rối loạn trong dân chúng, lợi dụng sự cả tin … và tiến hành những thủ đoạn chính trị thậm tệ để thống trị toàn cõi Việt Nam.” Quát sa thải 300 công chức đã ký kiến nghị đòi hỏi đàm phán chấm dứt chiến tranh, Tuy nhiên, Quát đã không đụng đến một ai trong Viện Hoá đạo vận động cho hoà bình hoặc trung lập. Quát thuyết phục Quảng Liên rút lại chương trình trung lập hoá nhưng với cái giá là phải thả tất cả các lãnh đạo phong trào hoà bình có liên hệ với phía Phật giáo. (117) Một khủng hoảng chính trị lại xảy ra ở Sài Gòn vào cuối tháng Năm năm 1965 khi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ngăn chặn kế hoạch của Thủ Tướng Quát thay thế hai bộ trưởng mà cả Quát và người Mỹ đều cho là thiếu khả năng. (118) Sửu làm vậy vì được sự khuyến khích của nhóm chính trị gia Miền Nam và các lãnh đạo Công giáo vì họ không bằng lòng với sự thiên vị nhóm Phật giáo tranh đấu của Quát. (119) Khi khủng hoảng tiếp diễn, Trí Quang bắt đầu rút lập trường ủng hộ Quát, vì Quát đã có thái độ độc lập làm Trí Quang khó chịu. Trong một lần nói chuyện với lãnh sự Mỹ tại Huế, Trí Quang nói là nếu Quát không giải quyết được khủng hoảng hiện thời mà không phải nhượng bộ phía chống đối thì quân đội nên thế chỗ Quát. Rõ ràng Trí Quang lo Quát sẽ nhân nhượng quá độ đối với phía Công giáo và những phe mà Trí Quang không chấp nhận, và rằng Quát sẽ có biện pháp chống lại những kẻ hô hào trung lập. Nếu cần thay Quát, Trí Quang nói rằng vị thủ tướng mới “phải là người có tín ngưỡng.” Người duy nhất mà Trí Quang đề cập là Tướng Thi. “Thi là một Phật tử trên danh nghĩa,” Trí Quang nói, “nhưng ông ta không quan tâm đến tôn giáo,” một nhận định đáng ngờ vì Thi đã liên tục cộng tác với phe Phật tử tranh đấu. (120)

Ngày 9 tháng Sáu, Quát thỉnh cầu các tướng lãnh hoà giải mối bất hoà. (121) Trong một buổi họp với Quát, các tướng đã bộc lộ sự chán ngán về tình trạng bất lực của các chính quyền dân sự. Họ cũng bực bội vì những thanh trừng trong quân đội Nam Việt Nam trong thời Quát, và vì những trận thất bại lớn trong mấy tuần vừa qua. Mất nhuệ khí khi bị các tướng lãnh chỉ trích, Quát đồng ý từ chức và trao quyền lại cho quân đội. (122)

Mọi việc tiến triển như Trí Quang dự liệu cho đến khi lãnh đạo mới được chọn. Các chức vụ cao nhất đã không vào tay Tướng Thi nhưng lại về tay Tướng Kỳ, người trở thành thủ tướng và chủ tịch hành pháp, và Tướng Thiệu chủ tịch uỷ ban lãnh đạo. Các tướng lãnh rõ ràng muốn chấm dứt tình trạng Trí Quang lũng đoạn chính quyền và vì Kỳ và Thiệu quan tâm đến việc chiến đấu chống cộng hơn là thoả hiệp với Phật giáo tranh đấu.

Thái độ này được bộc lộ rất nhanh, khi Kỳ, Thiệu và các tướng quyết định rằng chính quyền mới sẽ bắt đầu bằng “tuần lễ nín thở.” Các hoạt động trong tuần đó gồm việc áp đặt kiểm duyệt, đóng cửa nhiều tờ báo, và đình chỉ các tự do dân sự. Mục tiêu kế tiếp là chuyển giao những tranh cãi chính trị của các chính khách Sài Gòn về một “biệt thự nhiều cổ thụ,” nơi họ có thể “thảo luận và soạn thảo các chương trình ủng hộ chính quyền.” Về vấn đề chống đối từ các nhóm tôn giáo và chính trị, họ quyết tâm “lờ đi với quy định rằng kẻ làm loạn sẽ bị bắn.” Các tướng cũng đưa ra các biện pháp để tổ chức dân chúng thành các lực lượng bán quân sự. Tiếp sức cho chính quyền dân sự bằng sự xốc vác và quyết đoán, các tướng lãnh đạo đã không chần chừ thực hiện ngay các kế hoạch này. (123)

Trí Quang hẳn đã không phản đối mạnh việc chỉ định Kỳ và Thiệu và tin rằng ông ta có thể khuynh đảo họ cũng như với Khánh. Lúc đầu, Trí Quang tuyên bố ủng hộ chính quyền mới. Tuy nhiên, chỉ trong một tháng, khi chính quyền mới cho thấy những dấu hiệu đầy triển vọng, Trí Quang lại đòi loại bỏ. Ông tố cáo Thiệu là dư Đảng Cần lao – cho dù Thiệu đã đóng vai trò quan trọng khi lật đổ Diệm – và còn buộc Thiệu là có “khuynh hướng phát xít.” Trí Quang cáo buộc rằng “những dư Đảng Cần lao chung quanh Kỳ đã phá hoại các chương trình của Kỳ.” Cũng như trước, những cáo buộc chung chung của Trí Quang vượt quá xa những điều cụ thể. Khi bị yêu cầu đưa ra ví dụ về việc phá sản chương trình của Kỳ, Trí Quang chỉ cóthể đưa ra câu trả lời kỳ quái như: “Quyết định của Kỳ bắn tất cả những kẻ đầu cơ, đơn giản là biện pháp đó không thể thực hiện được.” (124)

Trí Quang tiếp tục đưa ra những cáo buộc chính quyền vô căn cứ và những yêu sách không thể thoả mãn nổi – hai điều này cộng lại thành vũ khí chủ yếu của ông ta làm suy yếu chính quyền - cho đến cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966. Khi cuộc khủng hoảng này bùng nổ, các Phật tử nổi loạn gây rắc rối nhiều đến nỗi chính quyền phải dùng quân đội để dẹp bằng bạo lực, một lần cho xong. Kỳ đày Trí Quang về một tịnh thất miền núi. Chính quyền cuối cùng đã trực diện đối đầu Phật tử tranh đấu và đạt kết quả tốt. Sẽ không bao giờ còn chuyện Phật giáo tạo rắc rối chính trị cho chính quyền Nam Việt Nam.

Từ thời Diệm cho đến khủng hoảng Phật giáo năm 1966, Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu đã theo đuổi chiến lược giống nhau. Họ tìm cách làm suy yếu chính quyền qua biểu tình công khai và đòi hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Bảo vệ tự do tôn giáo không bao giờ là một trong những mục đích chính bởi vì tự do tôn giáo của họ không bao giờ bị đe doạ. Thay vào đó, điều mà họ muốn là ưu thế chính trị. Một số Phật tử tranh đấu muốn chính quyền thiên vị Phật giáo so với các nhóm khác trong xã hội Nam Việt Nam, trong khi một số khác bí mật thông đồng mở đường cho một chính quyền cộng sản. Nếu quân đội Nam Việt Nam không thành công trong việc chống lại Phật tử tranh đấu vào năm 1965 và dẹp tan nhóm này vào năm 1966, có khả năng nhóm Phật tử tranh đấu sẽ lái chính quyền về phe cộng sản, vì người cầm đầu phong trào này, Thích Trí Quang, hoặc là đồng Hội đồng thuyền với cộng sản hay là vì tự huyễn hoặc rằng mình có thể ngăn chặn cộng sản mà không cần đến một chính quyền vững mạnh, thân Mỹ.

Những thành công chính trị của phong trào Phật giáo tranh đấu tuỳ thuộc vào thành phần lãnh đạo của chính quyền Sài Gòn và thái độ của Mỹ. Sau một loạt những nhượng bộ vô hiệu, Ngô Đình Diệm chấm dứt nhân nhượng vì rõ ràng là các nhượng bộ đã không làm hài lòng các Phật tử. Ông đàn áp phong trào bằng cách đóng cửa chùa và bắt giữ các nhân vật chủ chốt, nhưng thắng lợi này phù du vì nó lại thúc đẩy người Mỹ ủng hộ việc lật đổ Diệm. Nguyễn Khánh cho phép chống đối chính quyền công khai và dành nhiều thời giờ nhượng bộ các Phật tử, nhưng những kết quả biện pháp này mang lại chỉ là sự suy yếu của các lực lượng chống cộng và mở đường cho những phản đối, yêu sách mới từ phía Phật giáo tranh đấu. Trần Văn Hương chọn sách lược của Diệm hơn là cách của Khánh, không nương nhẹ các hành vi bạo loạn hay đáp ứng yêu sách của Phật giáo. Chính sách này rõ ràng có triển vọng thành công hơn và người Mỹ lúc này cũng dễ thuận theo hành động cứng rắn. Tuy nhiên, Hương không thể thực thi trọn vẹn chính sách này vì Khánh đã lật ông.

Ảnh hưởng của phong trào Phật giáo tranh đấu lên tột đỉnh khi Phan Huy Quát lãnh đạo đất nước. Quát làm mọi chuyện Phật giáo muốn trong phần lớn thời gian cầm quyền. Hành động của Quát làm hiệu năng chống cộng của Nam Việt Nam xuống thấp chưa từng có, khẳng định bài học từ nhiệm kỳ của Khánh rằng hiệu quả chiến đấu tỷ lệ nghịch với việc đáp ứng các đòi hỏi của Phật giáo tranh đấu.

Lý do phản biện chính yếu mà Khánh và những người khác đưa ra để không dùng phương pháp của Diệm đối với Phật tử tranh đấu là sợ làm quần chúng Phật tử xa lánh đến độ làm mất khả năng duy trì cuộc chiến. Khánh đã đánh giá quá cao ảnh hưởng của Phật tử tranh đấu đối với bá tánh Phật tử; chỉ một thiểu số nhỏ ủng hộ động cơ của Phật tử tranh đấu. Cuôc khủng hoảng Phật giáo năm 1966 cho thấy nhóm Phật tử tranh đấu có thể bị dẹp mà không làm mất khả năng tiếp tục chiến đấu. Việc đàn áp Phật tử năm 1966 đã vĩnh viễn giải phóng chính quyền khỏi những áp lực Phật giáo nguy hại và tạo điều kiện xây dựng được sự gắn bó quốc gia chặt chẽ hơn ở Nam Việt Nam từ đó về sau.
--------------------------------------------------------------------------------------------------



(1) Xem Fredrik Logevall, Choosing War: The Lost Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1999); Brian VanDeMark, Into the Quagmire: Lyndon Johnson and the Escalation of the VietnamWar (New York: Oxford University Press, 1991); Robert Buzzanco, Masters of War: Military Dissent and Politics in the Vietnam Era (Cambridge: Cambridge University Press, 1996); George McT. Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Alfred A. Knopf, 1986); Gabriel Kolko, Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (New York: Pantheon Books, 1985); Jeffrey Record, The Wrong War: Why We Lost in Vietnam (Annapolis: Naval Institute Press, 1998).
(2) Thật đáng ngạc nhiên là người ta ít đề cập đến những hoạt động chính trị của các Phật tử tranh đấu vào những năm 1964 và 1965. Chỉ có rất ít hoặc thậm chí không có dòng nào đề cập đến họ trong Buzzanco, Masters of War; Kolko, Anatomy of a War; Lloyd C. Gardner, Pay Any Price: Lyndon Johnson and the Wars for Vietnam (Chicago: Ivan R. Dee, 1995); George C. Herring, America’s Longest War: The United States and Vietnam, 1950–1975, 3rd ed. (New York: McGraw-Hill, 1996); Robert Mann, A Grand Delusion: America’s Descent into Vietnam (New York: Basic Books, 2001); H. R. McMaster, Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies That Led to Vietnam (New York: HarperCollins, 1997); Marilyn B. Young, The Vietnam Wars, 1945–1990 (New York: HarperCollins, 1991); Robert D. Schulzinger, A Time for War: The United States and Vietnam, 1941–1975 (New York: Oxford University Press, 1997). Cuốn sách có những đề cập đáng kể về đề tài này là Arthur J. Dommen, The Indochina Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos and Vietnam (Bloomington: Indiana University Press), 2001. Kahin cũng phân tích phong trào Phật tử khá kỹ trong cuốn Intervention, nhưng ông bỏ sót một khối lượng thông tin lớn (mà nếu đưa vào sẽ) phản ánh bất lợi về Phật tử.
(3) William Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, 2nd ed. (Boulder, Colo.: Westview Press, 1996); Robert J. Topmiller, The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964–1966 (Lexington, KY: University Press of Kentucky, 2002); David Kaiser, American Tragedy: Kennedy, Johnson, and the Origins of the Vietnam War (Cambridge: Harvard University Press, 2000); A. J. Langguth, Our Vietnam: The War, 1954–1975 (New York: Simon & Schuster, 2000); Kahin, Intervention; Schulzinger, A Time for War; Young, Vietnam Wars.
(4) Để biết lịch sử Phật giáo Việt Nam trước thế kỷ 20, xem Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983); Oscar M. Chapuis, A History of Vietnam: From Hong Bang to Tu Duc (Westport, Conn.: Praeger, 1995); Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Praeger, 1967); Ralph Smith, Viet-Nam and the West (Ithaca: Cornell University Press, 1968).
(5) Ellen J. Hammer, A Death in November: America in Vietnam, 1963 (New York: E. P. Dutton, 1987), 139; Richard Critchfield, Long Charade: Political Subversion in the Vietnam War (New York: Harcourt, Brace, and World, 1968), 70; Piero Gheddo, The Cross and the Bo-Tree: Catholics and Buddhists in Vietnam (New York: Sheed and Ward, 1970), 187; Marguerite Higgins, Our Vietnam Nightmare (New York: Harper & Row, 1965), 47; CIA, Office of Current Intelligence, “The Buddhists in South Vietnam,” 28 June 1963,
John F. Kennedy Library, NSF, Box 197; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, Lyndon B. Johnson Library [hereafter LBJL], NSF, VNCF, box 9.
(6) Smith, Viet-Nam and the West; Taylor, The Birth of Vietnam; Hammer, A Death in November.
(7) “South Viet Nam,” Time, 13 December 1963, 32.
(8) Peer de Silva, Sub Rosa: The CIA and the Uses of Intelligence (New York: New York Times Book Co., 1978), 216.
(9) Saigon to State, 4 November 1963, Foreign Relations of the United States [hereafter FRUS], 1961–1963, vol. 4, 289; Robert Shaplen, Lost Revolution: The U.S. in Vietnam, 1946–1966 (New York: Harper and Row, 1966), 230.
(10) Shaplen, Lost Revolution, 243–4; CIA, “Appraisal of Nguyen Khanh,” 20 March 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3; memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 3, doc. 151; Dennis J. Duncanson, Government and Revolution in Vietnam (London: Oxford University Press, 1968), 356–7; Saigon to State, 10 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 306.
(11) CIA, “The Situation in South Vietnam,” 28 February 1964, Declassified Document Reference System [hereafter DDRS], 1975, fiche 247D; Saigon to State, 22 April 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 123; Ulysses S.G. Sharp and William C. Westmoreland, Report on the War in Vietnam (Washington, DC: Government Printing Office, 1969), 92–3.
(12)Tâm Châu phần nào ít quá khích hơn Trí Quang. Ông ủng hộ một chính phủ không thân Cộng sản mà cũng không thân Mỹ. Các phương tiện thông tin của Mặt trận Dân tộc Giải Phóng công kích ông thường xuyên hơn Trí Quang rất nhiều. Pike, Viet Cong: The Organization and Techniques of the National Liberation Front of South Vietnam (Cambridge: M.I.T. Press, 1966), 204.
(13) New York Times, 10 May 1964.
(14) Memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 151.
(15) Saigon to State, 14 May 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4; Higgins, Our Vietnam Nightmare, 98.
(16) Saigon to State, 24 April 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 125; Saigon to State, 25 April 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3.
(17) Saigon to State, 27 February 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 2.
(18) Saigon to State, 9 May 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4.
(19) odge to Bundy, 25 October 1963, FRUS, 1961–1963, vol. 4, 436; Memcon, 11 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 147; Memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 151; Newsweek, 7 September 1964; Time, 4 and 11 December 1964.
(21) CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E. Critchfield, Long Charade, 62–81; Higgins, Our Vietnam Nightmare, 29; Jean Lacouture, Vietnam: Between Two Truces (New York: Random House, 1966), 222.
(21) Saigon to State, 1 June 1963, FRUS, 1961–1963, vol. 3, doc. 142.
(22) Washington Post, 2 November 1983.
(23) Có báo cáo là ông thậm chí đã nhận từ CIA một khoản tiền nhỏ cho việc cung cấp thông tin, điều này dẫn đến những phỏng đoán ông làm cho Mỹ. Langguth, Our Vietnam, 292. Nhưng nhiều khả năng là Trí Quang làm như vậy để duy trì uy tín của mình với người Mỹ.
(24) Saigon to State, 7 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; Time, 14 August 1964; Shaplen, Lost Revolution, 270.
(25) William H. Sullivan, Obbligato, 1939–1979: Notes on a Foreign Service Career (New York: Norton, 1984), 207–8; Saigon to State, 15 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 317.
(26) New Yorker, 19 September 1964; Saigon to FO, 24 August 1964, Public Record Office [hereafter PRO], FO 371/175472; Saigon to State, 22 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 321; New York Times, 22 August 1964.
(27) Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7.
(28) Saigon to State, 22 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 321; Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; New Yorker, 19 September 1964; New York Times, 10 September 1964; Lacouture, Vietnam, 211.
(29) New York Times, 31 August 1964.
(30) State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; Saigon to FO, 25 August 1964, PRO, FO371/175472; Lacouture, Vietnam, 207–8; New York Times, 24, 27 August 1964.
(31) Saigon to State, 26 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7.
(32) Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360.
(33) CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9.
(34) Saigon to State, FO, 24 August 1964, PRO, FO371/175472; Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; CIA, “Situation in Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; SNIE 53–64, 8 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 341; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; New Yorker, 19 September 1964; New York Times, 29 August 1964; Time, 4 September 1964.
(35) CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E; Topmiller, The Lotus Unleashed, 8.
36) Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, 355–6; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; New Yorker, 19 September 1964; Saigon to State, 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 8; Shaplen, Lost Revolution, 279.
(37) See Higgins, Our Vietnam Nightmare, 285–6.
(38) CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E. See also CIA, “The Situation in South Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9.
(39) Shaplen, Lost Revolution, 272, 274; State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; Lacouture, Vietnam, 135; New York Times, 24 August 1964; Saigon to State, 3 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13.
(40) Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 324.
(41) Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; CIA, “Details of the 26 and 27 August 1964 Meetings of the Military Revolutionary Council,” 1 September 1964, DDRS, 1977, fiche 278A.
(42) Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; The Pentagon Papers: The Defense Department, History of Decision making on Vietnam, Senator Gravel edition (Boston: Beacon Press, 1971–1972), vol. 3, doc. 86.
(43) New Yorker, 19 September 1964.
(44) Saigon to State, 26 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7.
(45) Saigon to State, 26 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 328; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; Saigon to State, 2 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 336.
(46) Saigon to State, 26 August 1964, National Archives II [hereafter NA II], RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2946; Saigon to State, 26 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 328.

(47) Pentagon Papers, vol. 3, 86; New York Times, 29 August 1964.
(48) Saigon to State, 2 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 336; Saigon to State, 4 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 338; CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; Saigon to State, 28 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 365.
(49) Westmoreland to Taylor, 6 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 340; Saigon to State, 28 September 1964, LBJL,NSF, VNCF, box 8; Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, 355–6.
(50) New York Times, 3, 10 September 1964.
(51) CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; Harris, “Government of Vietnam,” 2 September 1964, NA II, RG 319, Westmoreland Personal Papers, box 39.
(52) William C. Westmoreland, A Soldier Reports (Garden City: Doubleday, 1976), 72– 3; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; Saigon to State, 14 September 1964, DDRS, 1979, fiche 94F.
(53) Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360.
(54) Nguyen Cao Ky, Twenty Years and Twenty Days (New York: Stein and Day, 1976), 49–50.
(55) Saigon to State, 13 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 348; Saigon to State, 14 September 1964, DDRS, 1979, fiche 94F; U. Alexis Johnson, The Right Hand of Power (Englewood Cliffs, N. J.: Prentice-Hall, 1984), 414–5; Westmoreland to Wheeler, n.d., FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 351; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; Westmoreland, A Soldier Reports, 72–3.
(56) Saigon to State, 14 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 352.
(57) Saigon to State, 4 November 1964, DDRS, 1985, fiche 122.
(58) Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 359.
(59) SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368.
(60) Saigon to State, 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 8. See also CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368.
(61) Taylor to Johnson, 28 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 389; Maxwell Taylor, Swords and Plowshares (New York: Norton, 1972), 322–3; Saigon to State, 4 November 1964, DDRS, 1985, fiche 122.
(62) Higgins, Our Vietnam Nightmare, 261.
(63) Lacouture, Vietnam, 215–6. Saigon to State, 6 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 404; Washington Post, 23 November 1964; Time, 4 and 11 December 1964; Saigon to State, 4 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10.
(64) Lacouture, Vietnam, 212–13.
(65) Time, 4 December 1964.
(66) Taylor to Johnson, 17 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 413; Washington Post, 23 November 1964; New York Times, 23 and 25 November 1964; Time, 4 December 1964; Dommen, The Indochinese Experience of the French and the Americans, 628.
(67) Taylor to Johnson, 24 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 421. Các Phật tử tranh đấu đã thổi phồng quá mức quy mô chính phủ sử dụng bạo lực trong những tháng cuối của chính thể Diệm.
(68) Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448.
(69) Time, 4 December 1964.
(70) NSC working group, ‘Intelligence Assessment,’ 24 November 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 45; Pentagon Papers, vol. 2, 342; Saigon to State, 6 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 14.
(71) Cooper to Bundy, “Stability of South Vietnam’s Government, Report No. 1,” 10 December 1964, FRUS, 1964–81968, vol. 1, doc. 444; Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448; Saigon to State, memcon, 18 December 1964, LBJL,NSF, VNCF, box 11; Taylor to Johnson, 16 December 1964, DDRS, 1988, fiche 55; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29.
(72) CIA, “Buddhist Plans,” 3 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11; Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448; New York Times, 11 December 1964; Cooper to Bundy, “Stability of South Vietnam’s Government, Report No. 1,” 10 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 444; Taylor to Johnson, 16 December 1964, DDRS, 1988, fiche 55.
(73) CIA Watch Office to State, 25 December 1964, DDRS, 1979, fiche 132C; Ky, Twenty Years and Twenty Days, 52; memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454; Historical Division of the Joint Secretariat, The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam (Washington, DC: Joint History Office, 1970), chap. 15, 5; Johnson, Right Hand of Power, 417.
(74) Westmoreland, A Soldier Reports, 93; Michael Charlton and Anthony Moncrieff, Many Reasons Why: The American Involvement in Vietnam (New York: Hill &Wang, 1978).
(75) Saigon to State, 20 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 452; memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454.
(76) Taylor to Johnson, 23 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 461.
(77) Newsweek, 18 January 1965.
(78) Saigon to State, 23 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 460; Saigon to State, 24 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11; CIA Watch Office to State, 25 December 1964, DDRS, 1979, fiche 132C.
(79) Airgram A-493, 24 December 1964, DDRS, 1978, fiche 433D.
(80) Memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454; Saigon to State, 21 December 1964, DDRS, 1979, fiche 206D.
(81) Saigon to State, 22 December 1964, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2949.
(82) William M. Hammond, Public Affairs: The Military and the Media, 1962–1968 (Washington, DC: Center of Military History, 1988), 119; The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, chap. 15, 8.
(83) Shaplen, <ịThe Lost Revolution, 297–8; Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 20 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 29.
(84) CIA, “Thich Tri Quang’s Campaign to Bring Down the Tran Van Huong Government,” 21 January 1965, DDRS, 1976, fiche 24E.
(85) Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 3 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 59; Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 11 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 105; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
(86) Saigon to State, 20 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 29.
(87) Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(88) Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(89) Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Saigon to State, 11 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 105.
(90) New York Times, 23 January 1965.
(91) Newsweek, 8 February 1965.
(92) Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Newsweek, 8 February 1965.
(93) Một số văn kiện của Ðảng về chống Mỹ, cứu nước, Tập II (1954–1965) (Hà Nội: Sự Thật, 1985), 211–27.
(94) New York Times, 19 January 1965.
(95) Saigon to State, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(96) Ibid.
(97) Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon toState, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(98) Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29; Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, 2000, fiche 9; Saigon to State, 28 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 45; Truong Nhu Tang, A Vietcong Memoir, 95–8; Shaplen, The Lost Revolution, 300; New York Times, 23, 24, and 25 January 1965; CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B.


(99)Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(100)Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
(101)Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 27 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 41.
(102)CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B.
(103)CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA, “Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
(104)Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
(105)CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13.
(106)Saigon to State, 16 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 123; Taylor, Swords and Plowshares, 336; Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Critchfield, The Long Charade, 130; Saigon to State, 23 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 154; Saigon to State, 27 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol.2, doc.169; CIA, “Phan Huy Quat,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29.
(107)Ðại tá Phạm Ngọc Thảo, một chuyên gia hoạch định âm mưu, là một điệp viên của Cộng sản. Việc liệu Hà Nội có lệnh cho Thảo gây ra cuộc nổi loạn này không thì chưa rõ.
(108)INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B.
(109)MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA Vietnam Working Group, “Implications of the Saigon Coup Events,” 20 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14;CIA, “The Situation in Vietnam,” 19 February 1965, DDRS, 1976, fiche 26A; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; State to Saigon, 19 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 147; Corcoran, “Saigon Coup Situation,” 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 45; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B; Shaplen, Lost Revolution, 312; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; John M. Taylor, General Maxwell Taylor: The Sword and the Pen (New York: Doubleday, 1985), 307; MACV to NMCC, 21 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; MACV to NMCC, 22 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14.
(110)CIA, “The Situation in Vietnam,” 26 February 1965, DDRS, 1983, fiche 91; CIA, “Individuals and Cliques in South Vietnam,” 25 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; McCone, memcon, 25 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 165; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 14 April 1965, DDRS, 1979, fiche 239A; Anne E. Blair, There to the Bitter End:Ted Serong in Vietnam (Crows Nest: Allen & Unwin, 2001), 114–16; Critchfield, The Long Charade, 140–2; Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; Shaplen, The Lost Revolution, 344; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A.
(111)Westmoreland, “Commander’s Estimate of the Situation in South Vietnam,” 26 March 1965, LBJL, Westmoreland Papers, History Backup, box 5.
(112)New York Times, 28 February 1965; Saigon to State, 26 February 1965,NA II, RG 319, Central Files, 1964–1966, box 2952; Hong Kong to State, 19 February 1965, LBJL, NSF, Country File, Asia and the Pacific, China, box 238; Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; Saigon to State, 17 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 202.
(113)Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14.
(114)Saigon to State, 22 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 15.
(115)Critchfield, The Long Charade, 131–2.
(116)Saigon to State, 15 May 1965, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2959.
(117)CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Saigon to State, 2 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 177; New York Times, 27 February and 7 March 1965; Saigon to State, 12 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Shaplen, Lost Revolution, 319–21.
(118)Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; Saigon to State, 25 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
(119)CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18; Saigon to State, 5 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 332; Saigon to State, 26 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A.
(120)Saigon to State, 12 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
(121)Pentagon Papers, vol. 2, 434; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
(122)Johnson, Right Hand of Power, 437; Bui Diem, In the Jaws of Victory, 146–7.
(123)Nguyen Cao Ky, Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam (New York: St. Martin’s Press, 2002), 142; CIA, “Military Plans for a Revolutionary Government to Replace the Present Government of Vietnam,” 11 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35B; Saigon to State, 17 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 3, doc. 5; Saigon to State, 21 June 1965, DDRS, 1979, fiche 455B.
(124)memcon, 9 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 11 July 1965, LBJL, NSF, NSC History, DMUSF, box 43; memcon, 14 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 27 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 19.



0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website