CHÍNH KHÍ VIỆT

Wednesday, February 27, 2013

00052 TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ / HGTLT


00052  TỘI ÁC TẬP ĐOÀN MA ĐẠO GHPGVNTN ĐÔN HẬU - HUYỀN QUANG - QUẢNG ĐỘ 

 

 


 
VINH CON..... 
QUỶ CHÙA hý lộng giỏi vô ngần !
 
Vừa rớt nạ mang đã hiện thân
Õng ẹo lừa ni theo Cộng-sản.
Vuốt-ve dụ sãi bái Vô-thần.
Ă n chay ngủ gái đêm đêm lén.
Nhậu rượu tụng kinh bữa bữa mần.
Ái mộ bao người nay sáng mắt,
In như nằm mộng vẵng chuông ngân.
 
  
TDT, NOV-07-12
Ngô-Phủ

 


Hòa thượng Thích Quảng Độ: ”Hai dân tộc được thể hiện theo ý chí của Đức Khổng Phu tử : Tứ hải giai huynh đệ “.


Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
 
 
Ngày 28/6/2012; một bản tin, được cho là từ Thanh Mimh Thiền Viện, tại Sài Gòn, Hòa thượng Thích Quảng Độ đã phát đi “Lời kêu gọi toàn dân xuống đường ngày 1.7.2012 biểu tình chống xâm lược Trung Cộng”.
 
Như mọi người đã biết; từ rất lâu, người viết đã không muốn nhắc đến HT Thích Quảng Độ; bởi vì, theo một số người đã nói: “Dù sao, thì HT Thích Quảng Độ cũng đang chống Cộng”. Vì thế, nên người viết, vẫn âm thầm theo dõi về những việc làm “chống Cộng” của người đứng đầu “khối Ấn Quang” (Lời xác định của chính HT Thích Quảng Độ), mà không viết một dòng nào để nói về Hòa thượng Thích Quảng Độ.
 
Thế nhưng, cũng đúng vào ngày 1/7/2012, thì tại quốc nội đã có sự hưởng ứng “Lời kêu gọi của HT Thích Quảng Độ”, nên đã có những cuộc “biểu tình chống Trung Cộng-chống tham nhũng”, và có sự cho phép và bảo vệ của lực lượng Công an Cộng sản Việt Nam. Mặc dù, cũng được cho là “có nhiều người đã bị bắt, và cũng đã được trả tự do”.
 
Về những lời tuyên bố tiền hậu bất nhất của HT Thích Quảng Độ, người đã được người ta ca tụng: “Hòa thượng Thích Quảng Độ với tinh thần Vô Úy”; và đã có không biết bao nhiêu lần tuyên bố “nguyện đem thân làm ngọn đuốc soi đường” cũng như đã từng nhiều lần “tuyệt thực”; nhưng vẫn cứ sống khỏe mạnh, hồng hào như mọi người đều thấy, để ngài đã “chuyển hướng” từ “Lời kêu gọi Biểu tình tại gia, biểu dương lực lượng để giải thể chế độ Cộng sản”, rồi đến “Lời kêu gọi xuống đường ngày 1/7/2012, biểu tình chống Trung Cộng”.
 
Người viết xin lập lại, để mọi người hãy ghi nhớ một cách thật rõ ràng rằng: Chỉ chống Trung Cộng thôi, chứ không được chống Việt Cộng.
 
Như vậy, mọi sự trắng, đen đã quá rõ ràng, để cho những ai đã từng nói “HT Thích Quảng Độ đang chống Cộng” cũng như cũng từng cho là người viết “đánh phá” khối Ấn Quang, thì nên mở trí, mở mắt cho thật to để thấy, để biết mọi sự, chứ đừng nên cứ nhắm, bịt tai rồi phạm phải lời vọng ngữ.
 
Và, bây giờ, xin kính mời mọi người hãy công tâm, để suy xét những nguyên ý do chính Hòa thượng Thích Quảng Độ đã viết trong:
 
Thư được gửi đến Ông Khổng Huyễn Hựu, Đại sứ Trung quốc tại Hà Nội, bằng đường bưu điện VExpress bảo đảm có hồi báo”.
 
Người viết xin được bày tỏ những ý kiến về từng đoạn của chính HT Thích Quảng Độ đã viết như sau:
 
1- “Đẹp biết bao sự trao đổi và dung hóa văn minh cũng như đạo giáo Trung quốc vào Việt Nam làm cho tình nghĩa nhân loại của hai dân tộc được thể hiện theo ý chí của Đức Khổng Phu tử: Tứ hải giai huynh đệ”.
 
Cái “văn mimh cũng như đạo giáo của Trung quốc vào Việt Nam” có phải là những hủ tục đốt vàng mã cúng ma... nhất là ngày “Tết Đoan Ngọ” mà đa số người dân Việt đã không biết gì về cái ngày mùng 5 tháng 5 cả; vì ngày này, theo nhiều truyền thuyết khác nhau, nhưng chắc chắn bắt nguồn từ bọn giặc Tầu để thờ cúng Khuất Nguyên. Còn đạo giáo, là “đạo” nào, Bà-la-môn, Lão giáo, Phật giáo… ?
 
Ngoài những thứ được gọi là “văn minh” ấy, người ta còn thấy những tên tướng Tầu như: Hán Thọ Đình Hầu, Quan Thánh Đế Quân, tức Quan Văn Trường đã được thờ cúng ngay ở trong chùa Phật ?!
 
Còn “thể hiện theo ý chí của Đức Khổng Phu Tử: Tứ hải giai huynh đệ”:
 
 2- “Tứ hải giai huynh đệ” là một câu trong sách “Luận ngữ” của Khổng Tử, có nghĩa là bốn bể đều là anh em. Câu này, nó đã được biến thể thành “Thế giới đại đồng” của Chủ thuyết Cộng sản. Người viết tự biết rằng, không nên giải thích dông dài, vì ai cũng biết cả.
 
Nhưng điều cần phải nói là chính HT Thích Quảng Độ đã muốn nước Việt Nam phải biến mất, để dân tộc Việt sẽ chỉ còn là một sắc dân thiểu số của nước Tầu, là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Điều này, đã được chứng tỏ, không thể biện minh qua câu nói của chính HT Thích Quảng Độ: “Tứ hải giai huynh đệ” hay “Thế giới đại đồng”.
 
Nên nhớ, hơn 2500 năm trước Khổng Tử đã chết trong đau buồn; và lúc lâm chung, ông đã nói với các đệ tử:
 
“Suốt đời ta mơ một thế giới đại đồng, mơ về một xã hội trong đó mọi người thương yêu nhau, không dối trá, không trộm cắp, ra đường thấy của rơi không nhặt, tối ngủ không cần đóng cửa…”.
 
Những điều Khổng Tử đã mơ, như một kẻ mộng du với một thế giới đầy ảo tưởng, như những chuyện hoang đường, trong những câu chuyện thần thoại, không bao giờ trở thành hiện thực. Như thế, mà ngày nay, ở thế kỷ 21, mà HT Thích Quảng Độ cũng còn dám mơ như Khổng Tử, hay có lẽ HT chính là “hiện thân” của Khổng Tử đâu từ muôn kiếp trước !
 
3- “Thế nhưng các sự biến mấy năm qua làm cho chúng tôi ngỡ ngàng trước việc Cộng hòa Nhân dân Trung hoa áp dụng lại chính sách thực dân xâm chiếm của các triều đình đại Hán đã lỗi thời ở thế kỷ XXI, là thế kỷ của tương sinh và cộng tác quốc tế”.
 
Một ngàn năm dưới ách đô hộ của lũ giặc Tầu, với cả núi xương sông máu của tiền nhân của chúng ta đã hy sinh để giành giữ từng tấc đất; và ba mươi bảy năm qua với sự chiếm cứ của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt, với những hình ảnh của những tên giặc Tầu hiện đang có mặt tại các mỏ bauxite Tây Nguyên, vịnh Cam Ranh, Hải Phòng, Bình Dương… bọn giặc Tầu chưa và không bao giờ từ bỏ tham vọng bá quyền, đặc biệt là đối với đất nước Việt Nam. Như thế, mà HT Thích Quảng Độ lại có thể “ngỡ ngàng” trước sự chiếm cứ của bọn giặc Tầu trên đất nước Việt Nam ?!
 
Trí tuệ” của một “cao tăng” là ở chỗ đó!

4- “Chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được Phái đoàn Quốc gia Việt Nam do Thủ tướng Trần Văn Hữu dẫn đầu xác định tại Hội nghị San Francisco ở Hoa Kỳ năm 1951, và được 51 quốc gia phó hội đồng thanh biểu quyết thông qua. Sự phản đối của chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ đã bị 48 quốc gia bác bỏ. Ngoài xác định chủ quyền lịch sử của Việt Nam còn là sự công nhận quốc tế. Thế nhưng, từ năm 1974 dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, rồi qua các năm 1988, 1992 Trung quốc đã dùng vũ lực xâm lược Hoàng Sa và tám đảo ở Trường sa”.
 
Đến đoạn văn này, thì đã rõ ràng là HT Thích Quảng Độ đã phủ nhận chính mình không phải là một công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, khi không nhắc đến chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên quần đảo Hoàng Sa và cả Trường Sa từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa cho đến ngày 30/4/1975. Đồng thời, HT Thích Quảng Độ lại không hề nói tới cái bản văn của “Thủ tướng” Phạm Văn Đồng, đã nhân danh “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” gửi cho Chu Ân Lai của Trung cộng vào ngày 14/9/1958.
 
Những điều ấy, đã chứng minh rằng: Chỗ đứng của “Khối Ấn Quang” một là ở trong chế độ của miền Bắc; hai là đã ở trong chính phủ của tướng Nguyễn Khánh, người đá ký “ Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất" đã được chính tướng Nguyễn Khánh Ban hành theo sắc lệnh số 158/SL, ngày 14-5-1964 ; mà hiện thời là “Chính phủ” của “Quốc trưởng” Nguyễn Khánh, và “Thủ tướng” Nguyễn Hữu Chánh của "Chính phủ Việt Nam tự Do". Những điều này, không ai có thể biện giải.
 
Và, chẳng những HT Thích Quảng Độ không nói đến nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, mà cả Đệ Nhị  Việt Nam Cộng Hòa, HT cũng không nhắc tới; điều này, dễ hiểu, bởi vì vào mùa hè, 1966, “Khối Ấn Quang” đã đem bàn thờ Phật xuống đường để đòi “Thiệu-Kỳ phải từ chức”.
 
Nói tóm lại, HT Thích Quảng Độ đã xác định chính HT không phải là công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa.
 
Tuy nhiên, để trả lời cho những sự mờ ám đó, người viết, xin đưa lên những tấm hình cũ là những bằng chứng chủ quyền của nước Việt Nam Cộng Hòa, kể từ sau Hiệp định Genève ngày 20/7/1954, về Việt Nam, để cho những ai còn cố tình nhắm mắt trước những mưu đồ đen tối, như chính HT Thích Quảng Độ đã xác định: “Hợp tác đôi bên cùng có lợi, ông lợi cái này, tôi lợi cái kia…”:
 
Tổng Thống Ngô Đình Diệm thăm cù lao Lý Sơn, Hoàng Sa
 
 
 
 
Bia chủ quyền Hoàng Sa
 
 
Bia chủ quyền Trường Sa
 
 
 
 
Bia chủ quyền Trường Sa 1961
 
 
Nhưng chưa hết, vì những đoạn văn cuối "bức thư" của HT Thích Quảng Độ “Thư được gửi đến Ông Khổng Huyễn Hựu, Đại sứ Trung quốc tại Hà Nội…”, thì toàn là những lời lẽ van xin kẻ thù, và đã ngưỡng trông bằng những từ ngữ trân trọng bọn giặc Tầu là “Thưa Ngài Đại Sứ”.
 
Xin hãy nhớ và nên biết: Bất kể là tên Tầu nào, kể từ hàng vua quan, cho đến bây giờ, dù là “đại sứ” đến những tên cầm súng để xâm chiếm nước ta, tất cả lũ giặc Tầu chúng đều giống nhau hết. Và từ ngàn xưa, bọn giặc Tầu đã từng gọi người dân Việt là "Man di" là "Nam man", thì làm gì có chuyện “tình nghĩa giữa hai dân tộc” như HT Thích Quảng Độ đã viết; bởi chúng chỉ muốn biến đất nước Việt Nam như một Tân Cương, một Tây Tạng mà thôi.
 
Như vậy, xem ra, những kẻ đã và đang khấu đầu, phủ phục trước lũ giặc Tầu một cách vô cùng hèn hạ, đốn mạt để van xin lũ giặc Tầu đừng xâm chiếm nước ta, tất cả các người đều còn thua xa những đứa trẻ chăn trâu thất học, mà ngày xưa khi còn ở tại quê nhà, người viết vẫn thường nghe thấy, khi ngồi trên lưng trâu các em đã hát:
 
"Cái mặt thằng Tầu, thằng nào cũng như thằng nấy, thằng nào cũng dơ dáy, đuổi hết chúng nó đi về Tầu".
 
Hỡi những kẻ đã và đang quỳ gối trước kẻ thù phương Bắc; hãy lắng nghe và hãy học lấy những lời của các em mục đồng này, vì dù thất học, ngồi trên lưng trâu, song các em đã ý thức được rằng: "Cái mặt thằng Tầu, thằng nào cũng như thằng nấy, thằng nào cũng dơ dáy" chỉ có một cách duy nhất là "phải đuổi hết chúng nó đi về Tầu".
 
Cuối cùng, người viết muốn nói: Khi phủ nhận tất cả những sự ưu đãi của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, như cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã giúp đỡ tiền bạc cho HT Thích Trí Dũng xây dựng Nam Thiên Nhất Trụ (chùa Một Cột tại miền Nam) để nuôi giấu "Lực lượng Biệt động thành Sài gòn-Gia định, thuộc Lữ đoàn 316" của Việt cộng, và những chùa khác như: chùa Xá Lợi, chùa Ấn Quang, chùa Vĩnh Nghiêm… thì chính HT Thích Quảng Độ đã không biết “tôn sư trọng đạo”, vì không nhớ gì đến những lời của Đức Khổng Tử:
 
“Thọ ân mạc khả vong - Thọ ân bất báo phi quân tử - Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”.
 
Pháp quốc, 03/07/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
----------------------------------------------------------
 
* Lưu ý: Tất cả những bài viết của tác giả Hàn Giang Trần Lệ Tuyền, nếu quý vị nào muốn tiếp tay chuyển tiếp lên các Diễn Đàn Điện Tử, các trang Web trên mạng lưới toàn cầu thì không có điều gì trở ngại, chúng tôi chân thành cám ơn.
 
Tuy nhiên, nếu quý vị nào muốn in vào sách, báo có tính cách thương mại, xin vui lòng liên lạc để có sự đồng ý của tác giả trước, qua địa chỉ email: hangiangletuyen@gmail.com .
 
-------------------------------------------------------------------
 


Trạm khí tượng Itu Aba ở đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa (Văn kiện của tổ chức khí tượng thế giới (OMM) năm 1949
 

 
Lời tuyên bố của Đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị San Francisco (1951).
(Đăng trong tạp chí France-A’e số 66-67 Novembre-Décembre, 1951)
 
 
Sắc lệnh số 174-NV ngày 13/7/1961 của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đình Diệm
 
 
Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa
(1961)

 

Nghị định số 420-BNV/HCĐP/26 ngày 6 tháng 9 năm 1973 của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng Hoà


 
Trạm khí tượng Hoàng Sa của Việt Nam
(Văn kiện của tổ chức khí tượng thế giới (OMM) năm 1973
 

------------------------------------------------------

PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
E-mail :
pttpgqt@gmail.com



THÔNG CÁO BÁO CHÍ NGÀY 2.7.2012

Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ viết thư phản đối gửi Ông Đại sứ Trung quốc tại Hà Nội


2012-07-02 | | PTTPGQT
PARIS, ngày 2.7.2012 (PTTPGQT) - Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ viết bức thư phản đối Cộng hòa Nhân dân Trung hoa xâm lấn biển đảo và lãnh hải Việt Nam, lập lại “sự xâm lăng và chiếm đóng Việt Nam của các triều đình phong kiến Trung quốc”.

Thư được gửi đến Ông Khổng Huyễn Hựu, Đại sứ Trung quốc tại Hà Nội, bằng đường bưu điện VExpress bảo đảm có hồi báo.

Tuy ca ngợi “sự trao đổi và dung hóa văn minh cũng như đạo giáo Trung quốc vào Việt Nam làm cho tình nghĩa nhân loại của hai dân tộc được thể hiện theo ý chí của Đức Khổng Phu tử : Tứ hải giai huynh đệ”, nhưng Đức Tăng Thống “ngỡ ngàng trước việc Cộng hòa Nhân dân Trung hoa áp dụng lại chính sách thực dân xâm chiếm của các triều đình đại Hán đã lỗi thời ở thế kỷ XXI, là thế kỷ của tương sinh và cộng tác quốc tế”.

Đức Tăng Thống xác định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa “đã được Phái đoàn Quốc gia Việt Nam do Thủ tướng Trần Văn Hữu dẫn đầu xác định tại Hội nghị San Francisco ở Hoa Kỳ năm 1951, và được 51 quốc gia phó hội đồng thanh biểu quyết thông qua. (…) Thế nhưng, từ năm 1974 dưới thời Việt Nam Cộng hòa, rồi qua các năm 1988, 1992 Trung quốc đã dùng vũ lực xâm lược Hoàng Sa và tám đảo ở Trường sa”. Sự kiện xâm lấn cuối cùng là công nhiên mở thầu 9 lô dầu khí trên lãnh hải Việt Nam.

Đức Tăng Thống “mong mỏi Ngài Đại sứ sẽ để lại trong dòng lịch sử thế giới : người đã chận đứng sự chết thảm của nhân dân Trung quốc và nhân dân Việt Nam trong cuộc xâm lược vô vọng sắp tới theo chính sách bành trướng phi thời vụ của nhà cầm quyền Bắc Kinh, mà chắc chắn chỉ đưa tới thất bại”.

Sau đây là toàn văn bức thư nói trên :

 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
Thanh Minh Thiền Viện – 90 Trần Huy Liệu, Phường 15 Quận Phú Nhuận – Saigon


Phật lịch 2556
Số : 09/TT/VTT
 
Kính gửi Ngài Khổng Huyễn Hựu
Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa
tại Việt Nam
48 Hoàng Diệu
Hà Nội
 
Phật lịch 2556 - Saigon, ngày 28 tháng 6 năm 2012

Thưa Ngài Đại sứ,

Là Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, và đại diện cho Phật giáo đồ Việt Nam, tôi viết thư này gửi đến ngài nói lên nỗi âu lo và phẫn nộ của toàn dân Việt nói chung và Phật giáo đồ Việt Nam nói riêng.

Vấn đề nhạy cảm có tự nghìn xưa giữa hai dân tộc chúng ta, là sự xâm lăng và chiếm đóng Việt Nam của các triều đình phong kiến Trung quốc. Nhờ tinh thần tôn trọng lẽ phải và bảo vệ non sông của người Việt, nên đã bao lần dân Việt đẩy lùi quân xâm lược đại Hán, giữ vững chủ quyền và văn hiến Việt Nam.

Đẹp biết bao sự trao đổi và dung hóa văn minh cũng như đạo giáo Trung quốc vào Việt Nam làm cho tình nghĩa nhân loại của hai dân tộc được thể hiện theo ý chí của Đức Khổng Phu tử : Tứ hải giai huynh đệ.

Thế nhưng các sự biến mấy năm qua làm cho chúng tôi ngỡ ngàng trước việc Cộng hòa Nhân dân Trung hoa áp dụng lại chính sách thực dân xâm chiếm của các triều đình đại Hán đã lỗi thời ở thế kỷ XXI, là thế kỷ của tương sinh và cộng tác quốc tế.

Không nói, hẳn ngài Đại sứ vẫn không thể chối cãi việc hàng nghìn công nhân Trung quốc hiện hữu ở vùng yết hầu quân sự Tây nguyên Việt Nam để khai thác bô-xít, mà thảm nạn trước tiên mang đến cho nhân dân Việt Nam ở Cao nguyên, nam Trung bộ và Nam bộ là đại nạn sinh thái.

Hai Hiệp ước lãnh thổ và lãnh hải ký kết giữa Bắc Kinh và Hà Nội năm 1999 và 2000 đã cho phép Trung quốc lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam trên hàng nghìn cây số vuông.

Chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được Phái đoàn Quốc gia Việt Nam do Thủ tướng Trần Văn Hữu dẫn đầu xác định tại Hội nghị San Francisco ở Hoa Kỳ năm 1951, và được 51 quốc gia phó hội đồng thanh biểu quyết thông qua. Sự phản đối của chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ đã bị 48 quốc gia bác bỏ. Ngoài xác định chủ quyền lịch sử của Việt Nam còn là sự công nhận quốc tế. Thế nhưng, từ năm 1974 dưới thời Việt Nam Cộng hòa, rồi qua các năm 1988, 1992 Trung quốc đã dùng vũ lực xâm lược Hoàng Sa và tám đảo ở Trường sa.

Bao năm qua, ngư dân Việt Nam đã bị Trung quốc bắt bớ, giết chóc, đòi tiền chuộc, biến ngư dân Việt thành bia đỡ đạn trước âm mưu xâm lược Biển Đông.

Gần đây nhất, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc ngang nhiên mở thầu thăm dò dầu khí ở chín lô trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam. Nói cho rõ thì các lô dầu khí này chỉ cách bờ biển Việt Nam 76 hải lý ở bờ biển Quảng Ngãi, 57 hải lý cách Nha Trang và Phan thiết, và 37 hải lý cách đảo Phú Quốc, nằm trong một tổng diện tích trên 160 nghìn mét vuông.

Tiếc thay, báo chí Trung quốc còn phụ họa trong vấn đề cưỡng bức xâm lược Việt Nam theo chính sách bất thường và phi nhân của Bắc Kinh. Chẳng đại biểu cho tình cảm “tứ hải giai huynh đệ” của nhân dân Trung quốc. Ngày xưa nhân dân Trung quốc khốn đốn và chết chóc thảm thương trong những cuộc trường chinh gọi là Nam phạt, thì ngày nay dưới chủ nghĩa Cộng hòa Nhân dân, nhân dân Trung quốc vẫn tiếp tục chịu cảnh tang thương đau khổ trong mưu đồ xâm lược bất chính của nhà cầm quyền Bắc Kinh trên biển và đất Việt Nam.
Thưa Ngài Đại sứ,

Hẳn nhiên ngài là người đại diện của Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung quốc, ngài phải thi hành quốc sách của nước ngài, tuy nhiên ngài còn là một nhà trí thức lớn, đại biểu cho nền văn hiến Trung quốc có tuổi thọ nhiều nghìn năm được thế giới ngưỡng mộ. Tôi hết lòng mong mỏi ngài biết lắng nghe tiếng kêu trầm thống của gần chín mươi triệu người dân Việt đang khắc khoải lo âu trước cảnh nhà tan, nước mất, như chính nhân dân Trung quốc đã luân hiểm đau thương như thế vào thế kỷ XIX khi các nước ngoại quốc xâm lăng Trung quốc.

Tôi mong mỏi ở cương vị đại biểu cho nền văn hóa thanh cao nhiều nghìn năm của Trung quốc, ngài phản ảnh nỗi lòng người dân Việt lên chính quyền nước ngài để chận đứng mưu đồ xâm lược đất và biển Việt Nam. Ngày xưa Sử gia Tư Mã Thiên không vì bị triều đình phong kiến phế thân bóp méo dòng lịch sử mà vẫn quyết tâm viết theo sự thật. Ngày nay, tôi mong mỏi Ngài Đại sứ sẽ để lại trong dòng lịch sử thế giới : người đã chận đứng sự chết thảm của nhân dân Trung quốc và nhân dân Việt Nam trong cuộc xâm lược vô vọng sắp tới theo chính sách bành trướng phi thời vụ của nhà cầm quyền Bắc Kinh, mà chắc chắn chỉ đưa tới thất bại.

Trân trọng kính chào Ngài.
Saigon, Thanh Minh Thiền Viện
Đệ Ngũ Tăng Thống
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
 

0 comments:

Post a Comment

 

Subscribe to our Newsletter

Contact our Support

Email us: Support@templateism.com

Thành Viên của Website